← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XIV DÙNG TIẾNG ĐỊA PHƯƠNG

1.- Tiếng Việt đã được thống nhất.

2.- Nên dùng các tiếng địa phương.

1

Tiếng Việt đa thống nhất từ ngàn xưa vì lẽ dân tộc ta đã thống nhất từ đời Đinh; dầu sau ta tiến lần vào Trung, Nam, do sự tiếp xúc với Chiêm và Miên, tiếng nói có thay đổi đi chút ít, nhưng vẫn là một gốc. Vả lại dân tộc ta chỉ là một giống người chứ không như dân tộc Pháp do nhiều giống: Franc, Normand, Celte, Germain... hợp lại.

Vì vậy, tuy ta có hai giọng: giọng Bắc và giọng Nam (ở Trung Việt từ Huế trở ra, giọng hơi giống Bắc, từ Quảng Nam trở vào, giọng hơi giống Nam) nhưng hầu hết những tiếng thì ở đâu cũng như nhau. Một bác nông phu ở Sơn Tây, nói chuyện với một chú tá điền ở Long Xuyên chẳng hạn, 2 người có thể không hiểu hết lời nhau, nhưng vẫn hiểu nhau và nếu họ viết ra mà cùng trúng chánh tả thì trong 100 tiếng khác nhau chỉ 6-7.

Như đoạn dưới đây tôi trích trong truyện ngắn Một đám cưới (Phổ thông bán nguyệt san -1944) hoàn toàn là lời một người đàn bà nhà quê Bắc-Việt, nếu ta đưa cho một nông phu Nam Việt đọc thì chắc họ đoán được hết ý nghĩa:

“Thưa ông, ông đã có lòng thương đến cháu mà xét ra, như thế này thì thật ông thương quá, thương mọi nhẽ, cái gì ông cũng châm chước đi cho cả, khiến chúng tôi cảm tạ cái bụng ông mà lại lấy làm xấu hổ về cái cách chúng tôi xử lắm. Chúng tôi xử thế này thật quả là không phải. Nhưng lạy Giời! Lạy Đất! Chúng tôi cũng muốn nghĩ thế nào kia, nhưng ông Giời ông ấy chỉ cho nghĩ đến thế thôi, thì cũng phải rầu lòng mà chịu vậy. May sao mà lại được ông thương, người ta thì còn bảo chín bỏ làm mười, chứ như ông thì thật một bỏ làm mười mà không được một cũng bỏ làm mười. Có vậy thì việc của cháu mới xong xuôi được. Giá phải bố vợ như bố vợ nhà khác, nhất nhất cái gì cũng bắt đủ lề lối, thì nhà như nhà chúng tôi lấy gì mà lo được? Ắt là cháu suốt đời không có vợ. Nhưng phúc làm sao lại gặp được ông bố vợ thương con rể như ông thì có phải ông Giời ông ấy cũng còn thương nhà chúng tôi lắm không?

Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng xỉn biện cơi giầu đến kêu với ông để ông cho cháu được lễ các cụ, trước là lễ gia tiên, sau là lễ bà nhà ta, sau nữa ông lại cho cháu lễ sống ông... rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn”.

(Nam Cao).

Trừ vài tiếng như biện, xấu hổ... hơi lạ tai cho đồng bào Nam Việt, mà nghĩa có thể đoán được, còn thì toàn là những tiếng dùng chung từ Bắc tới Nam. Đâu có như ở Pháp mà tiếng ở Provence khác xa tiếng ở Lorraine[1].

Nếu bảo chính vì những tiểu dị ấy mà tiếng Việt chưa được thống nhất thì thật vô lý. Ngay ở Nam Việt, cũng có những tiếng chỉ dùng ở tỉnh này mà không dùng ở tỉnh khác, như:

Long Xuyên nói khoai lang nấu - Rạch Giá nói khoai lang luộc

Long Xuyên nói trái mận đỏ - Cần Thơ nói trái lý

Long Xuyên nói trái cốc - Tỉnh khác nói xoài tây.

Có lẽ nào những tiểu dị đó mà ta bảo rằng tiếng Nam Việt cũng không được thống nhất nữa?

2

Tuy Việt ngữ vẫn thống nhất nhưng vì từ trước chưa có một tự điển nào được dùng trong khắp quốc dân, chánh tả và ngôn ngữ chưa được quy định đàng hoàng, nên ai muốn viết sao thì viết. Do đó có nhiều tiếng dùng sai và nhiều tiếng thừa.

Những tiếng dùng sai như: kiêu ngạo, bộ hiềng, quá giang. Kiêu ngạo là tiếng Hán Việt có nghĩa là kiêu căng, ngạo ngược, không nên dùng với nghĩa chế nhạo. Bộ hiềng, do bộ hành đọc trại, chỉ người đi bộ, vậy không được nói: “khách bộ hiềng trên xe đò này được bao nhiêu người?”. Quá giang là đi nhờ thuyền qua khúc sông, bây giờ đi nhờ xe cũng kêu là quá giang.

Những tiếng thừa như: chứ hoặc chớ; thư hoặc thơ, thiệt hoặc thực, thật...

Hư Chu trong bài Bàn về cách dùng chữ (Việt Thanh ngày 1-9-52) đã đề nghị như sau này để tiếng Việt thêm minh bạch:

“Chứ và chớ. “Chứ” nghĩa là mà nào như trong câu: “Trời nổi gió lớn chứ đâu phải bão”, nghĩa là phải chăng trong câu: “Đời hết loạn rồi chứ?”, nghĩa là sao như trong câu: “Chứ mày chưa tỉnh mộng ư?”, nghĩa là mới được như trong câu: “Ta quăng bút đi đề mài gươm chứ!”.

Chớ có hết thảy nghĩa của chứ, lại gồm thêm cái nghĩa đừng, như trong câu: “Người nên gượng cười mà chớ nên khóc”.

Nhưng nếu ta có thói quen hay dùng chữ chớ thì ta sẽ bị hiểu lầm với câu này: “Anh xuống Long Xuyên chơi chớ không nên ở lại lâu”. Các bạn thử xem có phải câu này có hai nghĩa trái ngược? Hiểu chữ chớ là mà thì không nên ở lâu. Còn hiểu chữ chớ là đừng thì là đừng không nên ở lâu, nghĩa là nên ờ lâu vậy.

Âu từ nay chúng ta chớ cho chữ chớ nó có nghĩa của chữ chứ và chỉ cho nó cái nghĩa đừng mà thôi”.

Cũng do lẽ ấy, ông lại đề nghị:

1.- Dùng tiếng thiệt trong nội một nghĩa thiệt thời, để dành nghĩa thiệt thà cho tiếng thật, còn tiếng thực thì dùng trong những tiếng kép Hán Việt (thành thực, thực nghiệm, thực tế...).

2.- Dùng tiếng thi trong nghĩa thi cử và trong những tiếng kép Hán Việt như thi tứ, thi bá, thi thánh, thi ca... dùng chữ thư trong nghĩa sách vở hoặc thư tín, còn tiếng thơ thì nên tước bớt nghĩa thư tín, chỉ giữ một nghĩa: bài thơ có vần.

3.- Bỏ tiếng đặng đi vì đã có tiếng để và tiếng được rồi.

4.- Dùng tiếng lụy với một nghĩa phiền phức mà đừng viết lụy nhỏ để chỉ rằng lệ rỏ.

Bàn như vậy rất xác đáng, nhưng chưa hết vấn đề. Vậy tôi xin tiếp lời.

Văn cầu minh bạch, nhưng cũng cần phải êm đềm, khêu gọi, mà dụng ngữ càng phong phú bao nhiêu, người cầm viết càng có nhiều phương tiện bấy nhiêu.

Ở trong chương trên tôi đã nói những tiếng hoàn toàn đồng nghĩa với nhau như hết, cả, nhưng, song, đặng, được... giúp ta tránh lỗi điệp tự hoặc điệp âm.

Lại có những tiếng tuy nghĩa giống nhau, nhưng thanh âm khác nhau nên giá trị cũng khác. Như hai tiếng hoài và tiếng mãi. Mãi tôi nghe mạnh hơn hoài vì mãi là trắc, hoài là bằng. Khi làm thơ, bạn cần một tiếng bằng thì dùng tiếng hoài, cần một tiếng trắc thì dùng tiếng mãi. Bỏ đi một tiếng (tiếng hoài chẳng hạn vì nó đã có cái nghĩa là nhớ (cảm hoài), là phí (hoài của) là thêm một nỗi khó cho nhà văn. Vả lại bạn thử tưởng tượng nếu trong 2 tiếng ấy, bỏ một thì văn thơ của ta có được bài thơ “Mưa” sau này không?

Mưa mãi mưa hoài!

Lòng biết thương ai!

Trăng lạnh về non không trở lại...

Mưa chi mưa mãi mãi!

Lòng nhớ nhung hoài!

Nào biết nhớ nhung ai!

Mưa chi mưa mãi!

Buồn hết nửa đời xuân!

Mộng vàng không kịp hái.

Mưa mãi mưa hoài!

Nào biết trách ai?

Phí hoang đời trẻ dại,

Mưa hoài mưa mãi!

Lòng biết tìm ai!

Cảnh, tưởng đầy nơi quan tái.

(Lưu Trọng Lư)

Hai tiếng mãi và hoài láy đi láy lại, đảo lên đảo xuống, thánh thót trong lòng ta như giọt tiêu một đêm thu.

Mỗi tiếng sinh trưởng ở một miền nào đó như pha chút màu sắc của trời, nước miền ấy, đượm chút hương thơm của cỏ cây miền ấy. Đọc những tiếng “chán phè, bầm anh ở nhà thức giấc, lẵng nhẵng không ai chịu được, cái anh nỡm này, say rượu bí tỉ, tôi kệch đến già, thằng đoản quá, ngữ ấy làm gì nổi ai, đem giấy lên tường phủ, ông phang hụt một gậy...” tôi phảng phất ngửi thấy mùi bông xoan và mờ mờ trông thấy những tà áo nâu non ở đồng quê Bắc Việt:

Nghe những câu:

Ra về nguyệt lặng sao thưa,

Dứt tình tại bậu, anh chưa tiếng gì.

Xa xuôi đi nỏ đến nơi,

Gởi thơ e lậu, gởi lời e quên.

nhất là:

Quý răng, quí ra rứa?

Ăn có được mô mà?

Nhưng trong cõi người ta.

Chi cũng tiền đi trước,

Chi cũng trự (chữ) tiền đi trước.

Tôi liên tưởng tới những chiếc nón bài thơ nghiêng nghiêng bên dòng sông Hương hoặc dưới chân núi Ngự. Văng vẳng bên tai tôi đương có tiếng ru con:

Má ơi, chớ đánh con hoài,

Đề con câu cá nấu xoài má ăn,

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc,

Đất nào dốc bằng đất Nam Vang.

Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ,

Có một mẹ già biết bỏ ai nuôi?

Đó không phải chỉ là một tiếng nói mà thôi. Đó còn là một nền trời trong vắt với những ngọn sao, ngọn gòn, cả một cánh đồng mênh mông đầy những kinh, rạch, cả một không khí thơm tho những hương mù u, trứng sấu.

Nhưng ta cũng chỉ nên dùng những tiếng địa phương một cách vừa phải. Chẳng hạn những tiếng: nỏ (không), đam (đem), bậu (em, mày)... có thể đắc thế trong các bài thơ, các đoạn đối thoại... mà trong một bài kí sự, nghị luận thì lại làm cho văn có giọng cầu kỳ hoặc nhà quê.

Tóm lại, theo thiển ý, rất ít tiếng hoàn toàn vô ích lắm. Trong một cuốn Việt Nam tự điển đầy đủ, phải ghi những tiếng địa phương và muốn điển chế ngôn ngữ để bỏ bớt một số tiếng hoặc một vài nghĩa của một tiếng đi, ta phải phân biệt như vầy:

Những tiếng tuy viết hơi khác nhau, nhưng kỳ thực chỉ là một, như: điện, điển; thư, thơ; chứ, chớ; hôn, hun..., ta có thể bỏ bớt đi được như Hư Chu đã đề nghị.

Khi có 2-3 tiếng để chỉ một vật như: muỗng, cùi dìa; quả trầu, tráp giầu; bình trà, ấm chè..., thì nên lựa lấy một tiếng làm chánh thức, còn những tiếng khác thì ghi lại làm tiếng địa phương.

Bạn bảo như vậy sẽ lần lần mất những tiếng trong loại sau và nhà văn sẽ thiếu phương tiện để sáng tác.

Thưa cũng có lẽ vậy. Nhưng công việc điển chế ngôn ngữ[2] vẫn là quan trọng hơn, nên nếu cần phải hy sinh những tiếng địa phương thì ta cũng đừng do dự. Song, theo tôi, dù điển chế ngôn ngữ thì những tiếng ấy vẫn không thể mất hết được. Trong các công văn, hoặc các sách giáo khoa, chúng ta sẽ dùng những tiếng chính thức, còn trong chuyện thường ngày thì dân gian chắc vẫn còn dùng những tiếng trong miền của họ. Vậy ta đừng sợ sau này nhà văn sẽ thiếu tiếng địa phương để dùng.

- Những tiếng nghĩa y như nhau, nhưng viết khác nhau hẳn mà lại thường gặp trong văn thơ, như: nhưng, song; hết, cả; nước mắt, lệ...

- Những tiếng nghĩa hơi giống nhau mà viết khác nhau như. ổ, tổ, bánh chưng, bánh tét, hoài, mãi...

Hai loại sau này nên để hết.

Và khi viết văn, bạn phải có một dụng ngữ thiệt phong phú, phải biết tùy chỗ mà dùng những tiếng địa phương cho thêm màu sắc, lại nên lựa những tiếng đồng nghĩa thay lẫn nhau cho lời thêm êm đềm hoặc thêm mạnh mẽ và bớt được những lỗi điệp tự, điệp âm.

Tuy vậy, dụng ngữ phong phú, chưa chắc văn đã hay đâu. Cần nhất là cá tính của bạn. Bạn có sôi nổi thì văn bạn mới hùng hồn, có mơ mộng thì lời mới nên thơ, có sâu sắc thì ý mới thâm trầm, có đa cảm thì giọng mới lâm ly… Nhưng đó không thuộc về phép luyện văn, chúng tôi không bàn tới.

TÓM TẮT

1.- Tiếng Việt đã thống nhất từ lâu rồi, không như những tiếng Ấn, Hoa… Nhưng bất kỳ nước nào cũng có những tiếng địa phương và ta nên giữ nó vì nó giúp cho văn của ta linh động, nhiều màu sắc.

2.- Tuy vậy, khi hai tiếng gần như nhau, như chứ, chớ; thi, thư, thơ; thực, thiệt, thật… thì nên bỏ bớt một tiếng hoặc tước bớt nghĩa của nó đi cho văn thêm minh bạch.

Chú thích:

[1] Tiếng Pháp có trên 10 thổ ngữ: Gasson, Provençal, Breton, Lorrain, Limousin, Normand v.v… Vì lẽ ấy một người Basque và một người Limousin nếu dùng thổ ngữ thì không hiểu được nhau, cũng gần như một người Vân Nam nói với một người Bắc Kinh, hoặc một người Ấn ở Népal nói với người Ấn ở Ceylan.

[2] Công việc ấy đã được đề xướng trong tờ tuần báo Mới bắt đầu từ số 1 ra ngày 22-11-52.