← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V THỨ TỰ TRONG CÂU

1.- Ít nhận xét chung về thứ tự từng chữ và từng vế.

2.- Thứ tự của từng loại chữ.

Động từ - Bổ túc ngữ - Tình từ - Trạng từ.

3. Thứ tự của các vế.

Giọng lên xuống của mỗi câu.

Câu vế bằng nhau

Câu vế dài ngắn khác nhau nhưng cân đối.

Câu vế ngắn ở sau. Câu vế dài ở sau.

4.- Đừng ép nội dung theo hình thức.

Biết rõ nghĩa mỗi chữ để dùng cho tinh xác rồi lại phải biết cách sắp đặt chữ; vì nếu sắp sai chỗ, đáng đặt trên lại đặt dưới, hoặc ngược lại thì chẳng những giá trị của chữ có thể giảm mà ý nghĩa cũng có thể thay đổi. Do lẽ đó, ta cần xét thứ tự trong câu.

Ta nên phân biệt thứ tự của từng chữ và thứ tự của từng vế.

Thứ tự của mỗi chữ thay đổi nhiều hay ít tùy tính cách riêng biệt của mỗi ngôn ngữ. Như trong tiếng La Tinh, thứ tự đó thật mềm dẻo, có nhiều cách đảo lên đảo xuống, nhờ vậy văn chương rất tế nhị; còn tiếng Pháp, nhất là tiếng Việt, thứ tự cứng rắn hơn, nên văn chương dễ được sáng sủa.

Về thứ tự từng nhóm, từng vế, ta nhận thấy rằng:

- Ta có thể diễn theo thứ tự tiếp xảy ra của việc hoặc ý, thí dụ:

Tôi lại thăm anh X, thấy anh ấy đương bận nhiều việc, nên tôi nói chuyện qua loa ít câu rồi cáo từ.

Thứ tự đó không phải là cần thiết, bắt buộc mà nhiều khi cũng không có lợi, và nhiều người thường nói:

Tôi lại thăm anh X, nhưng chỉ nói chuyện qua loa ít câu rồi cáo từ vì thấy anh ấy đương bận nhiều việc.

- Hoặc diễn theo thứ tự quan trọng của mỗi ý:

Đau đớn thay, phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Trong câu sáu, Nguyễn Du đảo những chữ đau đớn thay lên trên, để [1] nhấn mạnh vào nó, cho lời của nàng Kiều thêm ai oán.

Văn phạm Pháp cho phép đặt chữ quan trọng xuống cuối câu, như:

Venait derrière - avec les coussins, les oreillers, les tobourets, M. des Lourdines.

(A. de Chateaubriand)

Đáng lẽ ba chữ M. des Lourdines phải đặt ở đầu câu, nhưng tác giả đưa xuống cuối để người đọc có cảm tưởng là trông thấy ông des Lourdines lễ mễ ôm đồ tới sau cùng.

Các nhà văn của ta thời này hay bắt chước cách phô diễn của người Pháp, nhưng tôi chưa thấy ai áp dụng lối đảo ngữ như vậy. Có phải tại Việt ngữ không có lối đặt chủ từ sau động từ không? Không, vì ta vẫn nói: Tới phiên anh. Rớt chiếc đũa. Thực là khó hiểu! Theo tôi, có lẽ chỉ bởi nguyên do Việt ngữ có tính cách rất sáng sủa, không dung túng một sự hiểu lầm nào cả. Nói:

Tới sau với những nệm, gối, ghế đẩu, ông des Lourdines

thì người nghe có thể hỏi: Ai tới sau ông des Lourdines? Chứ không thể hiểu rằng chính ông ấy tới sau.

Nhưng nếu trong thơ, bạn đảo ngữ như Vũ Hoàng Chương:

Ấy là người tự ném, để trôi theo

Dòng thác lũ, cả thanh danh một thuở.

thì lại được vì nghĩa vẫn rõ ràng.

Tuy nhiên, tôi nhận rằng cách giảng giải của tôi chưa thật xuôi, và các nhà ngôn ngữ học cũng nên nghiên cứu, phân tích những đặc điểm như vậy của tiếng Việt.

Muốn diễn ý tế nhị của A. de Chateaubriand ta phải viết sao?

Một người tới sau, với mền, gối, ghế đẩu, đó là ông des Lourdines

Đã lôi thôi mà cũng chưa thật đúng, vì câu đó chỉ là dịch đúng câu này của Pháp thôi:

Un homme venait derrière - avee les coussins, les oreillers les tobourets, c’était M. des Lourdines

hay là:

Ôm nệm, gối, ghế đẩu, ông des Lourdines tới sau cùng

cũng chỉ mới là gần được.

So sánh Việt ngữ với ngoại ngữ, tìm những tế nhị của người rồi rán diễn ra Việt ngữ, đó cũng là một cách luyện văn và làm cho tiếng mình thêm phong phú.

*

Tính cách căn bản của Việt ngữ là nói xuôi. Chủ từ đứng trước động từ: Tôi làm, anh nghỉ; tiếng chỉ định đi theo tiếng được chỉ định: Con ngựa trắng, cuốn sách đẹp, X đi nhanh, Y đi chậm; tiếng bổ túc đi theo tiếng được bổ túc: Tôi bắt chim. Bò ăn cỏ.

Tuy nhiên tính cách đó không phải là nhất định.

Vị trí của động từ

Có khi muốn nhấn mạnh vào động từ, ta cho nó đứng trước chủ từ:

Vo ve tiếng muỗi

Nổ một trái bom và sụp tám căn nhà

Nhưng khi ta viết:

Tới phiên anh

thì động từ tới đứng trước chủ từ phiên không vì lí do nhấn mạnh. Trái lại là khác, vì viết xuôi:

Phiên anh tới

Mới là có ý nhấn mạnh vào chữ tới. Tại sao vậy nhỉ?

Lạ lùng hơn nữa là ta nói:

Tới phiên anh

hay Phiên anh tới

đều được; mà chỉ nói:

Còn lại ba trăm đồng

chứ không nói:

Ba trăm đồng còn lại

nói như vậy nghe chưa hết câu, phải thêm, chẳng hạn:

Ba trăm đồng còn lại, anh giữ lấy

hoặc:

Ba trăm đồng còn lại, đem chia nhau mà xài

Thể là nghĩa là sao? Khó hiểu!

- Vị trí của bổ túc ngữ (bổ từ).

Bổ túc ngữ chỉ trường hợp đứng trước hay sau động từ đểu được cả:

Thờigian: Hôm qua tôi lại chơi anh ấy.

Tôi lại chơi anh ấy hôm qua.

Nơi chốn: Chúng tôi trồng một cây xoài tại giữa săn.

Tại giữa sân, chúng tôi trồng một cây xoài.

Cách thức: Tôi làm việc siêng năng

Tôi siêng năng làm việc

Bổ túc ngữ chỉ vật luôn luôn đứng sau động từ. Tôi trọng anh. Nó đọc sách.

Nếu có hai bổ túc ngữ, một chỉ vật, một chỉ sở thuộc thì bổ túc ngữ chỉ sở thuộc phải đặt trước bổ túc ngữ chỉ vật:

Tôi biếu anh X bộ Việt Pháp tự điển.

Ta không thể viết:

Tôi biếu bộ Việt Pháp tự điển anh X.

Muốn đặt anh X ở cuối câu ta phải đổi một chút.

Tôi đem bộ Việt Pháp tự điển biếu anh X.

nhưng như vậy nghĩa đã hơi khác: ý trong câu hiện trên động từ đem hơn là trên động từ biếu.

Thí dụ khác. Ta nói:

Tôi đánh nó năm roi.

chứ không nói:

Tôi đánh năm roi nó.

Tính cách nhất định của vị trí các bổ túc ngữ trong tiếng Việt có chỗ bất tiện. Khi bổ túc ngữ chỉ sở thuộc dài hơn bổ túc ngữ chỉ vật, thì câu văn viết theo lối xuôi, đọc lên sẽ hơi khó nghe:

Ông Xuân đánh thằng con ngỗ nghịch đã trốn học và ăn cắp tiền của bạn bè ấy năm roi (a)

(Tôi cho cả cái nhóm: thằng con ngỗ nghịch đã trốn học và ăn cắp tiền của bạn bè ấy: là bổ túc ngữ)

Pháp ngữ mềm dẻo hơn, cho phép đảo:

Monsieur Xuân donne cinq coups de rotin à cet enfant indiscipliné qui a fait l’école buissonnier et volé l’argent de ses camarades.

Muốn cho khỏi khó nghe, ta phải đổi chẳng hạn:

Ông Xuân đã đánh thằng con ngỗ nghịch ấy năm roi: nó đã trốn học và ăn cắp tiền của bạn bè. (b)

hoặc:

Thằng con ngỗ nghịch đã trốn học và ăn cắp tiền của bạn bè ấy, bị ông Xuân đánh cho năm roi (c).

nhưng trong hai lối phô diễn đó, nghĩa đều hơi khác với câu đầu. Câu đầu (a) nhấn vào hình phạt; câu (b) nhấn vào nguyên do của hình phạt; còn câu (c) nhấn vào tính tình ngỗ nghịch của đứa nhỏ.

- Vị trí của tính từ là ở sau danh từ: ngựa trắng, áo xanh. Nhưng nhiều khi ta phải dùng những tiếng Hán Việt và phải theo văn phạm Trung Hoa, đặt tính từ trước danh từ: bạch mã, thanh y.

Một con ngựa trắng, một con oanh vàng, hay một con bạch mã, một con hoàng oanh, thì nghĩa cũng y như nhau; song một hiền nhân và một người hiền, thì nghĩa đã có hơi khác, người hiền ý có phần nhẹ hơn hiền nhân; và nếu ta nói một người rất hiền, thì hiền ở đây chỉ có nghĩa là hiền lành, chứ không còn chút nghĩa hiền triết trong hiền nhân nữa. Đến như lầm một cô áo xanh với một ả thanh y thì lôi không thể tha thứ (Thanh y chỉ đầy tớ gái ngày xưa, vì thời cổ, bên Tàu, đầy tớ gái thường mặc áo xanh), cũng nặng như lầm une femme sage với une sage-femme.

Ông Nguyễn Bạt Tụy chủ trương bỏ hẳn văn phạm Trung Hoa mà nhất thiết viết xuôi theo đặc tính của Việt ngữ chẳng hạn: Văn học sử Trung Quốc thì viết là Sử Văn học Trung Quốc, nhược điểm viết là điểm nhược, trọng điểm viết là điểm trọng.

Đề nghị đó cững có lí và nên theo, song những tiếng như hiền nhân và thanh y tất phải để nguyên trạng, cho Việt ngữ khỏi nghèo nàn chứ? Hay là thêm gạch nối để phân biệt người-hiền (có gạch nối, tức người hiền triết) với người hiền (không gạch nối, tức người hiền lành), chị áo-xanh[2] (có gạch nối, tức đầy tớ gái thời xưa) với cô áo xanh (không gạch nối, tức cô bận chiếc áo màu xanh)? Vấn đề đó còn nhiều điểm rắc rối cần xét kĩ.

- Vị trí của trạng từ. Trạng từ thường đứng sau động từ:

Tôi dậy sớm. Nó học giỏi

nhưng cũng có khi đứng trước, nghĩa có phần mạnh hơn.

Trong những câu:

Y giỏi nói mà không giỏi làm. (a)

Anh Xương hấp tấp đi. (a)

Bà Mai vụng tính (a)

ta nhấn vào các trạng từ giỏi, hấp tấp, vụng hơn là vào các động từ, nên có ý khác với những câu:

Y nói giỏi mà làm không giỏi.

Anh Xương đi hấp tấp.

Bà Mai tính vụng.

Chúng ta đều biết rằng trong bất kì ngôn ngữ nào, những tiếng quan trọng nhất trong câu là những tiếng chỉ động tác (động từ) hay cái thể, hình trạng, tính cách (tính từ) của chủ từ.

Anh trồng cây.

Tôi nhớ nhà

Sách này đẹp

Con thú đó dữ

Mà trong những câu (a), những tiếng giỏi, hấp tấp, vụng giữ địa vị quan trọng hơn cả, nên tôi muốn sắp nó vào loại động từ hoặc tính từ, chứ không vào loại trạng từ. Phân tích như vậy có lẽ hợp với tính cách xuôi của Việt ngữ hơn.

Trong cuốn Để hiểu văn phạm, tôi đã nói những trạng từ gốc Hán như cực, thậm, chí, tối... phải theo văn phạm Trung Hoa mà đứng trước động từ hoặc tính từ:

Nó cực thông minh mà em nó thậm ngu.

Ông ấy chí hiếu.

Việc ấy tối khẩn.

Chữ lắm luôn luôn đứng sau tính từ, do lẽ đó ta thường thấy nó ở cuối câu và làm cho hơi văn hóa đuối:

Tôi thích cuốn đó lắm.

Trong trường hợp đó, ta nên dùng chữ rất, nghĩa không khác là bao mà hơi văn được mạnh:

Tôi rất thích cuốn đó.

Nhiều nhà văn, bắt chước cách hành văn của Pháp đảo vị trí của một số trạng từ để nhấn mạnh vào nó.

Ví dụ: Julés Renard viết:

Eugénie levait sur son père ses beaux yeux bleus, douloureusement.

Ta cũng có thể viết:

Nàng ngước cặp mắt xanh đẹp đẻ lên nhìn cha, một cách đau đớn.

Victor Hugo có câu:

Car elle est quelque part dans la maison, sans doute!

mà ta nên dịch như vầy:

Vì nàng ở chỗ nào đó trong nhà, chắc vậy!

cho sát nghĩa hơn là dịch:

Vì có lẽ nàng ở chỗ nào đó trong nhà.

*

Trừ những câu ba bốn tiếng, hoặc những câu tỏ sự giận dữ, buồn rầu, còn bình thường thì mỗi câu nói của ta như một đợt sóng, giọng lên tới một mức nào đó rồi xuống.

Ví dụ khi tôi nói:

Ngày mai anh nhớ lại thăm tôi nhé.

hoặc:

Đừng trèo lên cây, chủ nhà cấm đấy.

thì trong câu trên, giọng lên cho đến tiếng nhớ rồi xuống và trong câu dưới, giọng lên cho đến tiếng cây rồi xuống.

Luật đó ảnh hưởng lớn đến sự sắp đặt các vế trong câu.

Khi hai vế dài bằng nhau, sự sắp đặt tùy nghĩa trong mỗi vế. Như:

Cha nào con nấy.

Có công mài sắt, có ngày nên kim.

Đời cha ăn mặn, đời con khát nước

Mỗi câu có hai vế số chữ ngang nhau, không có lí do gì cho ta đảo ngược những vế dưới lên trên được.

Những câu cân đối rất mực như vậy, nếu không phải là ca dao, tục ngữ, châm ngôn, thường thiếu tính cách tự nhiên. Chẳng những các câu đối, các cặp thực, luận trong thơ luật hay làm ta chán vì gò gẫm miễn cưỡng, nhạt nhẻo, kêu mà rỗng:

Cảnh xưa cung điện đà thay lớp

Tuồng mới y quan cũng đổi trò

(Kiếm hồ hoài cảm - Phạm Ngọc Khuê)

Thu tàn sương nhạt ba chòm cúc

Am vắng mây che một ngọn đền

(Đền Trương Thái Phó - Đoàn Như Khuê)

Cửa Khổng thánh hiền tôn mấy bực,

Nhà nho anh kiệt kính nhiều ông

(Vịnh Văn Miếu - Nguyễn Bá Diễm)

ngay như câu này của Khái Hưng:

Có tảng hình như con hổ khom hưng đứng ngáp, có tảng giống hệt đầu con sư tử xù lông.

cũng có cái vẻ những “cửa sổ giả”, như người Pháp nói. Thị hiếu đã thay đổi.

Trong một câu dài, nếu sắp đặt cho những vế bằng nhau, thì lời văn sẽ êm đềm như tiếng ru:

“Song của càng quí

thì càng có nhiều kể tranh.

Tổ tiên các anh đã phải hi sinh nhiều,

các anh còn phải hi sinh nhiều nữa

mới khỏi phụ công phu trong mấy vạn năm cửa tôi.

Khéo mà giữ lấy nhé!

Rán mà giữ lấy nhé!

Hoàn cảnh có khó khăn bực nào

hễ biết đoàn kết là sống.

Đừng bao giờ để người ta chia rẽ.

Đừng bao giờ quên rằng

tuy ở niềm Nam này

mà gốc vẫn là ở miền Bắc.

(Tiếng Cửu Long) [3]

Song cái lối thơ không vần đó, thỉnh thoảng gặp một đoạn thì thích, chứ kéo dài hàng trăm trang như trong cuốn Colas Breugnon của Romain Rolland, thì chỉ làm cho ta buồn ngủ.

- Nếu có nhiều vế dài ngắn khác nhau, ta có thể xếp theo một thứ tự riêng cho cân đối, và sự cân đối ở đây tế nhị, có nghệ thuật hơn sự cân đối trong thơ luật:

Thừa tự được cái tính ấy, thầy tôi đã có một dĩ vãng “lang bạt kì hồ”

mà ngày nay,

mỗi lúc nhắc tới,

mẹ tôi chỉ biết có kêu giời vào khoảng hai ngụm thuốc rượu

Nguyên Tuân

Nước một mùa mưa hợp các xứ đồng chiêm lại thành một khối lớn.

và trên cái đoàn kết của nước đồng hiu quạnh,

nhũng con thuyền thúng đi về nhiều như lá tre rụng mùa thu.

Nguyễn Tuân

O feinte exquise de l’amour

de l’excès même de l’amour!

Parquel secret chemin tu nous mènes

du rire | aux pleurs

et de la plus naive joie

à l’exigence de la vertu!

Ôi, sự giả đò tuyệt thú của ái tình.

Của chính cái sự quá độ của ái tình!

Do con đường bí mật nào mi dắt chúng ta từ cười | tới khóc,

và từ nỗi vui ngây thơ nhất | tới sự bó buộc của đạo đức.

Ta có thể sắp vế dài trước, vế ngắn sau, hoặc ngược lại, ngắn trước, dài sau.

Muốn diễn những cử động mau, tả những vật nhỏ, ta nên theo cách trên:

J’écris des signes | des riens | petitement, | menu, | menu. |

J. Renard

Tôi viết những cái dấu hiệu, | chút xíu, | nho nhỏ | tí ti |.

Elle passe et repasse | par petits bonds | sur la route, | donner | de trou en trou, | ses leçons au cachel

J. Renard.

Nàng đi qua và đi lại, | nhảy nhót | trên đường, | để dạy giờ | từ hang này tới hang khác | mà kiếm tiền.

Nếu một vế thật dài, một vế cực ngắn, thì độc giả chú ý đặc biệt đến vế ngắn:

II se leva, donna pardessus la table, sur le torse d’Etienne, une tape.

J. Renard.

Y đứng dậy, với tay qua bàn, nhắm trên mình Etienne, đập.

Quand òu Dieu mit le roc, l’homme bâtit le fort,

Quand à la solitude, il ajoute la mort,

Quand de l’inaccessible il fait l’inexpugnable, Cest triste.

Lamartine

Khi ở cái chỗ Trời đặt tảng đá, mà loài người xây cái thành,

Khi cảnh đã cô liêu, loài người lại thêm cảnh chết chóc,

Khi cảnh đã cheo leo, loài người còn làm cho nó không công phá được, Thì buồn thật.

Còn như muốn diễn tả cái gì chậm chạp, nặng nhọc, hoặc muốn cho câu văn êm đềm, gợi một cảnh mênh mông, mơ mộng, ta phải đặt vế dài ở sau:

Đứng sau mành liễu rủ, | nhìn thẳng vào thủy tạ phía bên kia | tôi tưởng đấy là một tòa thủy cung muốn chìm xuống đáy hồ im vắng |

Nguyễn Tuân

Le vent redouble ses efforts

Et fait si bien qu’il déracine

Celui de qui la tête au ciel étail voisine

Et dont les pieds touchaient à l’empire des morts.

La Fontaine

Gió tăng sức lên gấp bội

Và mạnh đến nổi nhổ bật

Cây mà ngọn muốn đụng trời

Còn rễ thì chạm tới cõi âm.

Thí dụ rõ ràng nhất là câu dưới đây của Chateaubriand mà tôi đa trích ở chương III:

Au loin,

par intervalles,

on entendait les sourds mugissements de la cataracte du Niagara,

qui dans le calme de la nuit

se prolongeaient de désert en désert

et expiraient à travers les forêts solitaires [4].

Tôi xin dịch lại mà cố giữ cho đúng thứ tự và sự dài ngắn của mỗi vế:

Ở xa,

cách từng khoảng,

người ta nghe thấy tiếng gầm thét ồ ồ của thác Niagara,

trong cảnh tĩnh mịch ban đêm,

kéo dài ra từ sa mạc này tới sa mạc khác

rồi tắt lần qua những khu rừng hiu quạnh.

*

Cách lựa tiếng, lựa vế rồi sắp đặt như vậy xét ra chỉ là một thuật tương đối dễ. Người cầm bút nào cũng có thể áp dụng nó và nhiều người đã lạm dụng. Katherine Mansfeld đã lựa số chữ của mỗi câu, mỗi đoạn rồi đảo lên đảo xuống, thành những âm tiết hợp với mỗi nhân vật và ngày giờ khi xảy ra việc. Chẳng hạn nhân vật nóng nảy thì ông cho thốt những lời ngắn; cảnh hoàng hôn thì ông tả bằng những câu dài và du dương; một đoạn về người già trẻ, về trời mưa nắng đều có âm tiết riêng. Thực là quá giả tạo!

Đến ngay như A. Gide cũng thú rằng khi viết câu:

Je m’assieds sur un banc en face du lac dont ce matin le brouillard cachait la rive opposée et qui prenait un aspect...

(Tôi ngồi trên một cái ghế trước mặt hồ mà sáng nay sương mù đã che khuất bờ phía bên kia, và có một vẻ...) tới chữ aspect ông muốn hạ một tĩnh từ bốn âm để vế' sau hơi dài một chút, mà kiếm hoài không ra, đành phải hạ:

...un aspect de Mer du Nord.

(... một vẻ Bắc Hải)

Chắc chắn ông đã hi sinh nội dung cho hình thức và hồ đó không giống Bắc Hải là mấy đâu.

Lần khác ông nói: “Tôi muốn uốn nghĩa một câu, bắt nó theo số chữ trong câu”

Flaubert quả quyết hơn: “Nghĩa có sai cũng mặc! Âm tiết trước hết”

Còn V. Hugo thì tỉ mỉ đến nỗi lựa những tính từ mà số âm cứ lần lần tăng lên:

C’est un insecte deguerre, casqué (2 âm), cuirassé (3 âm), éperonné (4 âm), carapaqonné (5 âm)... Rien n’est formidable comme de le voir sortir de l’ombre, brusque (1 âm), inattendu (4 âm), extraordinaire (5 âm) [5]

Tôi xin miễn dịch vì nghĩ đó chỉ là thuật tiểu xảo không làm vinh dự cho các văn hào ấy.

Trong cuốn Précis de stylistique française, J. Marouzeau viết:

“Ta dễ dàng nhận được âm tiết trong thơ nhờ vần và số cước nhất định, còn trong văn xuôi, nó vô cùng khó thấy và thường chỉ là một cái gì chủ quan. Ngay cái nguyên tố làm căn bản cho âm tiết cũng không dễ gì định được. Nguyên tố đó phải là sự dài ngắn của từng vế không? Nhưng lấy gì mà định sự dài ngắn đó? Đếm số âm chăng? Hay là còn phải kể thời gian lâu mau khi đọc mỗi âm? Rồi còn những âm câm, những chỗ yên lặng nữa chứ? Hay là lấy sự phân phối các khẩu âm làm nguyên tố? Mà khẩu âm đó là âm nào? Phải là khẩu âm của câu khi ta nhấn vào những tiếng ở cuối vế, không phân biệt gì cả, hay là khẩu âm theo ý, khi ta nhấn vào những tiếng quan trọng một cách rất thay đổi và trong mỗi tiếng lại nhấn vào âm này hay âm khác tùy ý nghĩa? Sau cùng khi đã nhận được nguyên tố của âm tiết rồi, làm sao định được thế nào là một nhóm âm tiết, và giá trị của cách phối hợp âm tiết?”

Nhận xét đó rất đúng. Vậy khi sắp đặt các chữ và các vế, ta chỉ cần theo tính cách của Việt ngữ và chú trọng đến sự phô diễn đúng ý nghĩa của ta;.còn làm nô lệ cho âm tiết, ép nội dung theo hình thức không nên.

Chú thích:

[1] Để: sách in là “dễ”. (Goldfish).

[2] Gạch nối trong “người-hiền” và gạch nối trong “áo-xanh” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[3] Trích trong Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).

[4] Đây là bản nhất định, có hơi khác với bản thứ nhì ở chương III.

[5] Nhiều thí dụ trong đoạn này trích trong cuốn Précis de Stylitique français của J. Marouzeau.