← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V MÀU SẮC

1.- Về văn chương, màu sắc tức là hình ảnh. Loài người suy nghĩ bằng hình ảnh.

2.- Do nhận xét mà tạo hình ảnh.

3.- Do tưởng tượng mà tạo hình ảnh.

4.- Giá trị của tính từ.

5.- Các cách làm cho văn có màu sắc.

6.- Cách dùng những tiếng trừu tượng.

Văn, muốn cho linh động phải có màu sắc. Màu sắc trong văn chương có nghĩa rộng hơn vẻ hội họa: nó không những chỉ các màu xanh đỏ vàng tím... mà còn chỉ những nét những hình, những cử động cùng âm thanh, tóm lại; tất cả cảm giác của ngũ quan. Nó là hình ảnh, và văn có nhiều màu sắc tức là văn bóng bảy.

Loài người suy nghĩ bằng hình ảnh: mỗi ý kì thủy là một hình ảnh. Chẳng hạn khi tôi nói “Em bé cười, em bé khóc”, thì trong óc tôi hiện ra hình ảnh một em nhỏ tươi tỉnh, nhoẻn miệng ra, hoặc nhăn nhó, nước mắt chảy trên má.

Không những vậy, mỗi tiếng xét theo ngữ nguyên của nó, cũng là một hình ảnh. Ta nhận thấy rõ điều ấy trong những ngôn ngữ tượng hình như tiếng Trung Hoa. Nhìn chữ tiếu 笑 là cười, có phải bạn thấy cặp mắt nheo lại và cái miệng toét ra không? Còn trong chữ khốc 哭 là khóc, hai chữ khẩu là hai con mắt mở ra, nét chấm là giọt nước mắt. Chữ đán 旦 là sớm hình dung một mặt trời (chữ nhật 日) ló lên khỏi chân trời (chữ nhất 一). Chữ sỉ là liêm sỉ 恥 một bên có chữ nhĩ 耳 là tai, một bên có chữ tâm 心 là lòng, là diễn cái ý: lời nói vào tai rồi động đến lòng.[1]

Cả trong những ngôn ngữ mà chữ viết chỉ ghi âm, như tiếng Pháp, nếu tra cứu ngữ nguyên ra, ta cũng thấy mỗi chữ trừu tượng có cái gốc cụ thể, và chỉ một vật, một hình ảnh nào đó. Chẳng hạn chữ orgueil là kiêu căng, do ngữ căn orc hay org là đá (như trong chữ orcades) và tiếp vĩ ngữ euil là nhỏ, hợp lại, Vậy, orgueil mới đầu chỉ hòn đá nhỏ mà các thợ đá chêm dưới cái đòn bẩy để làm nẩy một đầu đòn bẩy lên[2]. Rồi sau, do một luật tự nhiên, bất dịch về ngôn ngữ học, nghĩa chữ orgueil từ cụ thể chuyển qua trừu tượng để chỉ cái tánh nó làm cho mặt người ta vênh vênh lên như cái đầu đòn bẩy vậy.

Những chữ lyrique (poésie lyrique thơ trữ tình) và ode (bài thơ ngắn, để phổ vào nhạc) đều do những chữ chỉ một nhạc khí (tức chữ lyre: đàn thất huyền và aute: ống sáo) mà hồi xưa người ta gẩy hoặc thổi để hòa thơ.

Về Việt ngữ, chúng ta chưa nghiên cứu được ngữ nguyên của mỗi tiếng, song cứ xét những tiếng trừu tượng mới xuất hiện gần đây như học gạo, bị bố, cũng thấy chúng đều do một hình ảnh tạo ra cả: học gạo là học để kiếm gạo, bị bố là bị Việt gian ở trong bao bố nhìn mặt, rồi bị tra khảo, đánh đập. Còn những tiếng gốc Hán thì tất nhiên cũng diễn một hình ảnh như chữ Hán rồi[3].

Nhưng vì dùng lâu quen đi, ta chỉ nghĩ đến nghĩa của mỗi chữ, chứ không nhớ đến hình ảnh gốc của nó nữa. Nghe ai nói ăn cơm, uống nước chẳng hạn ta đâu còn trông thấy cái miệng há ra rồi nhai hoặc nuốt; vì vậy những tiếng ấy mất hình ảnh, màu sắc đi và nghệ thuật viết văn là gợi ra, gây lại được những hình ảnh đã mờ, biến đi ấy.

*

Văn có màu sắc là nhờ nhận xét và tưởng tượng. Phải nhận xét kĩ để thấy những nét lạ, những tính cách đặc biệt của cảnh vật mà người khác không thấy hoặc không để ý tới. Nhận xét xong, lại phải lựa tiếng và tìm cách phối hợp những tiếng để gây trong đầu óc độc giả hình ảnh ta đã ghi lại.

Tôi xin kể một thí dụ của Chateaubriand để bạn học cái thuật làm cho văn linh động của ông.

Ông có lần qua châu Mĩ, ghi chép những kì quan cùng phong tục, rồi lại đọc rất nhiều sách của các nhà thám hiểm đi trước ông, và ông mượn những chi tiết dưới đây của William Bartram để tả cảnh bờ sông Mississipi:

“Hôm đó tôi thấy nhiều đám pistia stratiotes, loại cây rất đặc biệt mọc trên nước. Nó hợp thành những cù lao nổi; có vài cù lao rộng lớn trôi theo chiều gió và dòng nước... Khi mưa to gió lớn làm cho mực nước dưới sông thình lình dưng lên, thì từng đám cù lao nổi đó tách ra khỏi bờ. Những đảo nhỏ lưu động ấy tạo thành một cảnh dễ thương nhất: chỉ là một đám, những sản vật nhỏ nhen nhất của hóa công, vậy mà nó làm trí tưởng tượng của ta hoang mang và thất vọng”.

Tác giả đoạn đó đã nhận xét đúng: cù lao nổi, trôi theo chiều gió và dòng nước, tách ra khỏi bờ, nhưng phô diễn vật vụng: cảnh dễ thương, những sản vật nhỏ nhen nhất, trí tưởng tượng hoang mang và thất vọng.

Chateaubriand dùng những tài liệu đó, thêm chi tiết cho rõ ràng hơn rồi tạo những hình ảnh và viết:

“Mais la grâce est touịours unie à la magnificence dans les scènes de la nature: tandis que le courant du milieu entraine vers la merles cadavres des pins et des chênes, on voit sur les deux courants latéraux remonter le long des rivages, des îles flotantes depistia et de nénuphars dont les roses jaunes s’élèvent comme de petits pavillons. Des serpents, des hérons bleus, des flamants roses, de jeunes crocodiles, s’embar quent passagers sur ces vaisseaux de fleurs, et la colonie, déployant au vent ses voiles d’or, va aborder endormie dans quelque anse retirée du fleuve”.

Nhưng trong những cảnh thiên nhiên, vẻ u nhã luôn luôn hợp với nét tráng lệ: trong khi dòng nước ở giữa sông cuốn ra biển xác những cây thông và cây “sên” người ta thấy ờ trên hai dòng nước hai bên, trôi ngược theo bờ sông, những cù lao nổi, đầy những cây “pít-ti-a” và sen mà màu hồng vàng đưa lên trời như những thủy tạ nhỏ. Những con rắn, những con diệc xanh, những con hạc đỏ, những con sấu con quá giang trên những chiếc tàu hoa đó, rồi đoàn di dân giương cánh buồm trước gió để ghé vào thiêm thiếp ngủ trong một vũng hẻo lánh nào đó trên sông.

William Bartram đã dùng những chữ mơ hồ và tầm thường: sản vật nhỏ nhen nhất của hóa công, còn Chateaubriand đã tả tỉ mỉ hơn, nhân cách hóa những con rắn, con diệc, con hạc, con sấu thành một ảnh rục rỡ, linh động.

*

Trong đoạn đó, tác giả tuy đã tưởng tượng để tạo những hình ảnh: như những thủy tạ nhỏ, giương cánh buồm vàng, những chiếc tàu hoa, song phần nhận xét vẫn quan trọng hơn vì nó làm căn cứ cho phần tưởng tượng.

*

Tiếng nào cũng gợi hình ảnh, song có những tiếng do bản thể của nó, gợi nhiểu hình ảnh hơn những tiếng khác. Đó là những động từ và danh từ. Tính từ và trạng từ có chức vụ phụ là thêm nghĩa cho hai loại trên; nhưng nếu được dùng đắc thế thì giá trị của nó rất lớn.

Như tiếng pauvre (nghèo, tội nghiệp) và tiếng étrange (lạ lùng) là những tính từ mơ hồ, sáo nhất, chẳng tả được gì hết, vậy mà dưới ngọn bút của hai thiên tài La Fontaine và Victor Hugo thì đáng ngàn vàng.

La Fontaine viết:

Un pauvre bûcheron tout couvert de ramée

(Một lão tiều phu tội nghiệp củi phủ khắp người)

mà Victor Hugo thì viết:

D’ étranges bûcherons qui travaillent la nuit

(Những tiều phu kì dị làm việc ban đêm)

Tính từ pauvre của La Fontaine gợi cho ta thân hình tiều tụy của ông lão tiều phu và ta cảm thấy cuộc đời vất vả của ông; còn tính từ étranges của Victor Hugo cho ta tưởng tượng được hình bóng thấp thoáng của bọn người đốn củi trong đêm tối giữa cảnh rùng rợn của rừng và dưới ánh lửa, những hình bóng đó chiếu lớn lên thân cây chung quanh, chập chờn, kì dị.

*

Muốn cho văn linh động, có nhiều hình ảnh, người ta thường dùng những cách dưới đây:

- Bỏ nghĩa đen mà dùng nghĩa bóng. Phép hành văn này hiện đầy trong truyện Kiều:

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Lơ thơ tơ liễu buông mành.

Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng

Vầng trăng ai xẻ làm đôi.

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

……

Người ta kể chuyện Malherbe và Albert Vaudal chỉ sửa một chữ mà làm cho một câu tầm thường thành bất hủ. Trong bài Consolation à Monsieur Du Perier mới đầu Malherbe viết:

Et Rosette a vécu ce que vivent les roses

L’espace d’un matin.

(Và nàng Rosette đã sống đời của các bông hồng.

Cái khoảng của một buổi sáng)

sau ông đổi là:

Et rose elle a vécu ce que vivent les roses,

L’espace d’un matin [4]

(Và phận hồng, nàng đã sống đời của các bông hồng.,

Cái khoảng của một buổi sáng).

Còn Albert Vandal đa thay chữ Paris trong câu: “Bonaparte laissa Barras s’évader de Paris” ra chữ l’histoire: Bonaparte laissa Barras s’évader de l’histoire” (Bonaparte để cho Barras - một chức viên trong chấp chính viện - trốn khỏi lịch sử), nhờ vậy câu văn rất vô vị trở nên linh động, hàm súc lạ lùng và ta hiểu ngay rằng sau ngày 18 Brumaire, Barras trốn khỏi Paris rồi từ đó không còn đóng một vai trò gì trong lịch sử nữa.

Những chữ rose và histoire trong hai thí dụ đó đều dùng theo nghĩa bóng.

- Ghép một chữ chỉ màu sắc và một chữ khác để làm nổi chữ này lên, như Leconte de Lisle trong câu:

...Des mouches d’or, d’azur et d’émeraude.

Etoilaient de leurs feux la mousse humide et chaude.

(Những con ruồi màu vàng, màu thanh thiên, màu ngọc bích.

Rắc những điểm lửa như sao trên rêu ẩm thấp và nóng).

Chữ mouches tự nó không gợi một hình ảnh gì đẹp cả nhưng nhờ đứng cạnh những chữ or, azur, émeraude mà mượn được vẻ rực rỡ của những chữ này. Etoilaient và feux đã dùng theo nghĩa bóng.

- Có khi hai hình ảnh đứng riêng biệt thì rất sáo, mà ghép với nhau, lại rất tân kì, như trong hai câu:

Đừng bảo bơ vơ từ trở lại,

Tháp ngà ai khép với đài gương.

của Vũ Hoàng Chương mà tôi đã có dịp giới thiệu với bạn.

Tháp ngà là một điển Pháp đã cũ rích, đài gương là một điển Việt dùng cũng đã mòn, mà đứng chung với nhau ở đó gợi ý lạ lùng, vừa trang nhã, vừa tình tứ.

- Ta cũng có thể cho một hình ảnh cũ một nghĩa mới và hình ảnh nhờ vậy hóa mới.

Người Pháp nào cũng dùng từ ngữ émailler de fleurs để tả hoa trên một bãi cỏ, riêng Victor Hugo dùng nó để chỉ sao trên trời:

Les astres émaillaient le ciel profond et sombre;

Le croissant fin et clair parmi ces fleurs de l’ombre...

(Những vì sao điểm nền trời sâu và tối;

Lưỡi liễm thanh nhã và sáng sủa ở giữa đám hoa của bóng tối đó...)

Ai chẳng thường nói xuân sang? Từ ngữ đó tầm thường quá, chỉ diễn cái ý chuyển vận của các mùa, hết đông rồi tới xuân. Nhưng dùng nó trong câu này để tả nỗi cô độc, lòng oán xuân của một quả phụ, thì nó hàm súc, thú vị vô cùng:

Đóng cửa cài then, xuân cũng sang

(Vô danh)

Xuân đây không còn là mùa xuân nữa, mà thành cái tình xuân, nó dào dạt, lả loi, đời hỏi, thúc bách, từ vạn vật phát ra, len lỏi vào lòng quả phụ, đuổi nó không đi, nén nó không được.

- Thường khi ta chỉ cần đổi một chữ mà một hình ảnh cũ hóa mới. Alfred de Musset bị cảnh xa lạ, lòng giang hồ ám ảnh, kêu lên:

Je ne puis; malgré moi, l’infni me tourmente.

(Tôi không chịu nổi; tôi đâu có muốn mà vô biên cử hành hạ tôi)

Ông không viết: “lòng giang hồ hành hạ tôi” vì hình ảnh đó không có chi mới; ông dùng chữ vô biên và gợi cho ta những cảnh núi sông bát ngát.

- Một văn sĩ Việt, cũng thèm khát du lịch, viết một câu mà tôi chỉ còn nhớ đại ý: ông ta cúi đầu hàng giờ trên những bản đồ để nhìn những “con sông xanh” mà mơ mộng. Ba chữ con sông xanh đó bình dị mà tuyệt khéo: nó vừa diễn đúng cảnh thực, chỉ những con sông vẻ bằng mực xanh trên bản đồ; vừa cho ta mơ mộng những dòng nước trong xanh trôi giữa hai bờ cây cối um tùm. Nếu đổi ba chữ đó ra dòng nước xanh thì văn gần hết ý vị. Trường hợp đó rất đặc biệt: chữ dòng bóng bẩy hơn chữ con mà ở đây lại không đắc thế bằng.

Ta đừng tưởng những tiếng trừu tượng không gây được hình ảnh.

Nếu khéo dùng, đặt nó cạnh những tiếng cụ thể thì nó cũng hóa linh động.

Chateaubriand đã tả những đám mây “nó hợp ở trên trời thành những bãi lớn một màu bông gòn rực rỡ dịu mát tới nỗi người ta tưởng chừng cảm thấy sự mềm mại và sự thun ra thun vô của nó (qui formaient dans les cieux des bancs d’une ouate éblouissante, si doux à l’oeil qu’on croyait ressentir leur mollesse et leur élasticité).

Hai chữ mollesse (sự mềm mại) và élasticité (sự thun ra thun vô) đều trừu tượng mà đã vẻ được những đám mây.

Pierre Loti trong đoạn tả sóng biển dưới đây, cũng có tài “khêu sáng những tiếng trừu tượng”:

II y avait une houle énorme, mais molle et douce, qui passait, passait sous nous toujours avec la même tranquillité, arrivant de l’un des infinis de l’horizon pour se perdre dans l’infini opposé: longues ondulations lisses, immenses boursouilures d’eau qui se succédaient avec une lenteur rythmée, comme des dos de bêtes géantes, inoffensives à force d’indolence. Peu à peu soulevé sans l’avoir voulu, on montait jusqu’ à l’une de ces passagères cimesbleues; alors on entrevoyait un moment des lointains magnifiquement vides, inondés de lumière tout en ayant l’inquiétante impression d’avoir été porté si haut par quelque chose de fluide et d’instable, qui ne durerait pas, qui allait s’évanouir. En effet, la montagne bientôt se dérobait, avec le même glissement, la même douceur perfide, et on redescendait...

Có một ngón sóng vĩ đại nhưng mềm mại và êm đềm đi qua, đi qua ở dưới lườn tàu chúng tôi, luôn luôn với sự yên lặng đó, nó đến từ một vô biên của chân trời để tiêu tan trong vô biên đối trí: đó là những lượn dài nhẵn, những chỗ phồng mênh mông của nước nối tiếp nhau chậm chạp, nhịp nhàng như lưng những con vật khổng lồ vô hại vì quá ơ hờ. Bị đưa bổng dần dần, người ta lên tới một trong những đỉnh xanh phù du đó; lúc ấy người ta thoáng thấy trong một lát những khoảng xa trống không đẹp đẻ lạ lùng tràn ngập ánh sáng; đồng thời người ta có cảm giác lo lắng vì đã bị đưa lên cao như vậy do một cái gì lỏng và bất định, nó không bền, và sắp tiêu tán. Thực vậy, chẳng bao lâu, ngọn núi lẩn đi, cũng lướt như trước êm ái một cách âm hiểm như trước, và người ta lại hạ xuống.

Chú thích:

[1] Những chữ Hán trong đoạn trên là do tôi tạm ghi thêm. (Goldfish).

[2] Theo Jean Suberville trong cuốn Théorie de l’art et des genres littéraires.

[3] Mỗi chữ đã diễn một hình ảnh mà nhiều chữ hợp lại cũng là để diễn một hình ảnh. Đọc câu: Bóng lá tường vi dệt gấm thềm của Bàng Bá Lân ta thấy cảnh trăng trong một vườn hoa linh động đẹp đẻ biết bao nhờ một hình ảnh mới mẻ thi sĩ đã tạo ra.

[4] Có thuyết nói ấn công sắp lộn là Et Rosette…, rồi ông sửa Et rose elle; lại có thuyết nói ngược lại rằng mới đầu ông viết Et Rosette… ấn công vô ý sắp lộn là Et Rose elle…., và thấy câu sau hay hơn, ông để nguyên vậy.