CHƯƠNG VI VĂN KHÍ
1.- Thế nào là văn khí?
2.- Những cách phát hiện của văn khí.
3.- Văn khí trong thơ Trung Hoa và Việt.
4.- Văn khí trong thơ Pháp.
Khi ta cảm xúc mạnh, ý tưởng của ta tự nó có sẵn một cái nội khí mà ta gọi là đà của văn; rồi ta lựa chọn sắp đặt tiếng để diễn nội khí đó và lời của ta có một cái ngoại khí mà ta gọi là thế của văn. Cái đà và cái thế ấy nếu hòa hợp với nhau thì là lời xứng ý, và ta có văn tài. Đà mạnh và thế yếu, lời không xứng ý, là vụng về; ngược lại thế mạnh, đà yếu, ý không xứng lời, là tiểu xảo. Nội khí và ngoại khí của văn gọi chung là văn khí.
*Văn khí phát hiện bằng nhiều cách.
- Về nội dung, nếu ý mạnh mẻ, liên lạc chặt chẻ với nhau, và sắp đặt theo một thứ tự khéo léo thì văn khí cũng mạnh. Phần đông các văn hào, cảm xúc nồng nhiệt, ý tưởng của họ như “nắm tay họ mà đưa trên giấy”, thao thao bất tuyệt, và cái khí của họ truyền qua ta, lôi cuốn ta như thác. Tô Đông Pha, Lương Khải Siêu, Bossuet, Rousseau, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ vào hạng đó.
- Về hình thức, muốn cho văn có khí, phải khéo tổ chức câu và đoạn, xen những câu ngắn và dài, những âm trầm và bổng, dùng cách đảo ngữ, ẩn thể, những câu hỏi, những thán từ.
*Trong thơ cổ của ta, văn khí không biến chuyển nhiều như trong thơ Pháp, do hai lẽ: về nội dung, vì chịu ảnh hưởng của Nho giáo, cổ nhân cố nén thất tình, không cho nó phát biểu ra mãnh liệt mà thường tiết chế nó lại, thành thử nội khí của văn thường phẳng lặng như mặt hồ, đều đều như đồng ruộng; về hình thức thể Đường luật mỗi bài có tám câu bảy chữ lại bị niêm luật bó buộc, nên cái ngoại khí cũng khó mà tung hoành được.
Muốn tìm những biến chuyển đột ngột trong văn khí, ta phải lựa những bài Nhạc phủ của Trung Hoa như bài Niệm Nô Kiều của Tô Đông Pha:
Đại giang đông khứ,
Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.
Cố lũy tây biên,
Nhân đạo thị Tam Quốc Chu lang Xích Bích.
Loạn thạch băng vân,
Kinh đào liệt ngạn,
Quyển khởi thiên đôi tuyết đống.
Giang sơn như họa,
Nhất thời đa thiểu hào kiệt.
Dao tưởng Công Cẩn đương niên,
Tiểu Kiều sơ giá liễu,
Hùng tư anh phát
Vũ phiến luân cân,
Đàm tiếu gian,
Cường lỗ hôi phi yên diệt.
Cố quốc thần du,
Đa tình ưng tiếu ngã tảo sinh bạch phát.
Nhân sinh như mộng,
Nhất tôn hoàn loát giang nguyệt.
Niệm Nô Kiều
Sông dài băng chảy,
Sóng cuốn hết thiên cổ phong lưu nhân vật
Lũy cũ phía tây
Người bảo là Xích Bích thời Chu Du Tam Quốc
Đá loạn sụt mây,
Sóng gầm vỡ bến.
Cuốn lôi ngàn đống tuyết
Núi sông như vẻ,
Một thời ít nhiều hào kiệt.
Nhớ Công Cẩn thời đó,
Tiểu Kiều khi mới cưới,
Anh hùng tư cách,
Quạt lông khăn là
Lúc nói cười,
Giặc mạnh tro bay khói hết,
Cố quốc hồn về,
Đa tình chắc cười ta tóc đà sớm bạc.
Đời người như mộng,
Chén này để tạ trăng nước.
Nhờ những câu dài ngắn xen nhau (từ 3 tới 10 chữ) và nhờ âm thanh khéo lựa, nên bài đó nổi tiếng là hùng hồn cảm khái triền miên, người đương thời khen là sang sảng tiếng đồng tiếng sắt.
Bài Tống Biệt của Tản Đà, viết theo một thể từ, văn khí cũng thay đổi, câu ngắn thì như nấc như nghẹn, câu dài thì như tiếng than não nuột của một cặp tình nhân chia tay nhau giữa cảnh trời đất mênh mông:
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai,
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi.
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi,
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Văn chương Trung Hoa và Việt Nam có một thể đặc biệt mà Âu Mĩ thiếu hẳn, thể đối liên. Thể đó tuy là biền ngẫu và ngắn, song nhờ số chữ trong mỗi vế không nhất định, nhờ cách gieo bằng trắc không quá bó buộc, nên có tính cách nghiêm trang và uyển chuyển. Khí ngắn và trầm hùng thì như hai câu cụ Sào Nam khóc cụ Tây Hồ:
Thương Hải vị điền, Tinh Vệ hàm thạch,
Chung Kỳ kí một, Bá Nha đoạn huyền
(Thương Hải chưa lấp, Tinh Vệ ngậm đá,
Chung Kỳ đã mất, Bá Nha chặt đờn).
Khí dài mà man mác thì như hai câu cụ Dương Bá Trạc khóc cụ Sào Nam:
Một bầu tâm huyết, tưới ra khắp Hoành Tân, Ban Cốc;
Thượng Hải, Yên Kinh ôm về núi ngự, Sông Hương vùi xuống cửu nguyên còn đóng cục,
Muôn thuở anh hồn, bạn cùng với Tây Lộc, Nhụy Khê;
Trảo Nha, Liên Bạt, phù hộ nòi Hồng, giống Lạc, ngắm coi năm bề những phì cười.
Thể đó nếu khéo dùng, trong mỗi vế xen những đoạn ngắn và dài, những âm trầm và bổng, hoặc dăm ba đoạn ngắn liên tiếp nhau rồi tới một đoạn dài, dăm ba đoạn trầm nối nhau rồi tới một đoạn bổng, miễn sao cho hợp với nội khí; thì có thể chỉ trong ít hàng diễn được một cách tế nhị và đúc những tình cảm nồng nhiệt nhất của ta.
Đôi câu đối cảm khái dưới đây của một nhà cách mạng có thể dùng làm thí dụ:
Giang sơn di tử, ngã yên đắc du sinh, thập niên lai, lệ kiếm ma đao, tráng chí nghĩ phù hồng tổ quốc.
Vũ dực vị thành, sự hốt nhiên trung bại, cửu nguyên hạ, điều binh luyện tướng, hùng hồn nguyện tác quốc dân quân.
Trần Hữu Lực
Phan Sào Nam dịch:
Giang sơn đã chết, mình sống được đâu nào, trên mười năm, luyện kiếm mài đao, chí mạnh, quyết phù non nước Việt.
Vây cánh chưa thành, việc bỗng đâu thất bại, dưới chín suối, điều binh khiển tướng, hồn thiêng giúp đỡ quốc dân Nam.
*Tuy nhiên, ta phải nhận, về nghệ thuật thay đổi văn khí thì người Pháp tiến hơn ta rất xa. Ba thi hào Pháp có tài nhất về phương diện đó là La Fontaine, Racine và Victor Hugo.
Bạn nào thông tiếng Pháp tất nhận thấy văn khí trong bài Le chêne et le roseau của La Fontaine gồm hai điệu, một điệu bình thường để tả cây sậy (Le roseau) và một điệu khoa đại để tả cây sên (Le chêne); hai điệu đó thay đổi nhau từ đầu bài tới cuối bài.
Mới đầu là điệu bình thường: cây “sên” chê bai cây sậy là nhỏ, là yếu, đến nỗi một con chim bé cũng làm nó trĩu xuống, một làn gió nhẹ cũng làm nó ngả ngọn: La Fontaine dùng bốn câu thơ tám cước và hai câu mười hai cước:
Le chêne un jour dit au roseau:
“Vous avez bien raison d’accuser la nature;
Un roitelet pour vous est un pesant fardeau:
Le moindre vent qui d’aventure
Fait rider la surface de l’eau
Vous oblige à courber la tête;
(Một hôm cây “sên” bảo cây sậy:
“Anh trách hóa công là có lí lắm;
Một con chim hồng tước đối với anh là một gánh nặng;
Ngọn gió nhẹ nhất tình cờ
Làm gọn mặt nước
Cũng bắt anh phải cúi đầu;)
Rồi tới giọng kiêu căng, ngạo nghễ của “cây sên” tự khoe mình:
Cependant que mon front, au Caucase pareil,
Non content d’arrêter les rayons du soleil,
Brave l’effort de la tempête.
(Còn như cái trán của tôi, khác gì nhu núi Caucase,
Ngăn cản tia nắng mặt trời rồi mà cũng chưa vừa lòng,
Lại mạo phạm sức của giông tố nữa.)
Hơi văn đi liền ba câu: hai câu mười hai cước và một câu tám cước.
Giữa bài, thi sĩ cũng cho xen một điệu bình thường với một điệu khoa đại. Tới cuối bài, ông tả cảnh cơn dông ào ào tới, cây sậy cong xuống nhưng không gẫy, mà cây “sên” thì bị trốc rễ.
“L’arbre tient bon; le roseau plie.
Le vent redouble ses efforts
Et fait si bien qu’il déracine
Celui de qui la tête au ciel était voisine,
Et dont les pieds touchaient à l’empire des morts
(Cây sên chịu được; cây sậy cong xuống.
Gió lại thổi mạnh gấp hai
Tới nỗi làm trốc rễ.
Cây mà ngọn gần đụng trời,
Và rễ chạm tới cõi âm.)
Chỉ dùng nửa câu, bốn cước để tả cây sậy (le roseau plie), mà dùng hai câu, cộng hai mươi bốn cước, để tả cây “sên”; lại thêm hai hình ảnh đối nhau, mà hơi văn càng mạnh:
La tête au ciel était voisine
và
Les pieds touchaient à l’empire des morts.
Văn khí trong đoạn đầu bài Les animaux malades de la peste (Những con vật bị bệnh dịch hạch) cũng diễn được nỗi hoảng sợ ghê gớm của loài vật trước sự tàn phá rùng rợn của bệnh dịch:
Un mal | qui répand la terreur
Mal | que le ciel en sa fureur
Inventa pour punir les crimes de la terre,
La peste | (puispu’il faut l’’appeler par son nom)
Capable d’enrichir en un jour l’Achéron,
Faisait aux animaux la guerre.
(Một chứng bệnh làm lan mối kinh khủng,
Bệnh mà trời trong cơn thịnh nộ
Đã tạo ra để trừng phạt những tội lỗi trên đất,
Bệnh dịch hạch (vì phải kêu đích danh nó)
Có thể trong một ngày làm cho Suối Vàng đông đúc,
Bệnh ấy hồi xưa tàn sát các loài vật.)
Luôn một hơi sáu câu (ba câu tám cước và ba câu mười hai cước); những chữ Mal, peste, ngắt ra ở đầu câu, được nhấn mạnh một cách đặt biệt.
Trong đoạn cuối bài Le Maître des champs, l’Alouette et ses petis
(Ông chủ ruộng, con chim sơn ca mẹ và những son ca con), trái lại hơi văn ngắt đoạn, tả rõ cảnh hỗn độn trong một gia đình (gia đình sơn ca) phải dọn đồ, rồi chỗ gấp:
Et les petits, en même temps,
Voletants, se culbutants,
Délogèrent tous sans trompette.
Và đồng thời, những con chim con,
Lăng xăng bay, xô đẩy nhau
Không kèn không trống dọn đi hết.
Racine vì dùng thể thơ mười hai cước, không thể đặt những câu ngắn được, nhưng khéo ngắt câu, dùng những câu hỏi, những thán từ, những điệp tự, những hình ảnh tương phản nhau, nên văn khi cũng rất uyển chuyển. Trong đoạn dưới đây ông tả nỗi lòng rối bời, đau khổ, tinh thần hoảng hốt, ăn năn của một thiếu phụ, nàng Phèdre yêu con riêng của chồng:
Misérable! Et je vis? et je soutiens la vue.
De ce soleil sacré[1] dont je suis descendue...
Où me cacher? Fuyons dans la nuit infernale...
Mais que dis je? Mon père y tient l’urne fatal...
Ah! combien frémira son ombre épouvantée
Lorqu’il verra sa fille à ses yeux présentée
Que dira-tu, mon père, à ce spectacle horrible?
Je crois voir de tes mains tomber l’urne terrible;
Je crois te voir cherchant un supplice nouveau.
Toi même de ton sang devenir le bourreau,
Ta khốn nạn! Mà ta vẫn sống? và ta dám nhìn
Mặt trời linh thiêng kia đã sanh ra ta...[2]
Ta lẩn đâu bây giờ? Thôi trốn trong cảnh đêm tối của địa ngục.
Nhưng ta nói gì đó? Cha ta giữ bình thiên định ghê gớm ở đó[3].
Chao ôi! bóng hoảng hốt của người sẽ run rẩy tới mực nào
Khi người thấy con gái người dẫn thân tới trước mắt người....
Thưa cha, trước cảnh tượng rùng rợn đó cha sẽ nói gì?
Con tưởng chừng trông thấy cha tìm một khổ hình mới,
Chính cha thành tay đao phủ hành quyết giọt máu của cha.
Cũng để tả nỗi hối hận, lo sợ, hoảng hốt, nhưng của một người anh đã giết em, tức Cain, con của Adam và Eve theo thánh kinh. Victor Hugo viết nên một bài thơ bất hủ, bài La Conscience. Bài đó rất dài, tôi chỉ xin tóm tắt và dẫn một đoạn để bạn thấy sự biến đổi trong văn khí của ông. Cain sau khi phạm tội, dắt vợ con đi trốn, tới chân núi thì tối, ngừng lại để nghỉ nhưng ngủ không được vì con mắt Lương tâm trừng trừng ngó y trong bóng đen:
Il réveilla ses fils dormant, sa femme lasse,
Et se remit à fuir sinistre dans l’espace.
Il marcha trente jours, il marcha trente nuits.
Il allait, muet, pâle et frémissant aux bruits,
Furtif, sans regarder derrière lui, sans trêve,
Sans repos, sans sommeil; il atteignit la grève
Des mers dans le pays qui fut depuis Assur.
“Arrêtons-nous, dit-il, car cet asile est sûr.
Restons-y. Nous avons du monde atteint les bornes”.
Et, comme il s’asseyait, il vit dans les cieux mornes
L’oeil à la même place au fond de l’horizon.
Alors il tressaillit en proie au noir frisson.
“Cachez-moi!” cria-t-il; et, le doigt sur la bouche,
Tous ses fils regardaient trembler l’aïeul farouche.
Hắn đánh thức những đứa con trai đang ngủ, người vợ mệt nhọc,
Và lại bắt đầu chạy trốn, như báo điềm gở trong không gian
Hắn đi ba chục ngày, hắn đi ba chục đêm.
Hắn đi, nín thinh, xanh xao và nghe tiếng động thì run lên,
Lén lút, không ngó về phía sau, không ngừng,
Không nghỉ không ngủ; hắn đến bờ
Những biển trong xứ mà từ đó người ta gọi là Assur
Hắn bảo: “Chúng ta ngừng lại, vì chỗ ẩn này chắc chắn
Chúng ta ở lại đây. Chúng ta đã tới chỗ cùng tận thế giới”
Và khi hắn ngồi xuống thì hắn thấy trên trời u ám
Con mắt cũng vẫn ở chỗ đó, ở chỗ thăm thẳm của chân trời.
Tức thì hắn run lên, bị cơn rùng mình ghê sợ đen tối.
Hắn la: “Che cha đi”; và, ngón tay để lên miệng,
Tất cả lũ con của hắn nhìn người cha hung dữ run lập cập.
Bạn nhận thấy từ câu đầu tới câu giữa câu thứ 6 (sans sommeil), hơi văn ngắt đoạn, như đoàn người hổn hển chạy; rồi hơi văn lại hòa hoãn: họ được tạm yên trong một lúc cho tới câu thứ 11; sau cùng tới sự run sợ, hơi văn giần giật lên. Hai câu 5-6 và câu 14 nhiều âm r, gây một cảm giác rờn rợn; còn câu 10 êm ái, lặng lẽ. Những tiếng: il allait (câu 4), furtif (câu 5), và sans repos (câu 6) ngắt ở đầu câu, được nhấn mạnh một cách đặc biệt.
Gần đây, thi nhân nước nhà thấy thể thơ Đường luật, cả thể thơ buông (mà người ta thường gọi là thơ mới) nữa, không cho phép ta thay đổi văn khí một cách dễ dàng để diễn đúng tình cảm, nên bắt chước Pháp dùng thế thơ tự do. Một số ít bài thơ đã hơi thành công, như bài Bến đò Sài gòn của Ninh Huấn:
………….
Anh Hai mấy bữa qua còn đùa cợt đâu đây
Nay đà vắng mặt.
Chị hàng thoáng buồn.
Thấy tướng ngẩn ngơ.
Vài tiếng xì xào ướt vì nước mắt,
Rồi nhìn trước nhìn sau,
Im bặt.
Nếu dùng thể Đường luật hay lục bát, tất khó tả được nỗi yên lặng vừa buồn vừa sợ như câu cuối trong bài đó, chỉ gồm hai tiếng đứng tách ra mà tiếng sau có dấu nặng, như chìm hắn xuống, không vang lấy một chút.
Nhưng có lẽ, trước những nhà đó, đã có ít nhiều thi sĩ vô danh trong quần chúng biết dùng thể thơ tự do để cho văn khí được uyển chuyển, chẳng hạn tác giả bài ca dao dưới đây:
Sớm mai đi chợ Gò vấp
Mua một xấp vải
Đem về cho con Hai nó cắt,
Con Ba nó may,
Con Tư nó đột,
Con Năm nó viền,
Con Sáu đơm nút
Con Bảy vắt khuy,
Anh vừa bước cẳng ra đi.
Con Tám níu, con Chín trì,
Ớ Mười ơi, sao em để vậy còn gì áo anh?
Lời mộc mạc, nghệ thuật không có gì cao, nhưng thế văn rất hợp với đà văn: các câu trên ngắn, tả vẻ rộn ràng, đông đảo, hai câu cuối dài tả cảnh rối ren, hỗn độn, trì néo.
Nội dung tạo hình thức, cho nên chẳng cần học kĩ thuật viết văn, người ta cũng tự nhiên tìm được cái ngoại khí cho hợp với nội khí, nghĩa là tìm được cách phô diễn hợp với cảm xúc; và nếu có bị luật lệ bó buộc thì sớm muộn gì người ta cũng phá nó để chỉ theo một luật tự nhiên phổ biến và bất dịch, là luật tương xứng giữa ý và lời.
Chú thích:
[1] Có bản chép là: De ce sacré soleil… (Goldfish).
[2] Theo thần thoại Hy Lạp, Phèdre là con của thần Thái Dương.
[3] Bình chứa công và tội của mỗi người chết.