CHƯƠNG VII GIÁ TRỊ CỦA ÂM THANH
1.- Sức quyến rũ huyền bí của âm thanh.
2.- Một thí dụ: âm ương.
2.- Giá trị biểu thị của các âm.
3.- Màu sắc và ý nghĩa của thanh âm.
4.- Nhược điểm và ưu điểm của Việt ngữ về thanh âm.
Theo Jean Suberville, loài người, hồi còn ăn lông ở lỗ, cho âm thanh của tiếng nói có một ma lực huyền bí. Thuyết ấy có phần đúng. Nghe tiếng cọp rống, tiếng sét ầm ầm, tiếng bão vù vù, tổ tiên ta hãi hùng nép trong hang, tưởng tượng ra những sức rùng rợn bao trùm cả vũ trụ; và khi nghe tiếng chim líu lo, tiếng nước thánh thót, tiếng gió thổi hiu hiu, tiếng củi nổ lách tách, thì bao nhiêu lo lắng tiêu tan hết, nét vui hiện trên mặt. Thấy âm thanh ảnh hưởng lớn đến con người như vậy, tổ tiên ta cũng tìm cách phát ra những âm để chế ngự hoặc cầu nguyện vạn vật, thành thử tiếng nói của loài người, lúc mới đầu, ngoài công dụng diễn ý còn có mục đích ảnh hưởng tới những sức huyền bí ở chung quanh. Cho nên các thầy mo, thầy pháp mới đặt ra những lời phù chú để cầu khẩn quỷ thần, hoặc dọa nạt ma mãnh. Những lời đó hoàn toàn vô nghĩa, sở dĩ có hiệu lực về tâm lí chỉ là nhờ ma lực của thanh âm. Ngay thời nay, nghe thầy pháp đọc phù chú giữa một đám đông, trong một phòng rực rỡ ánh đèn mà ta còn thấy rờn rợn thay; huống hồ là ngồi ở gốc một cổ thụ, chung quanh là rừng rú âm u với muôn ngàn kẻ thù vô hình, mà nghe những tiếng rầm rì như “úm ba la ám ma ni” chẳng hạn thì tổ tiên ta sao khỏi run sợ?
Loài người, khi đã văn minh, không còn tin âm thanh có sức đuổi ma trừ tà, song do di truyền từ mấy vạn năm về trước, mà còn giữ trong tiềm thức những cảm xúc về sức quyến rũ của thanh âm. Và bất kì ở nước nào, văn nghệ sĩ cũng dùng thanh âm của mỗi tiếng để gợi thêm cảm xúc làm cho văn thơ cũng có sức mê hoặc như phù chú. Đúng vậy: “Mỗi nghệ sĩ quả là một thuật sĩ”. Thì bạn thử xét xem, trong các loại văn chương, làm cảm người ta mạnh nhất há chẳng phải là thơ? Mà phần lớn sức quyến rũ của thơ là ở đâu, nếu không phải nhờ nhạc, nghĩa là ở cách xếp đặt các âm thanh?
Chỉ đọc câu:
Bến Tầm Dương canh khuya hiu hắt,
hoặc câu:
Elle a vécu, Myrto, la jeune Tarentine,
dù chẳng hiểu bến Tầm Dương ở đâu, có gì xảy ra tại đó, dù chẳng biết nàng Myrto nhan sắc cùng đời sống ra sao, ta cũng bị hai câu đó thôi miên và cảm thấy, trong câu trên, một nỗi buồn mênh mông như sông bến; trong câu dưới, một mối tình ngậm ngùi cho người mệnh bạc.
Và ta không lấy làm lạ sao phái Thanh điệu của Triệu Chấp Tín bên Trung Hoa với phái Tượng trưng của Verlaine bên Pháp đều cho nhạc là chất quan trọng nhất của thơ. Triệu Chấp Tín bảo người làm thơ phải chú ý tới bằng trắc trước hết, mà Verlaine cũng nói: “Nhạc trước mọi cái”. (De la musique avant toute chose).
Nhạc được đề cao tới nỗi có nhà cho tất cả bí quyết làm thơ là dùng nhạc để khêu gợi.
Vì vậy khi đọc thơ của các nhà đó, mà bài dưới đây của Verlaine là một thí dụ, bạn chỉ nên dùng tai, chứ đừng dùng óc: ý nghĩa của mỗi câu rất tầm thường, không quan trọng, chỉ có công dụng nâng đỡ, dẫn đường cho nhạc để nhạc gợi được những tiếng vang trong tâm hồn bạn thôi:
Chanson d’automne.
Les sanglots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon cœur
D’une langueur
Monotone
Tout suffoquant,
Et blême, quand,
Sonne l’heure,
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure;
Et je m’en vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Deçà, delà
Pareil à la
Feuille morte
Verlaine
Tại nước ta, hồi tiền chiến một nhóm thi sĩ còn tiến xa hơn Verlaine, sáng tác những bài có ít nhiều tính cách phù chú, nghĩa là cảm ta bằng âm thanh hơn là bằng ý tưởng, như bài Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ mà nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ thành khúc:
Màu thời gian
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình.
Màu thời gian không xanh,
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng,
Hương thời gian thanh thanh.
Duyên trăm năm đứt đoạn,
Tình một thuở còn hương,
Hương thời gian thanh thanh,
Màu thời gian tím ngát.
Bạn đừng tốn công tìm hiểu thế nào là gió xanh, là màu tím ngát, là dìu vương hương ấm thoảng xuân tình, cứ rán quên nghĩa của mỗi tiếng đi, mà ngâm lên, ngâm năm sáu lần, ngâm hoài cho tới khi những âm anh và ương (thanh, xanh, hương, vương) láy đi láy lại, gợi trong tâm hồn bạn một cảm giác nào đó. Riêng tôi, tôi thấy một cảm giác trong trẻo, hơi buồn buồn, mà cũng hơi vui vui. Tất nhiên là bạn có thể hiểu khác, vì về ý nghĩa của thanh âm, khó có gì là tiêu chuẩn.
Trên kia tôi đã dẫn câu:
Bến Tầm Dương canh khuya hiu hắt,
Hai tiếng hiu hắt rất buồn, song phần lớn sức quyến rũ trong câu không ở hai tiếng đó mà ở hai tiếng Tầm Dương. Bạn cứ thử đổi bốn tiếng ấy đi thì sẽ thấy. Chẳng hạn:
Bến Tầm Dương canh khuya bát ngát (hay gió thổi, sóng vỗ...)
Nhạc vẫn còn, lời vẫn gợi cảm.
Nhưng nếu:
Bến Vàm Nao canh khuya hiu hắt (hoặc Bến Ngã Năm, Bến Hà Nam, Bến Việt Trì...)
thì giá trị câu thơ mười phần mất tới sáu, bảy. Tại sao vậy nhỉ. Phải chẳng âm dương có một ma lực lạ lùng?
Quê tôi có một làng nhỏ tại Sơn Tây, cách bến đò Vân Xa hai cây số và bến đò Chiểu Dương bốn năm cây số.
Hồi mười bốn, mười lăm tuổi, lần đầu tiên được nghe tên bến Chiểu Dương, tôi mê ngay, thích gấp mấy tên Vân Xa[1], và thầm ước được tới bến ấy, xem nó ra sao mà có tên du dương như vậy; cho nên một tháng sau, khi phải về Hà Nội học, tôi cố dụ bác tôi đừng qua bến đò Vân Xa mà đi ngược lại hai ba cây số nữa để qua bến Chiểu Dương, rồi sang Việt Trì lên xe lửa xuôi Hà Nội. Có lẽ âm dương trong Chiểu Dương đã quyến rũ tôi như âm dương trong Tầm Dương vậy.
Và biết đâu, một phần nhạc của đoạn Cùng ngóng nhau trong Chinh phụ ngâm chẳng do âm ương của hai tên Hàm Dương, Tiêu Tương láy đi láy lại:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại,
Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Ông Marouzeau trong cuốn Précis de Stylistique française cũng nhận Pháp ngữ có nhiều tiếng mà đọc lên ta cảm thấy du dương, chứ không phân tích được tại sao, chẳng hạn.
Organdi, germinal, oriflamme, messilor
Nhiều câu thơ có một giá trị đặc biệt về nhạc là nhờ vậy:
Couronnés de thym et de marjolaine. Leconte de Lisle
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur. Victor Hugo
La fille de Minos et de pasiphaé[2]. Racine
*Trong cuốn Luyện văn I, tôi đã nói thanh âm có thể hợp với nghĩa. Chẳng hạn những tiếng run rẩy, du dương, hiu hiu, đủng đỉnh, hấp tấp, mò mờ, rục rỡ... của ta, những tiếng frémir, zéphyr, murmure, grondement, loup, rossignol, flou, éclat, vite, lentement... của Pháp chỉ nghe cách đọc, ta cũng đoán được một phần ý nghĩa.
Tôi nhớ hồi cháu mới bốn tuổi, một người anh họ tôi hỏi đùa cháu: “Cháu coi xem bác, chú Hùng và ba cháu, ai oai hơn hết.” Cháu ngó ba chúng tôi một lát, như suy nghĩ rồi đáp: “Chú Hùng oai.” Chúng tôi đều cười vì lời đó đúng. Tôi liền hỏi cháu: “Thế nào là oai”. Nó đáp: “Con không biết”. Nó không biết là phải vì lần ấy có lẽ là lần đầu nó được nghe tiếng “oai”. Vậy nó đã nhờ được âm mà đoán được nghĩa. Trong trường hợp âm và nghĩa có liên lạc mật thiết với nhau như vậy thì sức quyến rũ của tiếng khá mạnh.
Nhưng cũng có khi âm với nghĩa như ngược nhau. Trên kia tôi đã nói âm ương có vẻ du dương, mà tiếng ương ương (gàn gàn) lại có cái nghĩa khó chịu.
Lại thêm một âm, đi với âm nầy thì êm mà đứng với âm khác thì chướng. Bạn nghe tiếng uyên ương có thấy uyển chuyển, dịu dàng không? Mà tiếng ểnh ương làm ta muốn bịt tai lại.
Âm ảnh hưởng tới nghĩa, nghĩa ngược lại ảnh hưởng tới âm. Người Pháp ghét âm mũi gn và đặt ra tiếng grognon (hay cằn nhằn) mà nghĩa thực hợp với âm (theo tai họ), nhưng chữ mignon (xinh xắn) thì lại dễ thương làm sao! Tiếng bombe (bom) rõ ràng là tiếng nổ, mà bonbon thì lại ngọt như cái bòong boong. Lạ lùng nhất là đọc động từ tinter ta nghe nó vang như chuông, mà đọc động từ teinte (phát âm cũng như tinter) ta chẳng thấy gì đặc biệt về thanh âm cả.
Vậy thì giá trị biểu thị của âm tuy có thật song nó ngấm ngầm. Khi nghĩa trong câu muốn cho âm du dương hoặc trúc trắc, ta mới nhận thấy nó du dương hoặc trúc trắc rồi nhấn mạnh vào giá trị biểu thị đó; còn nếu nghĩa không ăn với âm thì ta bỏ qua; có người Pháp nào để ý tới những điệp âm i trong các tiếng: difficile, visibilité, inpisibilité, những điệp âm é trong các tiếng: indélébile, télégamme, électricité, những điệp âm t trong các tiếng: instituteur, étiqueter, teinture? Mà những điệp âm đó thực chướng tai biết bao!
*Thính giác và thị giác liên quan với nhau: một bản nhạc buồn gợi một cảnh u ám thì một bản nhạc vui chói lợi những màu son, màu hồng. Vì vậy nhiều thi sĩ đã gán cho mỗi âm một sắc. Theo Rimbaud, A màu đen, E màu trắng, I đỏ, U xanh lá cây, O xanh dương.
A. Ghil cũng nhận A đen, E trắng, nhưng U xanh dương, O đỏ và U vàng[3]. Victor Hugo, ngược lại, thấy A và I trắng mà U thì đen.
Mallarmé còn lập dị, định cho mỗi mẫu tự một nghĩa, chẳng hạn: b là phong phú, rộng, cong, nhân từ; P có nghĩa chứa chất ngưng đọng; K diễn cái ý ăn khớp với nhau; d thì nặng nề tối tăm; thì bay bổng, vui vẻ[4]; rồi ông áp dụng vào một bài thơ, bài Le cygne (Con thiên nga) mà vần nào cũng có âm i để tả cái vẻ buồn chán của một cảnh tuyết phủ, tĩnh mịch, cô liêu. Thực là hoàn toàn tưởng tượng.
Hầu hết tiếng Việt đều đơn âm: trái lại đa số tiếng Pháp đa âm, và có tiếng gồm tới chín mười âm. Do tính cách khác nhau đó của ngôn ngữ, mà văn thơ Pháp, Việt có nhiều nét bất đồng.
Thể thơ alexandrin của họ mỗi câu có mười hai cước, còn thơ của ta, từ trước tới nay, dài nhất là tám cước. Nguyễn Vỹ đã không hiểu tính cách của Việt ngữ, bắt chước Pháp, đặt ra loại thơ mười hai cước (Thơ Bạch Nga) và thất bại vì mười hai cước là mười hai tiếng mà mỗi tiếng chứa một ý, nên câu hóa ra quá dài. Đọc câu dưới đây của Voltaire bạn sẽ thấy rõ điều ấy:
On hait ve que l’on a; ce qu’on n’a pas, on l’aime,
Toàn những tiếng đơn âm, câu thơ có vẻ rời rạc, không mềm mại và chứa đựng quá nhiều ý, ta có cảm tưởng như tác giả đã ghép hai câu lại làm một.
Sau Nguyễn Vỹ, Nguyễn Hoàng Tư, trên tờ Thanh Niên, năm 1944 cũng thí nghiệm một thể thơ chín cước, tuy không thật là thất bại một phần có lẽ cũng nhờ tài của ông hơn tài Nguyễn Vỹ; song trong mỗi câu ta vẫn thấy như có một hai tiếng thừa làm cho giọng hùng hồn bớt đi một phần:
Than ôi! sắt vô tình đã trói thân ta!
Thân ta như đè nặng dưới khối sơn hà!
Trời hỡi! Thôi ta còn mong gì vùng vẫy!
Gió thân ơi, sao mi chưa đùng trồi dậy!
Biền mịt mùng trương triều sóng gọn lăn lăn,
Sao mi chưa kéo nước ngập cõi đất bằng?
(Trần Lụy - Lời Lỗ Minh Tiên)
Mỗi câu thơ chứa đựng nhiều cước, đó cũng là một cái lợi của Pháp ngữ vì thơ của họ có thể gồm nhiều thể từ hai ba cước tới 12 cước, song lợi đó chưa hiển nhiên bằng, nhờ tính cách đa âm của tiếng nói, họ có nhiều phương tiện hơn ta để thay đổi văn khí.
Muốn cho văn linh động, muốn diễn cái ý nhanh nhẹn vội vàng, họ dùng những tiếng ngắn:
Lorsqu’un grand coup de vent lui cassa les deux ailes
Victor Hugo
(Khi một ngọn gió lớn làm gãy hai cánh của nó)
Après qu’il eut brouté, trotté fait mille tours
(Sau khi nó đã ăn cỏ, nhảy nhót, quần đi quần lại ngàn vòng)
Trái lại, muốn tả cái gì êm đềm, chậm chạp, họ lựa những tiếng dài:
Parfois comme un soupir de leur âme brulante,
Au sein des épis lourds qui murmurent entre eux,
Une ondulation majestueuse et lente
S’éveille et va mourir à l’horizon poudreux.
Leconte de Lisle.
(Có khi, như một hơi thờ dài của tâm hồn nung nấu của chúng,
Trong đám bông lúa nặng rì rào với nhau,
Một lượn sóng uy nghi và chậm chạp
Tỉnh dậy rồi tan đi ở chân trời đầy bụi).
Les grands pays muets longuement s’étendront
Alfred de Vigny
(Những xứ rộng lớn yên lặng trải ra dài dằng dặc)
Và để gây một cảm giác đều đều, như ru ngủ, họ có thể lựa những tiếng không dài, không ngắn mà số âm bằng nhau:
Je chantais, mes amis, comme l’homme respire,
Comme l’oiseau gémit, comme le vent soupire,
Comme l’eau murmure en coulat.
Lamartine.
(Tôi ca hát, thưa bạn, như loài người thở,
Như loài chim rên rỉ, như ngọn gió than thở.
Như dòng nước róc rách trong khi chảy)
Nhưng Việt ngữ lại hơn Pháp ở chỗ có bằng trắc nên thơ văn ta dễ du dương hơn, và ta có một thể rất đặc biệt, thể biền ngẫu, khiến người Âu phải tán thưởng. Trong cuốn Luyện văn I, tôi đã xét tính cách lên bổng xuống trầm của Việt văn và phép đối vừa về âm, vừa về ý; ở đây tôi chỉ dẫn thêm một thí dụ nữa để bạn nhận thấy, nhờ bình thanh, ta có một giọng trầm rất hợp với những thơ sầu:
Xuân Diệu viết:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không biết vì sao tôi buồn.
Hai câu mười sáu chữ mà chỉ có hai chữ trắc là nhẹ và biết, mà chữ nhẹ, khi ngâm lên, ta chỉ lướt qua; thành thử giọng thơ đều đều không lên bổng xuống trầm, gợi cho ta một nỗi buồn nhè nhẹ.
Trái lại, trong câu:
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
tám tiếng mà chỉ có ba tiếng bằng thành thử giọng rất trúc trắc.
Chú thích:
[1] Trong Hồi kí Nguyễn Hiến Lê chép là “Vân Sa”. (Goldfish).
[2] Tôi không dịch những câu này gì giá trị của nó ở nhạc chứ không ở nghĩa, mà nhạc thì không sao dịch nổi.
[3] Trong câu này, có lẽ 1 trong 2 chữ U là chữ I bị bị in lầm. (Goldfish).
[4] Âm gì “thì bay bổng, vui vẻ”? (Goldfish).