← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII CÁCH DÙNG ÂM THANH CỦA NGƯỜI PHÁP

1.- Tại sao ta nên nghiên cứu cách người Pháp dùng các âm thanh.

2.- Tránh những âm trúc trắc.

3.- Tránh những âm làm người nghe hiểu lầm

4.- Lựa những âm du dương.

5.- Công dụng của phép và điệu dẫn khởi.

6.- Phép hòa điệu dẫn khởi của Pháp.

7.- Nếu vụng dùng phép đó

Người Pháp đã nghiên cứu kĩ về nhạc tính của các âm. Những nhận xét của họ không thể áp dụng hết vào Việt ngữ được, vì ba lẽ:

- Tai họ khí khác tai ta.

Chẳng hạn âm ê, họ bảo là nhẹ, thì riêng tôi tôi không tin là luôn luôn đúng hẳn, tôi thấy có phần nó hơi nặng nữa: ê a, lấm bê bê, mê mệt, chê bai, phệ....

Họ rất ghét âm mũi gn (đọc như nh của ta): chignon, moignon mà ta lại cho nó là nhẹ: nhẹ nhàng, nhu nhuyển, nhí nhảnh, nho nhỏ, nhanh nhẹn...

- Chính họ nhiều khi cũng không đồng ý với nhau. Người thì cho âm a là vui, kẻ lại cho là buồn buồn, về vấn đề đó chỉ cảm được, chứ không giảng được vì không có gì làm tiêu chuẩn.

- Vả lại, ý nghĩa của mỗi âm cũng còn tùy thuộc một phần nào vào nghĩa của tiếng của âm đó. Như tiếng grognon người Pháp cho là khó nghe, nhưng tiếng mignon thì họ lại thích, mà hai tiếng đó đều có âm gn. Tiếng bố nghĩa là tra khảo, bạn nghe có thấy nặng gấp mấy tiếng bố là cha không, nặng hơn cả tiếng bố là vải bố, mặc dầu bố là tra khảo do bố là vải bố mà ra.

Tuy nhiên, ta cũng nên biết những nhận xét của người Pháp về nhạc tính của mỗi âm, để áp dụng phần nào văn thơ Việt; nếu không được vậy thì ít nhất ta cũng có thể hiểu thêm được nhiều cái tế nhị trong văn thơ Pháp.

Vậy trong chương nầy tôi xét cách người Pháp dùng thanh âm để phô diễn tình cảm cùng tư tưởng, và trong chương sau, tôi sẽ xét cách họ phân phối các tiếng trong câu để cho tiết điệu của văn hợp với tiết điệu của lòng.

*

Đa số văn hào Pháp rất chú trọng đến nhạc trong văn. Chắc bạn còn nhớ Gustave Flaubert gọi phòng viết của ông là phòng la hét vì mỗi khi viết xong câu nào, ông liệng bút vào một cái mâm rồi đọc lớn tiếng để xem văn có êm đềm không.

Người ta kể chuyện Victor Hugo mới đầu viết:

Bah! dit il, donne lui la goutte tout de même

(Mặc! ba tôi nói, cũng cứ cho hắn uống)

rồi thấy goutte tout de même hơi trúc trắc, ông sửa lại:

Donne lui tout de même à boire, dit mon père

Lần khác ông đổi câu:

Et que clora la tombe

(Và cái mồ lấp nó lại)

ra:

Et que scelle la tombe

nghĩa không khác mấy (scelle là niêm phong) nhưng tránh được những âm que, clo, ra, với la đứng sát nhau.

Ông thành công nhất khi ông tìm cách bỏ được ba âm t làm nặng câu:

Un souffle tiède était épars sur Galgala

và thay vào những âm f , l, hiu hiu như tiếng gió:

Les souffles de la nuit flottaient sur Galgala

(Những làn gió đêm trôi trên đỉnh Galgala)

Điều văn sĩ Pháp tối kị là làm cho người khác nghe mà có thể hiểu lầm ra một nghĩa kì cục.

Có lần một nhà văn trẻ tuổi làm thơ ca tụng Musset rồi đọc cho ông nghe. Tới câu:

O toi dont le nom brille.

(Ôi người mà tên chói lợi)

ông hóm hỉnh ngắt ngay: “Xin lỗi, tôi có vạch nó cho ông coi bao giờ đâu,” vì hai chữ nom brille đọc gần như nombril là lỗ rốn.

Một bá tước nọ cũng tập tễnh làm thơ, lại khoe với André Gide. Nghe xong câu:

Passe aussi son chemin, ma chère,

A Gide hỏi:

Sao lại nói giồi thịt ở đây vậy?

Vì s’aussi son đọc như saucisson (giồi thịt).

*

Tránh lối khổ độc chỉ là bước đầu, tạo được nhạc mới là mục đích. Chẳng riêng gì thi nhân trong phái tượng trưng hễ cầm bút thì ai cũng trọng nhạc. Đây là cảnh ca hát dưới ánh trăng của Lamartine:

A la molle clarté de la vôute sereine,

Nous chanterons ensemble assis sous le jasmin,

Jusqu’à l’heure où la lune, en glissant vers Misène

Se perd en pâlissant dans les feux du matin.

(Dưới ánh sáng nhu nhuyễn của vòm trời trong trẻo,

Chúng ta sẽ ca hát với nhau ở dưới bụi lài,

Cho tới cái giờ mà mặt trăng, nhẹ trôi về mũi Misène

Lợt dần rồi mất trong ánh lửa của bình minh).

Và đây là một cảnh xinh xinh giữa trời đất bao la dưới ngọn bút của Victo Hugo:

Connaissez vous sur la colline

Qui joint Montlignon à Saint Leu

Une terrasse qui s’incline

Entre un bois sombre et le ciel bleu?

(Bạn có biết trên quả đồi

Nối Montlignon với Saint Leu

Một cái sân thoai thoải

Giữa một cánh rừng tối và trời xanh?)

Không biết Paul Valéry có bắt chước Edgar Poe trong bài The Raven không mà cũng gieo thêm một vần nữa ở giữa câu:

Le songe se dévide avec une paresse

Angélique, et sans vesse, au doux fuseau crédule

La chevelure ondule au gré de la caresse

Sợ làm mất hết thi vị, nên tôi không muốn dịch nghĩa ba câu đó, cũng như bốn câu dưới đây trong đó Sully Prudhomme đã dùng phép điệp tự với mục đích duy nhất là tạo nhạc:

Entendre au pied, du saule où l’eau murmure

L’eau murmurer

Ne pas sentir tant que ce rêve dure,

Le temps durer

*

Khi ta ngâm câu

Hồng Hồng Tuyết Tuyết

của Dương Khuê, rõ ràng ta thấy tiếng trống nhà trò: tùng tùng cắc cắc; mà ngâm câu:

Đá gập ghềnh nghiêng đôi bánh gỗ

của Vũ Hoàng Chương thì ta tưởng chừng có tiếng xe lọc cọc trên một con đường gồ ghề.

Âm thanh trong hai câu đó không có giá trị ở chỗ nó du dương mà ở chỗ nó bắt chước được, gợi được tiếng trống, tiếng xe, cho nên người Pháp gọi cách hành văn ấy là hòa điệu bắt chước (harmonie imitative) hoặc hòa điệu dẫn khởi (harmonie suggestive).

Ta không cần biết cách hành văn đó tự nhiên do cảm hứng hay là gò gẫm do công phu mà thành, vì có sự thành công nào trong văn nghệ mà không cần cả cảm hứng lẫn kĩ thuật. Cho nên tôi bỏ phần lí thuyết vu vơ mà chỉ tìm công dụng thực tế của phép hòa điệu

Trong hai thí dụ kể trên và trong câu dưới đây của Huysmans, nghệ sĩ dùng thanh âm để gợi thanh âm:

... de pesants chariots roulèrent dans les souterrains de la tour sur des pavés métalliques et ébranlèrent du bruit de leur tonnerre les murs.

(... những chiếc xe chở nặng lăn trong hầm của cái tháp trên những đường lát sắt và tiếng vang như sấm của nó làm rung chuyển các bức tường.)

Bạn thử đếm xem có bao nhiêu âm r nó gợi cho ta những tiếng gầm gầm vang động trong hàng đó.

Thanh âm cũng có thể dùng để gợi hình ảnh:

Sa barbe éto it d’argent comme un ruisseau d’avril

Victor Hugo

(Bộ râu của cụ bạc như dòng suối tháng tư)

Những âm vang: barbe, d’argent, ruisseau d’avril tả được dòng nước trong và sáng.

Sau cùng, thanh âm lại còn diễn được tình cảm. Ta có cảm tưởng là Bossuet đau đớn quá trước cái chết nửa chừng xuân của Henriette d’Angleterre, đã bứt đầu vỗ ngực mà đọc lời điếu nầy, trong đó ông đã dùng rất nhiều âm t:

O nuit désastreuse, o nuit effroyable, où retentit tout à coup comme un éclat de tonnerre, cette étonnante nouvelle...

(Ôi, đêm tai hại, ôi đêm rùng rợn, đêm mà cái tin sét đánh nầy bỗng vang lên như một tiếng sấm động...)

Tài tình nhất là La Fontaine đã nhờ hai âm s và g gợi được những nỗi ưu sầu triền miên của con thỏ:

Un lièvre en son gite songeait.

(Một con thỏ nghĩ ngợi trong hang).

*

Ta có thể nói là văn nhân Pháp đã khai thác đến triệt để tính cách của thanh âm, và nhiều nhà chuyên khảo về văn thể đã ghi những thí nghiệm của những cây bút nổi danh nhất. Tôi tra cứu trong ba cuốn: Précis de Stylistique française của Marouzeau, Le Style et ses techniques của Cressot, Théorie de l’Art et des Genres littéraires của Jean Suberville và gom lại dưới đây những nhận xét của ba nhà ấy về công dụng biểu thị của các âm.

- Âm a gợi tiếng kèn.

La diane au matin fredonnat sa fanfare.

Victor Hugo.

(Buổi sáng kèn binh rung lên điệu đánh thức),

và có vẻ nghiêm nghị:

Qui le pare et le drape en personnage grave.

Paul Valéry

(Nó phục sức ông ta thành một nhân vật nghiêm nghị)

- Những âm i, é[1] cho ta một cảm tưởng nhẹ nhàng.

Mes baisers sont légers comme des éphémères

Baudelaire

(Những cái hồn của tôi nhẹ như những con phù du).

Victor Hugo đã dùng hai âm đó để tả những nóc nhà in trên nền trời như răng cưa:

Cette ville

Aux longs cris

Qui profile

Son front gris,

Des toits grêles,

Cent tourelles,

Clochers grêles,

C’est Paris!

(Châu thành đó

Có những tiếng kêu dài,

In lên nền trời

Mặt trước xám của nó,

Những mái nhà mảnh mai,

Hàng trăm tháp nhỏ,

Những gác chuông mảnh mai

Là Paris!)

- Âm O vang:

Ouvrait les deux battants de la porte sonore.

Victor Hugo.

(Mở hai cánh của cái cửa kêu vang)

- Những âm an, on réo rắt, vui vui:

C’était un chant de fanfare éclatant.

Marcelle Tinayre

(Đó là một điệu kèn binh vang dội).

Sonne, sonne donc, joyeux carillon

(Gõ, gõ lên chứ, hỡi chuông vui vẻ)

- Âm ou có khi thì mềm mại:

Assoupi de sommeils touffus

Mallarmé

(Thiếp đi trong những giấc ngủ say sưa)[2]

Les roues du break commengaient à rouler mou dans la boue des rues

(Ch. Braibant)

(Những bánh của chiếc xe bắt đầu lăn mền mềm trong lớp bùn trên đường.)

có khi gợi được những tiếng vang, tùy âm đứng trước nó:

L’horizon rouge où roule, où court un sound tonnerre

P. Louys

(Chân trời đỏ rực, nơi đó một tiếng sấm chạy vang lên rầm rầm)

có khi lại cho ta một cảm giác nặng nề:

Le vieux Louvre!

Large et lourd,

Il ne s’ouvre

Qu’au grand jour...

Victor Hugo

(Điện Louvre cổ!

Rộng và nặng,

Nó chỉ mở cửa

Khi đã bạch nhật...

Chú thích:

[1] Những ăm đó, cũng như những âm ở sau đều đọc theo tiếng Pháp.

[2] Chính nghĩa là rậm rạp.