CHƯƠNG IX TIẾT ĐIỆU
1.- Tiết điệu do cách nhấn âm và cách ngắt câu. Sự nhấn âm.
2.- Chủ âm trong thơ Việt.
3.- Tiết điệu trong văn xuôi.
4.- Cách phân phối các vế trong câu.
5.- Cảm giác do tiết điệu gây nên.
Nhạc trong văn không phải chỉ do nhạc tính của mỗi tiếng mà do cách sếp đặt các tiếng cho thành tiết điệu. Tiết điệu gồm hai yếu tố: sự nhấn âm và cách đặt câu.
Văn không phải là để coi mà là để đọc, cả những khi đọc thầm, ta cũng nhấn vào những âm nào đó và lướt qua những âm khác. Cho nên người cầm bút nên khéo phân phối những âm sao cho giọng lên bổng xuống trầm để tạo nên một tiết điệu hợp với tình cảm cùng tư tưởng mình muốn diễn.
Trong một tiếng đa âm Anh hoặc Pháp luôn luôn có một âm đọc mạnh hơn các âm khác; âm đó có người gọi là chủ âm; tôi muốn gọi là thực âm để đối với những hư âm, tức những âm mà khi đọc ta chỉ lướt qua.
Trong Anh ngữ, thực âm phát rất mạnh và vị trí rất thay đổi, không theo một qui tắc nào nhất định, có khi đứng ở đầu như:
The exercice the difference, always, practical, to wande.
có khi đứng ở giữa:
The infirmity, the confusion, essential to remember
ở cuối:
perform, to proclaim
Tiếng Pháp, thì thực âm gần như luôn luôn ở những âm áp chót
Cadence, extrémité, bouleverser, primitif, cependant
và phát chỉ mạnh hơn những âm khác một chút thôi.
Ngoài ra, bất kì ngôn ngữ nào, trong mỗi câu cũng có những tiếng quan trọng hơn những tiếng khác, mà đọc tới ta phải nhấn mạnh vào. Thường những tiếng đó là danh từ, động từ, tính từ mà người Trung Hoa gọi chung là thực từ và người Pháp gọi là mots substantiels. Trong thí dụ dưới đây, những tiếng đó được in đậm:
Khổng phu tử ngắm cảnh tượng của tạo hóa mà xét việc cổ kim; đạt được cái lẽ biến hóa của trời đất.
Trần Trọng Kim
Sau cùng có những tiếng tự nó không quan trọng, không thuộc vào loại thực từ, nhưng tác giả cho nó một nghĩa quan trọng, nên ta cũng phải nhấn mạnh vào:
Chữ tâm, kia mới bằng ba chữ tài
Nguyễn Du
Destre to please, and you will infallibly please.
Tục ngữ Anh
(Bạn cứ muốn làm vừa lòng đi, và bạn sẽ nhất định làm vừa lòng được.)
S’il en demeure dix, je serai le dixième,
Et s’il n’en reste qu’un, je serai celui là
Victor Hugo
(Nếu chỉ còn có mười người thì tôi sẽ là người thứ mười.
Và nếu chỉ còn mỗi một người, thì tôi sẽ là người đó.)
*
Việt ngữ đa số là đơn âm nhưng có bằng trắc, nên sự nhấn âm trong thơ ta khác với thơ Anh, Pháp, không do thực âm mà do luật bằng trắc. Thường cứ hai hay ba âm lại có một âm được nhấn:
Thăng Long thành hoài cổ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bà Huyện Thanh Quan.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa.
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ăm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Nguyễn Du
Nước có chảy mà phiền chẳng giã.
Cỏ có thơm mà dạ[1] chẳng khuây.
Nhủ rồi, nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Phan Huy Ích
Đau đớn thay cho đến cả linh hồn,
Cứ bay tìm chán nản với u buồn
Để đỉnh sọ[2] trơ vơ tràn ý thịt!
Mà phải đâu đã đến ngày tiêu diệt!
Ai bảo dùm[3]: Ta có có ta không?
Chế Lan Viên
Trong những thí dụ ấy, các thực âm cách nhau nhiều lắm là ba âm và cứ một bằng rồi tới một trắc. Luật đó có hai chỗ bất tiện. Trước hết ta gần như bắt buộc phải đặt những tiếng quan trọng trong câu vào những chỗ nhất định: tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ bảy trong thơ luật; tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ tám trong thơ lục bát; tiếng thứ ba, thứ năm, thứ bảy trong hai câu thất thể song thất lục bát... Sau nữa, nhịp điệu thơ Việt đều đều quá, không uyển chuyển linh động như thơ Anh, Pháp:
Gần đây, nhiều thi sĩ muốn phá nhịp điệu cổ trong thơ Việt, bỏ luật bằng trắc, tạo ra thể thơ tự do, song hình như người ta chỉ mới thay đổi được giọng thơ, không cho nó lên xuống đều đều nữa, mà có khi cho nó lên luôn hoặc xuống luôn ba bốn nhịp; còn độ dài của mỗi nhịp vẫn là hai hay ba âm một. Có lẽ đó là một đặc tính của Việt ngữ chữa thể bỏ được.
Trưa nay trên đèo cao,
Ta say sưa vài phút.
Nào anh hút tôi hút[4]
Rồi lát nữa chia tay,
Anh về xuôi, tôi ngược,
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tình cá nước.
Tố Hữu
Trong văn xuôi, không bị niêm luật bó buộc, ta có thể lựa chọn và phân phối các tiếng, các âm theo ba loại tiết điệu:
- Tiết điệu gấp: câu gồm nhiều thực âm, lời vang mà giọng mạnh.
Cậu tôi băng rừng lướt bụi mang ra cho mẹ tôi một vành khăn trắng và một tin buồn.
Lý Văn Sâm
- Tiết điệu khoan: câu gồm nhiều hư âm, đọc lên có vẻ nhẹ nhàng:
Elle nourrit les petits oiseaux qui l’ invoquen dès le matin par la mélodie de leurs chants
Bossuet
(Nàng nuôi những con chim con nó gọi nàng từ khi mới hừng sáng bằng giọng êm đềm của tiếng hót)
Một mùi cỏ hoa đượm bùn thoang thoảng đưa lên.
Cỏ vệ đường lóng lánh nước sương trông tựa hồ hàng muôn ngàn hạt kim cương vậy.
Từ Ngọc.
- Tiết điệu điều hòa: thực âm và hư âm xen nhau đều đều:
On voyait sur le visage de Cyrus cette noble fierté qui paraissait dans ses yeux dès qu’il avait pris les armes et qu’il était à cheval
De Seudéry.
(Người ta thấy trên nét mặt của Cyrus cái vẻ tự tôn cao cả đó nó hiện ngay trong cặp mắt ông khi ông đã cầm binh khí và ngồi trên lưng ngựa.)
Trong cái gia đình yên lặng nầy, bõ già gây được thiện cảm với mọi người, không phải vì nịnh hót mà chính vì lòng trung thành. Lắm lúc trông tội nghiệp lạ. Y tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như một kẻ có quyền dính dấp vào đấy. Cái hoài bão to lớn của y là lúc nằm xuống trong nhà cụ Kép, y được tiểu chủ cho một cái “áo”gỗ vàng tâm thật dày.
Nguyễn Tuân.
*Tuy nhiên tiết điệu trong văn xuôi không tùy thuộc cách phân phối những thực âm và hư âm bằng cách phân phối những vế của mỗi câu. Tùy cách ta dùng nhiều vế dài hay nhiều vế ngắn, tùy cách ta sắp đặt vế dài ở trước vế ngắn ở sau, hoặc ngược lại, nhất là tùy cách ta để những mệnh đề chính ở đầu, ở giữa hoặc ở cuối câu mà tiết điệu thiên biến vạn hóa, thành ra tế nhị đến nỗi ta chỉ cảm được chứ khó giảng được.
Tôi xin trích dưới đây ít thí dụ của Jean Suberville để bạn nhận xét tiết điệu trong loại câu dài của Pháp.
Tout ce que peuvent fatre non seulement la naissance et la fortune, | mais encore les grandes qualités de l’esprit, pour l’élévation d’une princesse | se trouve rassemblé | et puis anéanti dans la nôtre|.
Bossuet
(Hết thảy những cái gì mà chẳng riêng dòng dỏi và của cải, mà cả những đức lớn của tâm hồn có thề làm được để nâng cao một vị công chúa, đều gom lại rồi tiêu tan trong bản thân bà công chúa của chúng ta.)
Hai mệnh đề phụ dài bằng nhau rồi tới hai mệnh đề chánh cũng dài bằng nhau, thành thử, câu gồm hai phần, mỗi phần có hai vế tương xứng, mà tiết điệu hóa nghiêm trang hòa hoãn.
Un des soirs de ce long exil | qui expiait les fautes du passé | et éclairait la route de l’avenir, le conquérant tombé s’enquit d’un des compagnons de sa captivité s’il pourrait bien lui dire | ce que c’ était que Jésus Christ.
Lacordaire
(Một buổi chiều trong thời viễn lưu dài đó nó chuộc tội cho quá khứ và soi đường cho tương lai, kẻ đi chinh phục đã bị ngã, hỏi một trong số hiếm các bạn bị cầm tù, có thể cho mình biết đức chúa Giê Du là thế nào không?)
Mệnh đề chính xen vào giữa câu, trước sau đều có hai mệnh đề phụ, cả năm mệnh đề đều dài đại để như nhau. Tiết điệu đều đều, lên dần dần tới mệnh đề chính rồi lại hạ lần lần tới cuối câu.
Restait cette redoutable infanterie de l’armée d’Espagne | dont les gros bataillons serrés, semblables à autant de tours, mais à des tours | qui sauralent réparerleurs brèches | demeuraient inébran lables au milieu de tout le reste en déroute, | et la çatent des feux de toute parts.
Bossuet
Còn lại đoàn bộ binh đáng sợ đó của quân đội Y Pha Nho mà những đại đội đông đảo ken nhau, đại đội nào cũng như cái tháp, - những cái tháp biết lấp lỗ thủng - đứng lại, không gì lay chuyền nổi, ở giữa những đoàn quân khác tán loạn, và bắn lửa ra khắp nơi.)
Mệnh đề chính dẫn đầu, nối sau là ba mệnh đề phụ dài ngắn không đều. Tiết điệu như phát từng đợt một, mỗi lúc một mạnh.
Và đây là những câu ngắt đoạn, hơi dồn dập như xô xát.
Quelle chimère est ce donc que l’homme? |
Quelle nouveauté, | quel chaos, | quel sujet de contradiction, quel prodige
(...)
S’il se vante | je l’abaisse; s’il s’abaisse | je le vante | et je le contredis toujours, jusqu’à ce qu’il comprennel qu’il est un monstre incompréhensible. |
Pascal
Vậy thì con người là một quái vật tới bực nào? Mới mẻ làm sao, hỗn độn làm sao, vật mâu thuẫn làm sao, dị thường làm sao (...) Nếu nó tự tâng bốc lên thì tôi hạ nó xuống; nếu nó tự hạ xuống thì tôi tâng bốc nó lên, và luôn luôn tôi kháng nghị nó, cho tới khi nào nó hiểu rằng nó là một quái vật không thể hiểu được.
Tuy nhiên, trong sự biến hóa vô cùng của tiết điệu ta cũng cần theo vào qui tắc:
- Tiết điệu của văn phải hợp với tiết điệu của ý nghĩa là hình thức và nội dung phải ăn nhau:
- Trong một đoạn văn xuôi đừng dùng toàn những vế dài bằng nhau, cho độc giả khỏi chán.
- Tiếng cuối mỗi vế hoặc mỗi câu đừng nên vần với nhau, mà độc giả sẽ có cảm tưởng là ta làm thơ tự do, gò gẫm quá, thiếu tự nhiên, như câu dưới đây của Paul Fort:
Du coteau qu’illumine l’or tremblant des genêts j’ai vu jusqu’au lointain le bercement du monde
j’ai vu ce peu de terre infiniment rythmée
me donner le vertige des distances profondes.
(Từ trái đồi rực rỡ màu vàng rung rung của cây kim tước chi, tôi đã thấy tới tận khoảng xa xa sự đong đưa của thế giới, tôi đã thấy chút đất nhịp nhàng vô cùng đó, làm cho tôi chóng mặt vì những khoảng xa thăm thẳm.)
Nhưng nếu tình ý ta sâu sắc thì ta có thể như Molière, cô lại thành thơ mà xen nó vô văn xuôi:
La naissance n’est rien òu la vertu n’est pas.
(Gia thế đáng gì đâu khi thiếu đức)
hoặc như Renan, sắp đặt thành hai vế cân đối:
...dans le linceul de pourpre où dorment les dieux morts.
(...ở trong cái khăn liệm màu đỏ huyết dưới đó thần linh yên giấc ngàn thu)
*Những văn sĩ Pháp có tài tạo tiết điệu nhất là Bossuet, Chateaubriand, Victor Hugo và La Fontaine. Các nhà đó khéo sử dụng thanh âm của mỗi tiếng, cách sắp đặt các vế, các mệnh đề và cách ngắt câu để gợi những cảm giác rất thay đổi và luôn luôn hợp với tình ý họ muốn diễn.
Khi thì văn đi một hơi mạnh và dài rồi ngắt lại chững chạc, nghiêm nghị như giáng từng búa xuống:
Celui qui règne dans les cieux... est aussi le seul qui se glorifie de faire la loi aux rois, et de leur donner quand il lui plait, de grandes et de terribles leçons.
Bossuet
(Vị thần ngự trị trên trời... cũng là vị độc nhất tự lãnh vinh dự đặt luật pháp cho vua chúa và tự ý mình, cho họ những bài học lớn lao và ghê gớm.)
Khi thì như một đạo quân ồ ạt vừa tiến vừa xả súng:
Restait cette redoutable infanterie de l’armée d’Espagne dont les gros bataillons serrés, sembalbles à autant de tours, mais à des tours qui sauraient réparer leurs brèches, demeuraient inébranlables au milieu de toutle reste en déroute, et lançaient des feux de toute parts
cũng của Bossuet mà tôi đã dẫn. Bạn có nhận thấy những tiếng à autant de tours, mais à des tours qui, de tout le reste en déroute, des feux de toutes parts, vừa vang vừa ngắn, xen vào những hàng tiếng dài làm cho bạn có cảm giác là nghe thấy đạn nổ chung quanh không?
Chateaubriand có đặc tài về lối văn du dương, trong đoạn cuối bài tả đêm trăng ở châu Mĩ [5]
…qui, dans le calme de la nuit, | seprolongeaient de désert en désert | et expiraient à travers les forêts solitaires |
Ông lựa những vế càng gần cuối câu càng dài và những âm aient, sert, rêts, taires, vừa gợi được tiếng vang của thác Niagara trong rừng khuya, vừa lưu lại dư hưởng trong tâm hồn người đọc.
Chú thích:
[1] Sách in là “da ê”, tôi tạm sửa lại thành “dạ”. (Goldfish).
[2] Sách in là “sọ ê”, tôi tạm sửa lại thành “sọ”. (Goldfish)
[3] Sách in là “gùm”, tôi tạm sửa lại thành “dùm”. (Goldfish)
[4] Hút thuốc lá,
[5] Xin xem trọn bài đó trong cuốn Luyện văn II của tác giả.