Abraham Lincoln và món quà đáng sợ
Lúc ba mươi hai tuổi Abraham Lincoln tuyên bố: “Tôi bây giờ là kẻ khốn khổ nhất đáng sống.” Đến tuổi đó, ông đã trải qua hai trận trầm cảm nặng.
“Nếu cái tôi cảm thấy được chia đều cho cả gia đình nhân loại, sẽ không có một bộ mặt vui vẻ nào trên trái đất. Tôi không biết trước được có bao giờ mình đỡ hơn không; tôi rất sợ là mình sẽ không đỡ hơn. Vẫn như tôi hiện giờ là không thể. Tôi hoặc phải chết hoặc phải đỡ hơn.”
Nhưng tất nhiên, dù Lincoln công khai tuyên bố ông không sợ tự tử, ông đã không tự tử. Ông chọn sống.
Trên tờ The Atlantic có một bài rất hay: “Chứng trầm cảm nặng của Lincoln” của Joshua Wolf Shenk. Trong đó Shenk viết trầm cảm buộc Lincoln hiểu đời sống sâu sắc hơn:
Ông cứ nhất quyết thừa nhận những nỗi sợ của mình. Suốt những năm cuối hai mươi đầu ba mươi tuổi ông càng lúc càng dấn sâu hơn vào chúng, lảng vảng bên cái mà theo Albert Camus là câu hỏi nghiêm túc duy nhất con người phải đối mặt. Ông hỏi mình có sống nổi không, mình có đối mặt với khốn khổ của đời sống được không. Cuối cùng ông quyết định là ông phải làm được... Ông có một “mong muốn không thể cưỡng” là làm được cái gì đó khi ông còn sống.
Rõ ràng ông là một người nghiêm túc. Một trong những người nghiêm túc nhất trong lịch sử. Ông đấu những cuộc chiến tâm thần và thể xác. Có lẽ hiểu biết về đau khổ dẫn đến kiểu thấu cảm ông cho thấy khi tìm cách thay đổi luật về chế độ nô lệ. (“Hễ nghe kẻ nào biện hộ cho chế độ nô lệ, tôi lại có thôi thúc mạnh mẽ thấy nó được đem áp dụng với hắn,” ông nói.)
Lincoln không phải nhà lãnh đạo danh tiếng duy nhất chống chọi với trầm cảm. Gần cả đời Winston Churchill sống với “chó đen”. Có lần nhìn đám lửa, ông nói với nhân viên nghiên cứu trẻ của mình: “Tôi biết tại sao mấy súc củi bắn lửa ra. Tôi biết bị thiêu đốt là thế nào.”
Quả thật là ông biết. Về mặt thành tựu sự nghiệp ông là một trong những người tích cực nhất từng sống. Vậy nhưng ông liên tục cảm thấy nản lòng và toàn bóng đen.
Triết gia chính trị John Gray, một nhà văn phi hư cấu ưa thích của tôi (đọc Chó rơm để thấy tại sao), tin rằng không phải Churchill “vượt qua” trầm cảm để thành nhà lãnh đạo chiến tranh giỏi, đúng hơn kinh nghiệm trầm cảm trực tiếp làm ông thành nhà lãnh đạo chiến tranh giỏi.
Trong một bài cho BBC, Gray lập luận là chính “sự cởi mở khác thường” của Churchill với cảm xúc mãnh liệt lý giải được vì sao ông đánh hơi thấy hiểm nguy mà đầu óc quy ước hơn không nhìn thấy. “Với hầu hết chính trị gia và những người có ý kiến quyết định muốn xoa dịu Hitler, Đức Quốc xã chẳng qua chỉ là một diễn đạt chói tai của chủ nghĩa dân tộc Đức,” Gray viết. Cần có một đầu óc khác thường để giải quyết một mối đe dọa khác thường. “Ông thấy trước được nỗi kinh hoàng sắp đến là nhờ những lần thăm viếng của chó đen.”
Nên, phải, trầm cảm là ác mộng. Nhưng nó còn có thể hữu ích hay không? Nó có thể là cái cải thiện thế giới theo nhiều cách khác nhau hay không?
Đôi lúc mối liên kết giữa trầm cảm, lo âu và sức sáng tạo là không thể chối cãi. Cứ thử nghĩ đến bức tranh Tiếng thét đâu đâu cũng thấy của Edvard Munch chẳng hạn. Đây không chỉ là một mô tả thị giác chính xác nhất cơn hoảng loạn có cảm giác thế nào, mà nó còn, theo chính họa sĩ, được gợi cảm hứng trực tiếp bởi một khoảnh khắc hãi hùng hiện sinh. Đây là những gì được ghi trong nhật ký:
Tôi đang đi trên đường thì mặt trời lặn; bất chợt, bầu trời ngả sang đỏ như máu. Tôi dừng chân dựa hàng rào, cảm thấy mệt không thể tưởng. Những ngọn lửa và máu tràn lan khắp con vịnh đen xanh. Bạn bè tôi cứ đi tiếp, trong khi tôi tụt lại phía sau, sợ run. Rồi tôi nghe tiếng thét mênh mông, bất tận của thiên nhiên.
Nhưng ngay cả không có “bằng chứng không thể chối cãi” của một đợt trầm cảm cụ thể truyền cảm hứng cho một tác phẩm thiên tài cụ thể, vẫn không thể nào phớt lờ con số vĩ nhân từng chống chọi lại trầm cảm. Ngay cả không chú tâm vào những Plath những Hemingway những Woolf quả đã tự tử, danh sách người mắc chứng trầm cảm đã biết cũng gây sững sờ. Và lắm lúc có mối liên hệ giữa bệnh này và công trình họ tạo ra.
Rất nhiều công trình của Freud dựa trên phân tích chứng trầm cảm của chính ông và cái ông tin là giải pháp. Cocaine là cái có tác dụng cho ông, nhưng rồi - sau khi dọn nó ra cho những người bị bệnh khác - ông mới nhận ra nó có thể hơi gây nghiện.
Franz Kafka là một thành viên nữa trong Đại sảnh Người nổi tiếng bị Trầm cảm. Cả đời ông bị chứng sợ xã hội và cái mà mọi người giờ xem là trầm cảm lâm sàng. Ông còn là người mắc chứng nghi bệnh sống trong nỗi sợ sự thay đổi về thể xác và tinh thần. Nhưng mắc chứng nghi bệnh không có nghĩa bạn sẽ không bị bệnh, nên khi ba mươi tư tuổi Kafka mắc bệnh lao. Thật thú vị, mọi thứ chúng ta được biết đã giúp chữa chứng trầm cảm cho Kafka - bơi lội, cưỡi ngựa, đi bộ đường trường - là những theo đuổi lành mạnh về thể xác.
Có phải chứng sợ bị giam giữ và cảm giác bất lực trong tác phẩm của ông, rất thường chỉ được diễn dịch về mặt chính trị, còn là hệ quả ông bị chứng bệnh khiến người ta cảm thấy sợ bị giam giữ hay không?
Câu chuyện được biết đến nhiều nhất của Kafka là Hóa thân. Một người chào hàng ngủ quên và bị trễ làm, khi tỉnh dậy thấy mình biến thành một con côn trùng khổng lồ. Phải, đó là câu chuyện về tác hại làm mất nhân tính của chủ nghĩa tư bản, nhưng còn có thể hiểu nó là ẩn dụ cho trầm cảm, bệnh “Kafka” nhất trong các loại bệnh. Vì, như Gregor Samsa, nhiều lúc người bị trầm cảm có thể tỉnh dậy trong căn phòng họ đã ngủ rồi cảm thấy khác hẳn. Một kẻ xa lạ với chính mình. Bị mắc kẹt trong ác mộng.
Cũng tương tự, Emily Dickinson có viết được bài thơ “Tôi cảm thấy một đám tang, trong óc mình” nếu không chịu nỗi đau đớn tột cùng trong đầu? Tất nhiên, không phải ai mắc chứng trầm cảm cuối cùng rồi cũng thành Lincoln hay Dickinson hay Churchill hay Munch hay Freud hay Kafka (hay Mark Twain hay Sylvia Plath hay Georgia O’Keeffe hay Ian Curtis hay Kurt Cobain). Nhưng nghĩ cho cùng thì kể cả người bình thường đâu phải ai cũng được như vậy,
Mọi người thường dùng chữ “mặc dù” trong ngữ cảnh bệnh tâm thần. Người này người kia làm này làm nọ mặc dù bị trầm cảm/lo âu/OCD/chứng sợ khoảng trống/gì đi nữa. Nhưng đôi lúc “mặc dù” đó phải thay là “vì”. Chẳng hạn, tôi viết vì bị trầm cảm. Trước đây tôi chẳng phải nhà văn. Đơn giản là không có cái mãnh liệt cần có - để thăm dò mọi thứ với sự tò mò và sinh lực không ngừng nghỉ. Sợ hãi làm ta tò mò. Buồn bã khiến ta ưa triết lý. (“Tồn tại hay không tồn tại?” là câu hỏi mỗi ngày đối với nhiều người mắc chứng trầm cảm.)
Trở lại với Abraham Lincoln, cái chính cần ghi nhận là vị tổng thống này luôn bị trầm cảm. Ông chưa bao giờ hết hẳn mà ông sống cùng với nó và làm được những điều lớn lao. “Sự vĩ đại nào Lincoln đạt được đi nữa cũng không thể giải thích là chiến thắng được đau đớn cá nhân,” Joshua Wolf Shenk viết trong bài tôi đã đề cập. “Đúng hơn, phải giải thích nó là sản phẩm tự nhiên của chính hệ thống đã tạo ra nỗi khổ đó... Lincoln không làm được công trình vĩ đại vì ông giải quyết được vấn đề u sầu của mình; vấn đề u sầu của ông càng chính là chất đốt cho ngọn lửa công trình vĩ đại của ông.”
Vậy nên. Cho dù không thể vượt qua hẳn bệnh trầm cảm, ta vẫn có thể học cách sử dụng cái được thi sĩ Byron gọi là “món quà đáng sợ”.
Ta không cần phải dùng nó để cai trị một đất nước, như Churchill hay Lincoln. Ta thậm chí không cần phải dùng nó để vẽ một bức tranh thật đẹp.
Ta chỉ cần dùng nó trong đời sống. Chẳng hạn, tôi thấy rằng dứt khoát nhận biết chuyện chết chóc có thể khiến tôi vững vàng quyết tâm vui sống chừng nào còn được vui sống. Nó làm tôi quý những khoảnh khắc quý giá với con tôi và với người phụ nữ tôi yêu. Nó thêm sự mãnh liệt theo nhiều cách dở, nhưng còn cả những cách hay.
Sức sống trong nghệ thuật và chính trị chỉ là một ảnh hưởng từ sự mãnh liệt đó, nhưng nó còn bộc lộ theo cả triệu cách khác, hầu hết không làm bạn nổi tiếng nhưng về lâu dài, phần nhiều nó vừa thêm vào cũng vừa lấy đi.