← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V : TƯ TƯỞNG

Lý Văn-Phức là một nhà nho thuần-túy. Sở học của ông bắt gốc từ Lục kinh và Tứ thư, tôn Khổng, Mạnh và theo Chu, Trình.

Nay muốn biết rõ tư tưởng và khuynh hướng Lý-Văn-Phức, ta phải xét qua những tác phẩm Hán văn và cuốn Nhị thập tứ hiếu diễn âm của ông.

Riêng sùng thánh hiền Trung-quốc. – Cũng như nhiều nho giả khác, ông một niềm tôn sùng thánh hiền cổ xưa. Đối với Khổng-tử, ông cho bút pháp Xuân-thu là « bất di bất dịch », nên ông đã tán dương bằng câu thơ này:

Ni-sơn đại bút nghiêm « nhân » Sở.

Nghĩa là ngòi bút cao-cả của Trọng-ni (tên tự Khổng-tử), khi chép kinh Xuân-thu, rất nghiêm-nhặt đối với nước Sở là hạng « Di-địch » (rợ mọi): dù nước Sở cường thịnh ở đời bấy giờ (đời Xuân-thu) cũng « bị » Trọng-ni kêu là « nhân » (hạng người ngoài), chứ không được chép theo tước phong của Sở.

Đối với Tống nho, Chu-tử, ông cho rằng, khi sinh thời, Chu-tử ở huyện Đồng-an 35, đã lấy Thi, Thư, Lễ, Nhạc cảm hóa được nhân dân, và đem trung, tín, liêm, sỉ sửa đổi được phong tục địa-phương ấy 36. Cho nên, khi thăm Tử-dương thư-viện của Chu-tử ở Đồng-an (tân-mão, 1831), ông đã thốt ra câu thơ này:

Hải cương Lễ, Nhạc: đồn, ngư hóa 37.

Vì quá tôn sùng thánh hiền một cách cực đoan như thế, nên ông tuy đã nhiều lần ra ngoài, đi Tiểu-tây-dương, đi Tân-gia-ba, đi Ma-cao, từng trông thấy đèn điện, máy nước, cầu sắt, cửa kính, xe lửa và thu lôi tiên..., nhưng vẫn cho họ là « di địch » (rợ-mọi). Chứng cớ ấy, ta thấy ở đầu đề một bài thơ chữ Hán ông làm khi ở Áo-môn (bính-thân, 1836): « Áo-môn chư Di hữu thức Hoa tự giả ». (Ở Áo-môn, có nhiều « Ngoại di » cũng biết chữ Trung-hoa).

Miệt thị văn-tự Tây-dương. – Đối với Anh-văn bấy giờ, ông gọi là « Phiên ngữ » hoặc « Phiên âm ». Dẫu vậy, năm canh-dần (1830), nhân đi Tiểu-tây-dương, ông cũng có ghi chép những điều mắt thấy tai nghe mới lạ, làm thành sách, nhan là Tây hành kiến văn kỷ lược. Tựu trung có mục « Văn tự » là phần khảo sát sơ-sơ về văn Anh. Ông viết thế này: « Thể chế văn-tự có một lối riêng, không giống kiểu chữ « khoa đẩu » như con nòng-nọc 38, cũng không phải lối chữ triện cổ như vết chân chim 39. Xét đến bản thể, chỉ có 20 chữ cái, thế mà thêm vào, bớt ra, chuyển đi, mượn lại, có thể nẩy thành vô số tự dạng, dịch ra âm Tàu thì khác nhau, mà nghĩa thì phảng-phất hơi giống chữ Tàu. Nay xin cử ra 12 chữ số để tỏ cho thấy rõ hình dạng chữ họ » 40. Thế rồi ông viết: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 100, 1000. Bên mỗi chữ số ấy, ông có chua « Phiên âm » để bảo cách đọc 41.

Đến chỗ chép về thói quen họ « coi thường giấy chữ », ông viết: « Suốt nước không ai kính tiếc giấy chữ 42. Phàm những giấy chữ đã dùng rồi, thì hoặc xé mà giẵm chân lên, hoặc vất bỏ ở đường-xá: Họ khinh lờn là như thế! ». Rồi ông phê bình: « Đó vì chữ họ không phải là chữ nho, kinh họ không phải là kinh Thánh, nên không có gì đáng lạ. »

Coi vậy, đủ biết ông có thành kiến riêng trọng sách cổ Trung-quốc, coi khinh văn-tự Tây-dương. Do những thành kiến này, tư-tưởng ông đã nghiêng-trúc về mặt hẹp hòi, thiên lệch và nệ cổ... Chẳng hạn: trong Nhị thập tứ hiếu, ông cho rằng đã là con hiếu thì phải làm như Dũ Kiềm-Lâu 43: « nếm phân » cha khi cha đau nặng và cầu chết thay cha để mong cha được tăng thêm tuổi thọ:

Nếm « dơ », vâng cứ nhời thày:

Ngọt ngào đầu lưỡi, chua cay trong lòng!

Và:

Đêm đêm, hướng Bắc, triều Nam:

Xin đem tính mạng thay làm thân cha.

Tin Trời. – Như ta đã thấy ở chương « Cá tính », ông tin rằng Trời là đấng chủ trương họa phúc và điều khiển mọi việc nhân gian. Chẳng thế, khi thuyền suýt đắm, ông khóc lóc kêu cầu ở trước bàn thờ Thiên-hậu. Khi phê bình về những kỹ xảo của người Anh, ông viết: « Mọi việc đều vận dụng sức người làm cùng-cực được những ngón khéo léo, chỉ có cái sống và cái chết thì họ riêng phải dành quyền cho Tạo-hóa » 44.

Vì tư tưởng ông xây dựng trên quan niệm « tin Trời » (tin Thiên-hậu, tin Tạo-hóa) như thế, nên suốt tập Nhị thập tứ hiếu, ông lấy Trời làm then chốt lập luận. Ta thấy như:

1) Về truyện Quách Cự chôn con để nuôi mẹ, rồi đào được lọ vàng, ông kết luận: Cho hay Giời khéo ngọc thành...

2) Về truyện Ngô Mãnh 45 nằm trần cho muỗi đốt no để cha mẹ được ngủ yên, ông cũng kết thúc bằng một giọng ấy:

Cho hay phú tính bời Giời:

Những đau trong ruột, dám nài ngoài da.

3) Về truyện Dũ Kiềm-Lâu nếm phân khi cha đau nặng, và đêm đêm cầu khẩn « Xin đem tính mệnh thay làm thân cha », làm cảm động đến « tòa Tinh-tú » khiến cha lại được bình yên, ông hạ lời bình: Cho hay máy động huyền vi...

Ý nói chính vì lòng hiếu của Kiềm-Lâu đã làm chuyển động được máy mầu-nhiệm của Trời đó.

4) Về truyện Chu Thọ-Xương từ chức để đi tìm mẹ, rồi mẹ con lại được sum vầy, ông cho là vì có Trời cả:

Giời đâu phụ lòng thành cho nỡ:

Chốn đồng-châu, bỡ-ngỡ gặp nhau.

Và:

Cho hay máu chảy ruột mềm,

Không Giời, ai tưởng còn tìm được đây?

Quan niệm về đạo hiếu. – Ông quan niệm rằng gia đình là đơn vị trung tâm của xã hội, mà cha con là đạo rất trọng trong ngũ luân. Khi đi sứ Yên-kinh (tân-sửu, 1941), nhân gặp đầu xuân, mồng hai Tết, là ngày giỗ cha, ông có bài thơ « Nguyên đán, nhị nhật, bi thuật » 46, kết bằng hai câu rất đau buồn:

Trần kiếp, cực tri xuân thị hảo ;

Xuân lai, du tử mỗi san nhiên!

Dịch:

Kiếp trần vẫn biết xuân bao đẹp ;

Xuân đến, riêng ai lệ ướt đầm!...

Đến mồng 4 tháng mười, là ngày kỷ niệm thân mẫu qua đời, ông cũng khóc bằng vần thơ « bi thuật » 47:

Khách địa hà niên không vịnh hiếu,

Chung thiên thử nhật bất thành ai.

Tam canh nhập mộng Tây-hồ nguyệt,

Vạn lý thương tâm Bắc-lĩnh mai!

Ý nói: « Từ mùa đông năm ất-mùi (1835), hồi đi sứ, làm « khách » tại Quảng-đông, ta có cùng bạn đồng-sự vịnh thơ Nhị thập tứ hiếu. Nhưng rút cục chỉ là chuyện hão, vì chính ngày ấy, tháng ấy, mẹ ta qua đời, còn đâu mà báo đáp để mong thực hiện chữ « hiếu »?

« Thôi, suốt đời từ đấy, hễ gặp ngày mồng 4 tháng 10 này, thì ta vô cùng đau buồn, đến nỗi không thể tự kìm hãm nổi để cho lòng thương xót ấy có tiết độ được nữa!

« Đêm đến, vào khoảng canh ba, vì muốn về nước, dự lễ giỗ mẹ, ta mơ màng thấy ánh trăng Tây-hồ là phong cảnh quê nhà 48.

« Nhưng bừng con mắt dậy, nhìn thấy cây mai ở núi bên Bắc-quốc đang nở hoa vào đầu tháng 10, trong dịp ta đi sứ Yên-kinh (tân-sửu, 1841) này, cảm thấy muôn dặm xa khơi, quê người đất khách, lòng ta luống những cảm thương! »

Vì quan niệm chữ « hiếu » như thế, nên ông cho đạo hiếu là « đất nghĩa giời kinh » 49, có làm tròn được chữ « hiếu », thì do đó suy ra, mới thành-tựu được « trăm nết » khác:

Gương treo đất nghĩa, giời kinh,

Ở sao cho xứng chút tình làm con?

Chữ « hiếu » niệm cho tròn một tiết,

Thì suy ra trăm nết đều nên.

(N.T.T.H.D.Â.)

Nhưng, thực ra, ông quên khuấy rằng chính trời đất cũng không tự giữ được cái lý và cái nghĩa thường mãi mà không di dịch, biến đổi. Chứng cớ là trời có mùa xuân ấm, lại có tiết đông hàn. Đất có lúc phun lửa từ địa tâm, có lúc động đất làm đảo lộn cả sông núi... Thế thì cái lý và cái nghĩa mà ông nêu đó chỉ có thể « có được » ở một xã hội nhất định và một thời đại nhất định nào thôi. Chính ông, trong nội-tại cũng đã tự mâu thuẫn quá rồi: ông muốn lúc nào cũng được gần gụi cha mẹ để thỏa lòng « sớm viếng, khuya hầu, quạt nồng, ấp lạnh », nhưng sự thực lại chua chát biết bao: đến ngay chính ngày cha mất (giáp-thân, 1824) thì ông đang ở lỵ sở, không kịp nhìn mặt cha phút cuối cùng, khi mẹ chết (ất-mùi, 1835), thì ông đang đi xứ Quảng-đông, không bôn tang được.

Đó vì điều-kiện kinh-tế và hoàn-cảnh thời-thế đã dồn ông vào một cảnh ngộ phải vì việc nước mà gác tình nhà, lấy chữ « trung » mà thay chữ « hiếu ». Cho nên ông càng băn khoăn và thắc mắc về sự báo đáp cha mẹ thì tư tưởng ông càng thiên về việc « khuyến hiếu », mong lấy phần lý thuyết bù lại phần thực hành. Bởi thế, khuynh hướng về đạo lý và giáo huấn được biểu-hiện rõ rệt trong văn thơ ông:

Buổi công hạ, cảm thân giày đội,

Xa hương quan, gần với Thánh, Hiền,

Trông vào những thẹn bóng đèn,

Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm.

Đó cũng là một trong các động-cơ và các lý-do chính đã làm cho cuốn Nhị thập tứ hiếu diễn âm của ông ra đời. Về điểm này, sau sẽ luận kỹ.

Chú thích:

[35] Nay thuộc đạo Hạ-môn, tỉnh Phúc-kiến, Trung-hoa.

[36] Theo lời Dẫn ở bài « Triển yết Tử-dương thư viện, cung kỷ » của Lý Văn-Phức.

[37] Ý nói Chu-tử đem Lễ, Nhạc khai hóa cho dân miền bãi biển, làm cho loài vật như con lợn, con cá, cũng cải-hóa cả (lấy chữ trong kinh Dịch. Tín cập đồn ngữ).

[38] Một lối chữ cổ của Trung-hoa.

[39] Bản chép tay viết lầm là « điểu dạng », thực ra phải viết là « điểu triện » mới đúng.

[40] Dịch theo nguyên văn chữ Hán.

[41] Ông chua âm mấy chữ số ấy lẫn-lộn cả tiếng Pháp và tiếng Anh, như: 1 (Phiên âm: oan) ; 2 (Phiên âm: đơ) ; 3 (Phiên âm: ti) ; 4 (Phiên âm: cát) ; 5 (Phiên âm: xanh) v.v.

[42] Theo thói quen Việt-nam trước đây, ta rất kính trọng giấy chữ nho (nhiều người kêu là « chữ ta »). Có nhiều nhà thường treo cái bồ hoặc cái hom ở bên tường vách để đựng giấy chữ, ngoài đề: « Kính tích tự chỉ ». Mà đền Ngọc-sơn, Hà-nội, cách đây độ 20 năm về trước, hằng ngày vẫn cho một ông già gánh đôi bồ đi nhặt ở đường-xá, và thu ở những nhà quen-thuộc các giấy chữ nho, đem về đốt một cách kính cẩn ở cái « Kính tự đình » trước cửa Đền trông ra cầu Thê-húc. Vì tập quán người Âu-tây khác với người mình bấy giờ, nên Lý-Văn-Phức tỏ vẻ ngạc nhiên mà nói thế.

[43] Một nhân vật trong Nhị thập tứ hiếu. Nhiều bản quốc-ngữ phiên âm lầm là « Sưu Kiềm-Lâu ».

[44] « Bách ban nhậm lực cùng nhân xảo, Sinh tử thiên lưu Tạo-hóa quyền ».

[45] Nhiều bản quốc-ngữ lầm làm « Ngô Mạnh ».

[46] Mồng hai Tết, xót-xa buồn kể nỗi lòng.

[47] Xót-xa buồn kể nỗi lòng.

[48] Quê Lý Văn-Phức ở Hồ-khẩu gần hồ Tây.

[49] Do chữ trong Hiếu-kinh: « Phù hiếu: Thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã » (Gọi tắt: Thiên kinh, địa nghĩa): Hiếu là đạo thường của trời, nghĩa phải của đất, rất chính đáng, bất di bất dịch.