← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI: NGHỆ THUẬT

Lý Văn-Phức là người học rộng, đi nhiều, lăn-lộn với thực tế đã lắm, nên văn thơ ông chịu ảnh hưởng trực tiếp ở nhân-sự, ở cõi thiên-nhiên không phải ít.

Theo Lê Văn-Đức, Lễ-bộ thượng-thư đời Thiệu-trị, đã viết ở bài Tựa cuốn Chu-nguyên tạp vịnh của Lý Văn-Phức, thì Phức «...bình nhật, làm từ, phú, ca, hành, lối gì cũng thạo, mà riêng về thơ, lại là món sở trường. Đó vì tiên-sinh học vấn rộng, nghiên cứu tinh vi, dốc chí dụng công về thơ lắm lắm. Lại vì, trong vòng mười năm trời, hai lần được phái đi tuyệt-vực là nơi mà người ta ít tới thì chính tiên-sinh lại đặt gót tận chỗ, từng-trải tận nơi... » (dịch).

Ở cuối truyện Lý Văn-Phức trong Đại nam liệt truyện chính biên, các sử thần triều Nguyễn cũng viết: « Phức là người có danh tiếng về văn chương, trước sau hàng ba mươi năm, phần nhiều trổ sức cần lao ở mặt biển. Như đã thấy trong thơ ông, Phức tỏ ra từng-trải bao phen, trước cảnh sóng gió hãi hùng, khói mây biến huyễn... » (dịch).

Còn ông, ông tự bày tỏ quan niệm về thơ ca, như ta đã thấy ở lời Tựa của ông trong cuốn Mân hành tạp vịnh, là tập thơ chữ Hán ông làm năm tân-mão (1831), niên hiệu Minh-mệnh thứ 12, trong dịp hộ tống gia-quyến Trần-Khải, người Thanh, bị bão, giạt sang ta, trở về Phúc-kiến: «...Lời nói là tiếng của tâm. Cho nên những cái gì đã lộ ra tình cảm, hình thành ra ca vịnh, là đều do tâm phát ra cả, còn khéo hay vụng thì không kể đến » (dịch).

Ông lại nói: Tôi vốn vụng và quê, đâu dám tự nhận lấy việc trứ-thuật... » Làm ra tập Mân hành tạp vịnh này, là cốt « ghi chép lấy một chuyến đi, không để cho sự-thực phải mai một, hòng mở tầm tai mắt cho bọn con em và các cháu trong nhà đó thôi, chứ há dám trưng thơ văn ra chỗ công-chúng như lời người ta thường giễu: « Què hay đi » ư? » (dịch).

Cũng một ý ấy, ông muốn những văn thơ mình viết ra chỉ để dùng trong gia đình, dạy bảo con cháu. Cho nên câu cuối đoạn kết Nhị thập tứ hiếu diễn âm, ông viết: Muốn lưu gia phạm nên truyền quốc âm.

Ý nói: tác-giả Nhị thập tứ hiếu diễn âm, vì muốn đặt một khuôn-mẫu cho gia-đình để con cháu giữ theo mãi mãi, nên mới diễn truyện « Hai mươi bốn người hiếu thảo » ra văn nôm để truyền dạy trong nhà.

Xây dựng trên quan-niệm cơ-bản ấy, nghệ thuật ông có những đặc điểm như:

1) Sát với thực tế. – Vì ông có óc thực tế, lại giàu kinh-nghiệm trong nhiều chuyến đi ra hải ngoại, nên văn ông chủ quan, thiết thực, chú trọng về ý hơn lời.

Chữ « hiếu » niệm cho tròn một tiết,

Thì suy ra trăm nết đều nên.

2) Thành thực. – Tính ông thành thực, văn ông cũng thành thực. Một khi ông đã tin chữ « hiếu » là « đất nghĩa, giời kinh », là « vòng di-luận » không ai trốn khỏi, thì ông cho rằng người đời, không cứ lúc biến hay lúc thường, lúc nguy hay lúc yên, bao giờ cũng phải chi hiếu, thuần hiếu, như thoi vàng ròng không sợ thử lửa:

Cho hay những lúc gian nan,

Thật vàng, dẫu mấy lửa than, cũng vàng.

Và, không kể đến điều-kiện kinh-tế ra sao, công cuộc giáo-dục và hoàn cảnh xã-hội thế nào, ông cứ một niềm cho rằng « người cùng » (người không làm nên và nghèo khổ) cũng như « kẻ đạt » (kẻ làm nên, hiển đạt, giàu sang, sung-sướng), ai ai cũng có thể giữ được chữ « hiếu », thực hành được đạo thường (di-luân), bất cứ ở trong trường hợp nào cả:

Kể chi kẻ đạt, người cùng,

Lọt lòng, ai trốn khỏi vòng di luân?

3) Mộc-mạc. – Trước ông, Việt văn có dịch phẩm bay-bướm lẹ-làng như Chinh phụ ngâm ; đồng thời với ông, lại có truyện nôm đẹp-đẽ ba-lan như truyện Kiều. Nhưng xét Nhị thập tứ hiếu diễn âm thì nghệ thuật của ông chỉ có vẻ mộc-mạc vững-vàng, chứ không diễm-lệ, chi-phấn. Ví dụ:

Người tai mắt đứng trong thiên địa,

Ai là không bác mẹ sinh thành?

Thật là một câu văn mộc-mạc cả lời lẫn ý.

4) Một vài điểm trội. – Trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm, nghệ thuật của ông đã biểu hiện được một vài điểm trội:

a/ Đối chỉnh. – Trong nhiều truyện nôm xưa, như Chinh phụ ngâm và Kiều, cổ nhân vì chịu ảnh hưởng sâu xa ở những thể văn biền ngẫu và câu đối, nên tuy ở trong hình thức lục bát hoặc gián thất, cũng rất chú-trọng đến sự đối trọi, đối, chỉnh. Văn Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lý Văn-Phức cũng theo chung một lệ ấy. Ta thấy như:

Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân.

Và:

Cha trông xuống, cũng sa giọt tủi ;

Mẹ nghe rồi, cũng đổi lòng xưa.

b/ Thực cổ nhi hóa 50. – Truyện Kiều sở dĩ phổ biến, là vì tác-giả Nguyễn Du khéo Việt-hóa được những chữ, những điển đã lấy hoặc đã mượn ở trong Hán văn. Nghệ thuật Lý-Văn-Phức cũng có cái sở trường ấy. Chẳng hạn, Hán văn có câu:

Cổ nhân nhất nhật dưỡng,

Bất dĩ tam công hoán 51.

Thì ông đã « ăn khéo » được món ấy của Hán văn mà « tiêu hóa » ra tiếng Việt:

Cho hay dạ hiếu khôn cùng ;

Dẫu tam công, chẳng đổi lòng thần hôn.

5) Có tính cách phổ biến. – Trong khi các cụ nho học ở đương thời đang dạy những món luân lý cho con cháu bằng các sách nho, như Lễ-ký, Hiếu-kinh và Minh-tâm bảo-giám, thì ông sáng suốt hơn ai hết, đã mạnh bạo đem tiếng Việt mà diễn âm cuốn Nhị thập tứ hiếu để chực phổ biến món học luân lý cho gia-đình, và nếu có thể, sẽ cho cả xã-hội nữa. Quả nhiên, ông đã thành công một phần nào, vì suốt lớp nho học xưa, từ hồi đồng ấu, không mấy ai là không thuộc lòng một vài bài Nhị thập tứ hiếu diễn âm. Đó tuy là bởi lối giáo-dục xưa « cưỡng bách thuộc lòng », nhưng cũng bởi một phần nào tác phẩm ông, văn trôi chảy, lời bình dị, giúp cho người ta dễ nhớ, nên mới có tính cách phổ biến trong một xã-hội nhất định và một thời-đại nhất định như vậy.

Chú thích:

[50] Ăn của người xưa mà làm hóa thành cái tốt cho mình, chứ không phải nuốt của người ta thế nào, rồi lại thổ ra thế ấy.

[51] Người xưa cho rằng nếu một ngày được phụng dưỡng cha mẹ, thì dù ai có « các » cho làm chức tam công (thái-sư, thái-phó và thái-bảo) cũng không đổi lòng mà tham lấy đâu.