← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VII: NHỊ THẬP TỨ HIẾU DIỄN ÂM

Trước khi trích giảng một hai truyện trong cuốn Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lý Văn-Phức, ta nên xét qua những yếu điểm về sách ấy đã:

Nguyên tác chữ Hán của ai? – Theo chỗ khảo cứu của kẻ cầm bút này, thì nguyên tác Nhị thập tứ hiếu bằng Hán văn là do Quách Cư-Nghiệp, đời Nguyên (1280-1267), biên tập. Tác-giả dựa vào các sử sách cũ, chọn lấy hai mươi bốn người hiếu thảo mà làm thành truyện. Chẳng hạn: tích Vương Tường thì lượm ở Vương Tường truyện trong Tấn thư, tích Dương Hương thì lấy ở sách Dị-uyển 52...

Dưới đây, xin tóm tắt người và việc làm hiếu thảo của hai mươi bốn nhân vật ấy:

1) Ngu Thuấn, cũng gọi Đại Thuấn, một vị hiền quân đời cổ Trung-quốc, trị vì từ năm 2255-2205 trước Công nguyên: hiếu cảm được voi và chim.

2) Hán Văn-đế, trị vì từ 179-157 trước Công nguyên: nếm trước thuốc thang.

3) Tăng-tử, tên Sâm, tự Tử-dư, người Vũ-thành đời Xuân-thu (722-481 tr.C.n.), học trò Khổng-tử, thuật sách Đại-học, làm sách Hiếu-kinh: thông cảm, động lòng khi mẹ cắn ngón tay.

4) Mẫn-tử, tên Tổn, tự Tử-khiên, học trò Khổng-tử: rét mặc áo đơn, vẫn thương mẹ ghẻ.

5) Tử-Lộ, họ Trọng, tên Do (Lộ là tên tự) người đất Biện, đời Xuân-thu, học trò Khổng tử: đội gạo nuôi cha mẹ.

6) Đàm-tử 53, người đời Chu (1050-256 tr. C.n.): vắt sữa hươu nuôi cha mẹ.

7) Lão-Lai-tử, tự Bá-du, người nước Sở, đời Xuân-thu: áo hoa nhởn múa, làm vui cha mẹ.

8) Đổng-Vĩnh, người đời Hậu-Hán (25-220): ở đợ lấy tiền táng cha.

9) Quách Cự, người đời Hán: chôn con, nuôi mẹ.

10) Khương Thi, người đời Hán: hiếu cảm được suối và cá.

11) Thái 54 Thuận, người đời Hán: hái dâu nuôi mẹ.

12) Đinh Lan, người đời Hán: tạc tượng cha mẹ để phụng dưỡng.

13) Lục tích, người Ngô-quận, đời Tam-quốc (220-264): giắt quít về biếu mẹ.

14) Giang Cách, tự Thứ-ông, người Lâm-tri đời Đông-Hán (25-220): làm mướn nuôi mẹ.

15) Hoàng Hương, tự Văn-cường, người An-lục, đời Đông Hán: quạt nồng ấp lạnh.

16) Vương Biều 55, người Doanh-lăng đời Tấn: ấp mồ mẹ khi sấm sét.

17) Ngô Mãnh 56, người quận Bộc-dương, đời Tấn: cho muỗi đốt mình để cha mẹ ngủ yên.

18) Vương Tường, người Lâm-nghi, đời Tấn: nằm váng giá, kiếm cá cho mẹ ghẻ.

19) Dương Hương, con Dương Phong, người Nam-hương thuộc Thuận-dương: đánh hổ cứu cha.

20) Mạnh-Tông, tự Cung-vũ, người Giang-hạ đời Tam-quốc: khóc tre khiến tre nảy măng để mẹ ăn.

21) Dũ-Kiềm-Lâu 57, người nước Tề: nếm phân cha và cầu chết thay cha.

22) Đường phu-nhân, tức Đường-thị: cho mẹ chồng bú trọn tuổi già.

23) Chu-Thọ-Xương, người đời Tống: bỏ quan, tìm mẹ.

24) Hoàng-Sơn-cốc, tên là Đinh-Kiên, tự là Lỗ-trực 58, hiệu là Sơn-cốc đạo nhân, người Phân-ninh đời Tống (khoảng triều Thần-Tông, 1078-1085, đến Triết-Tông, 1086-1097): đang làm quan cũng vẫn rửa đồ đi đại tiểu tiện cho cha mẹ.

Những người và việc ấy, về sau, họa sĩ và thi nhân Trung-hoa hoặc Việt-nam trước đây thường dùng làm đề-tài mà vẽ tranh hoặc ngâm vịnh: họa phẩm và thi phẩm đó, người ta gọi là tranh và thơ Nhị thập tứ hiếu. Nay xin dẫn ra mấy bài làm thí dụ rồi dịch nghĩa ra Việt văn để giới thiệu với các bạn đọc:

MẪN TỬ-KHIÊN: ĐAN Y THUẬN MẪU

Mẫn thị hữu hiền lang

Hà tằng oán vãn nương.

Đường tiền lưu mẫu tại,

Tam tử miễn phong sương.

Dịch:

Họ Mẫn có con hiền

Oán gì mẹ ghẻ thiên!

Trong nhà còn để mẹ:

Ba trẻ khỏi cơ hàn.

LÃO-LAI-TỬ: HÍ THÁI NGU THÂN 59

Hí vũ học kiều si:

Xuân phong động lục y.

Song thân khai khẩu tiếu,

Hỉ khí mãn đình vi...

Dịch:

Nhởn múa học thơ ngây:

Áo xanh trước gió bay...

Hai thân mừng, nhoẻn miệng ;

Nhà cửa ngập vui-vầy.

Vì động cơ nào và trường hợp nào đã đưa Lý Văn-Phức đến chỗ làm Nhị thập tứ hiếu diễn âm?

Do ảnh hưởng giáo-dục, ảnh hưởng xã-hội và bản tính cá nhân, ông là người giàu lòng trìu mến cha mẹ. Năm bính-thân (1836), đi sứ Áo-môn, nhân cảm xúc trong lòng, ông viết bài thơ « Hữu cảm » bằng Hán văn có hai câu kết đầy giọng thương xót cha mẹ:

Du du hài nhụ tâm,

Thiên biên nhất phiến nguyệt...

Dịch:

Nao-nao tấc dạ trẻ thơ!

Mảnh trăng xa gửi lửng-lơ bên trời.

Cũng một giọng ấy, ông đã có câu thơ khóc cha khi gặp ngày giỗ (mồng 2 Tết): Sầu thành, dĩ hĩ, trúc chung thiên!

Dich:

Thôi rồi! thôi rồi!

Thành sầu cao đắp suốt đời từ đây!

Và khóc mẹ khi gặp ngày kỵ (mồng 4 tháng 10): Mãn nhãn sương hàn, bách cảm thôi!

Dịch:

Sương mờ đầy mắt lạnh lùng...

Sầu đong trăm mối, mủi lòng một ai!

Nên nhớ rằng ông là người thành-thực và thuần-phác. Mấy câu ấy thật là những lời ra từ đáy lòng, chứ không phải là lối kiểu-sức-hóa như hạng hư-ngụy.

Ông đã là bậc chân nho, giàu lòng hiếu thảo, lại có nhiều dịp phải xa quê-hương, vắng nhà cửa, thường hay tưởng nhớ đến gia đình, đến cha mẹ. Cho nên, khi giao thiệp với các văn hữu người Trung-quốc, cũng như khi sống với những nhân-viên đồng-sự trong sứ-bộ Việt-nam, ông thường lấy chuyện hiếu làm đề tài ngâm vịnh hoặc xướng họa. Chẳng hạn, hồi mùa đông năm ất-mùi (1835), khi ở Quảng-đông, ông với Đàm Thu-Giang, người bạn Trung-hoa, cùng nhau xướng họa theo đầu đề trong truyện Nhị thập tứ hiếu 60.

Cũng vào dịp ấy (ất-mùi, 1835), ông lại cùng các bạn đồng sự vịnh Nhị thập tứ hiếu 61.

Những dịp xướng họa và ngâm vịnh về Nhị thập tứ hiếu ấy chắc đã gợi trong trí ông một ý nghĩ này: nếu chỉ dùng những truyện khuyến hiếu làm đối-tượng chơi thơ với nhau, thì không thiết thực, mà ảnh hưởng chỉ choèn-choèn trong chỗ mình và các bạn-hữu ; chi bằng diễn ra quốc âm, trước là dạy dỗ con cháu trong nhà, sau là truyền rộng đến người nước, như thế là mình đã suy rộng lòng hiếu mà làm phổ cập đến mọi người khiến cho ai ai cũng biết giữ lấy hiếu đạo, há chẳng phải là đã làm được việc « kiêm thiện » đấy ư? Đó chính là một trong những động cơ đã khiến ông diễn Nhị thập tứ hiếu ra quốc âm để khỏi « thẹn bóng đèn » và để « lưu gia phạm ».

Lý Văn-Phức diễn Nhị thập tứ hiếu ra quốc âm vào bao giờ và có những ai đã góp công sửa chữa?

Cuối tập Nhị thập tứ hiếu diễn âm, ông có mấy lời kết thúc: « ...Buổi công hạ cảm thân giày đôi, Xa hương-quán, gần cõi Thánh Hiền, Trông vào những thẹn bóng đèn, Muốn lưu gia phạm nên truyền quốc âm. » Như vậy thấy rằng ông diễn âm Nhị thập tứ hiếu đó vào lúc đang ở nước ngoài (xa hương quán) và nhân những dịp rảnh việc công (buổi công hạ), có thì giờ lo đến văn học. Nhưng động-cơ làm sách và thời-gian làm sách ấy xác thực thế nào, ta nay cần phải khảo kỹ mới biết rõ được.

Năm ất-mùi (1835), đi công cán Quảng-đông, ông có cùng mấy bạn đồng hành trong sứ-bộ, nhân những lúc việc công nhàn rảnh, cùng nhau bàn văn và thơ, những thơ thù ưng đi lại và những bài tả cảnh, kỷ sự đó, như trước đã nói, bọn ông hoặc theo cùng vần mà ngâm vịnh, hoặc cùng một đầu đề mà mỗi bài mỗi khác vần nhau, rồi gom-góp lại, biên thành một tập, nhan là Tiên-thành lữ hoại, tựa tập thơ đó, ông viết ngày tháng chạp, năm Minh-mệnh thứ 16 (1835). Nhờ bài tựa ấy, ta biết rằng ông có làm Nhị thập tứ hiếu vịnh, tức là « vịnh hăm bốn người hiếu », rồi cùng nhau « hợp đính » làm thành một sách.

Vậy có thể quả-quyết rằng cuốn Nhị thập tứ hiếu diễn âm ấy của Lý Văn-Phức được khai sinh vào năm ất-mùi (1835). Thật đúng với những câu « buổi công hạ... », « xa hương quan... » và « truyền quốc âm » như soạn-giả đã viết ở cuối sách mà trên đã dẫn.

Thế nào gọi là « hợp đính »? Là do mấy người họp sức cùng nhau hiệu đính cho cuốn sách được đúng, được khỏi sai lầm.

Khi làm Nhị thập tứ hiếu diễn âm, Lý Văn-Phức có những ai giúp việc « hợp đính »?

Theo như lời tựa ở tập Tiên-thành lữ hoại thì trong việc này có hai bạn cộng tác với ông:

1/ Đỗ Tuấn-Đại, tự Giám-hồ, người làng Ôn-xá, huyện (nay là phủ) Văn-giang thuộc Bắc ninh, đỗ cử nhân khoa quí-dậu (1813) đời Gia-long. Cùng Lý Văn-Phức và Trần Tú-Dĩnh đã từng ba chuyến đi Quảng-đông.

2/ Trần Tú-Dĩnh, tự Thật-hiên, người làng Diên-yên, huyện Kim-động thuộc Hưng-yên, đỗ giải-nguyên (tức thủ khoa), khoa ất-dậu (1825) năm Minh-mệnh thứ sáu. Đối với Lý Văn-Phức, Dĩnh là chỗ môn-nghị (bạn cùng học) và cùng nhau đã đi sứ Quảng-đông đến ba lần.

Hồi tháng chạp năm ất-mùi (1835), khi Lý Văn-Phức làm Nhị thập tứ hiếu vịnh, chính Tuấn-Đại và Tú-Dĩnh đều có góp sức vào việc hiệu-đính để cho thành sách.

Hoàn-cảnh xã hội đời Lý Văn-Phức thế nào mà giúp cho cuốn Nhị thập tứ hiếu diễn âm ấy có điều kiện thuận tiện để ra nhằm lúc và lưu hành dễ dàng?

Sở học của người mình bấy giờ là học Lục kinh 62, Tứ thư 63, tôn Khổng 64, Mạnh 65 và theo Chu 66 Trình 67. Nói rõ hơn, thì người mình đương thời hầu hết đều theo đạo Nho. Mà đạo Nho thì có hai điểm cốt yếu là « hiếu » và « lễ ». Nay xin hãy gạt « lễ » ra một bên, chỉ riêng nói về « hiếu ».

Khi sinh thời, Khổng-tử tuy có nói đến vấn đề « hiếu », nhưng chỉ tùy từng người mà khuyên bảo, chứ không nói cặn kẽ và tỉ mỉ. Đến lớp tăng-tử trở đi, họ mới nói chữ « hiếu » một cách kỹ-càng và chặt-chẽ về mọi phương-diện.

Rồi dần dần đến thiên Nội tắc, trong sách Lễ ký, mới tạo ra biết bao lễ văn phiền-phức và nghi-tiết vun-vặt mà nhà học-giả Hồ Thích gọi là « lối đi điệu trên sân khấu » và « miếng biểu diễn trong võ trường ». (Trung-quốc Triết-học sử đại cương, quyển thượng, trang 127).

Ngoài lối giáo-dục về chữ « hiếu » do ảnh-hưởng nho học đã gây được thế-lực lớn ở đương thời, ta nay lại cần phải xét đến bối-cảnh xã-hội bấy giờ nữa:

Sau khi nhà Tây-sơn đổ bể (1802), nhà Nguyễn lên nắm chính-quyền, ngay từ mấy năm đầu, Triều-đình Thuận-hóa tái lập chế-độ phong-kiến một cách rất chặt-chẽ.

Khoảng đầu niên-hiệu Gia-long (1802-1819), làm sổ đinh, chia dân làm 6 hạng:

1) Tráng (Trai tráng) ;

2) Quân (Binh lính) ;

3) Dân (Con nhà bách tính) ;

4) Cố (Hạng người làm thuê, làm mướn hoặc ở đợ trừ nợ) ;

5) Cùng (Hạng nghèo khó, cùng khốn) ;

6) Đào (Hạng lẩn lút vì không đóng góp nổi hoặc trốn tránh vì có tội lỗi).

Trong cái xã-hội phong kiến ấy, quan-liêu là hạng được hưởng đặc quyền nhiều nhất. xin cử một vài việc làm lệ:

Năm Gia-long thứ ba (1804), chia cấp công điền, ta thấy chênh-lệch nhau giữa các tầng-lớp xã-hội thế này:

Hạng quan viên trên nhất phẩm được: 18 phần

Hạng chánh nhất phẩm: 15 phần

Hạng tráng: 6 phần rưỡi

Hạng già-yếu tàn-tật trong dân đinh: 5 phần rưỡi

Hạng cố-cùng trong lão-nhiêu: 4 phần rưỡi

Hạng lão-nhiêu từ 70 trở lên: 5 phần rưỡi

Hạng tiểu-nhiêu, hạng tàn-tật trong lão-nhiêu: 4 phần

Hạng cô quả: 3 phần

Ngoài ra, hạng quan-liêu còn được đặc ân như:

Năm Gia-long thứ 18 (1819) qui định:

- Phàm quan viên từ tam phẩm trở lên, thì các con đều được làm « quan viên tử »: miễn tất cả thuế thân, dân tiền, cước mễ, điệu tiền, đi lính và tạp dịch.

- Tứ phẩm trở lên, thì cả các con,

- Ngũ phẩm và chánh lục phẩm thì một con: được làm « quan viên tử »: miễn đi lính và tạp dịch, còn thì phải chịu như hạng tráng.

Còn tráng là hạng trai tráng, con nhà bách tính, phải chịu: 1) Nhân thân tiền 68 ; 2) Dân tiền 69 ; 3) Cước mễ 70 ; 4) Điệu tiền 71 ; 5) Binh 72 ; 6) Dao 73.

Năm tân-mùi (1811) bắt đầu soạn sách luật, phỏng theo hầu hết luật lệ nhà Thanh, đến năm ất-hợi (1815), thì bộ luật ấy in xong và ban hành, gọi là Hoàng-Việt luật lệ, tức là bộ luật Gia-long, gồm 22 quyển, cộng 398 điều.

- Về đại tụng, có án trảm (xử chém) và án giảo (bắt thắt cổ)...

- Về tiểu tụng, có án hạt si (đánh bằng roi) và án phạt trượng (đánh bằng gậy) 74.

- Về phong tục lễ giáo, có luật lệ quy định như: « Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa cưới mà đã thông gian thì phải phạt một trăm trượng » 75. Và: « Người đàn bà phạm tội gian-dâm thì bắt cởi áo nhưng cho mặc váy để phạt trượng » [75]

*

Như vậy, thấy rằng xã-hội của soạn-giả Nhị thập tứ hiếu diễn âm là xã-hội phong kiến xây dựng trên nền kinh-tế nông-nghiệp. Người con và người vợ trong gia-đình, cũng như người dân trong nước, là những tầng lớp bị-trị, phải chịu chi-phối dưới giáo dục và pháp-luật của phái thống-trị là: cha, chồng và vua.

Cuốn Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lý Văn Phức chính là con đẻ của hoàn cảnh xã-hội và đáp theo nhu-yếu của thời đại bấy giờ.

Chú thích:

[52] Dị-uyển gồm 10 quyển, của Lưu Kính-Thúc (?-468?), người Bành-thành, cuối đời Tấn, đầu đời Tống.

[53] Nhiều bản quốc-ngữ phiên âm lầm là « Chu-Diễm-tử » hoặc « Diễn-tử ».

[54] Cũng đọc: Sái.

[55] Nhiều bản quốc-ngữ lầm là Vương Thôi, vì chữ « Biều » (hoặc Bầu) giống tự-dạng chữ « Thôi ».

[56] Nhiều bản quốc-ngữ lầm là Ngô Mạnh.

[57] Nhiều bản quốc-ngữ lầm là « Sưu Kiểm Lâu ». Nhân tiện, xin hiệu đính lại.

[58] Nhiều bản quốc-ngữ lầm là « thày Tăng-trực, ở triều Nguyên ». Nhân tiện, xin hiệu đính lại.

[59] Hai đầu đề và hai bài thơ chữ Hán đây là trích theo những bức tranh « Nhị thập tứ hiếu » bán Tết hoặc vẽ trong cuốn Nông-lịch hằng năm không rõ ai là tác-giả.

[60] Theo lời Lý Văn-Phức chua ở bài « Ký tặng Việt hữu Đàm Thu-Giang ».

[61] Theo lời Dẫn của Lý Văn-Phức ở bài « Thập nguyệt, tứ nhật, bi thuật ».

[62] Sáu kinh của nhà nho: Thi, Thư, Dịch, Xuân-thu, Lễ, Nhạc.

[63] Bốn bộ sách của nhà nho: Đại-học, Trung-dung, Luận-ngữ, Mạnh-tử.

[64] Khổng-tử (551-479 tr. C.n.), tên là Khưu, tự là Trọng-ni, người nước Lỗ, đời Xuân-thu. Lời nói và việc làm của Khổng có chép ở sách Luận-ngữ.

[65] Mạnh-tử (372-289 tr. C.n.), tên là Kha, người nước Châu, đời Chiến-quốc, chủ-trương nhân nghĩa và dân vi quí. Lời nói và việc làm của Mạnh có chép ở sách Mạnh-tử.

[66] Chu-tử (1130-1200) tên là Hi, nho giả đời Tống.

[67] Trình Di và Trình Hạo, hai anh em, cũng là nho giả đời Tống.

[68] Thuế thân.

[69] Tiền xâu thành từng tiền, từng quan để đóng thuế.

[70] Thuế đóng bằng thóc, gạo.

[71] Tiền tạp dịch.

[72] Đi lính.

[73] Tạp dịch.

[74] Đoạn khảo về chế độ và pháp luật ở hồi Nguyễn sơ này phần nhiều căn cứ vào tài liệu trong cuốn Thoái thực ký văn (của Trương Quốc-Dụng) và bộ Hoàng Việt luật lệ...

[75] Theo tài liệu trong Hồ Xuân-Hương, nhà thơ cách-mạng, của Hoa-bằng, Bốn phương, sơ, bản Sài-gòn 1951.