← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III TƯ CÁCH - TÀI NĂNG

Thấy một người nào đó không ham quyền vị, danh lợi, ta bảo người đó là một triết nhân vì bản tính chung và nét nổi bật nhất của các triết nhân cổ kim là ghét những cái đó. Không nói các ẩn sĩ và các nhà chủ trương “vô vi” như Lão Trang, Dương Chu - họ trốn tước lộc như trốn dịch bệnh - ngay phái “hữu vi” như Khổng, Mạnh, suốt đời bôn ba khắp các nước, tìm một ông vua biết dùng đạo của mình, cũng không phải vì tước lộc mà vì muốn giúp đời.

Mạnh tử cho rằng kẻ sĩ có bổn phận phải làm quan cũng như nhà nông có bổn phận phải làm ruộng (Sĩ chi sĩ dã, do nông phu chi canh dã[1] - Đằng Văn Công hạ - 3), “kẻ sĩ mất chức thì cũng như chư hầu mất nước” (Sĩ chi thất vị dã, do chư hầu thất quốc gia dã[2] – như trên) và theo truyền thuyết thì Khổng tử lòng như không yên nếu ba tháng không được thờ vua (nghĩa là không làm quan). Vậy mà Khổng tử trước sau chỉ làm quan có mấy năm ở Lỗ, còn Mạnh tử thì suốt đời không được một ông vua nào giao cho một nhiệm vụ quan trọng gì cả, chỉ đóng vai “khách khanh” tức như chức cố vấn ngoại quốc, không có một chút quyền hành; vì họ không chịu “uổng xích nhi trực tầm”[3], giữ đúng quy tắc, không chịu thỏa hiệp; và cho rằng nước vô đạo (vua không thi hành đạo, nước hóa loạn) mà ăn lương của triều đình, là một điều đáng xấu hổ. (Bang vô đạo, cốc; sỉ dã[4] - Luận ngữ - Hiến vấn 1).

Mặc tử về điểm đó đúng là môt nhà Nho, cho nên ông bảo Công Thượng Quá: “Nếu vua (Việt) không nghe lời ta, không dùng đạo ta mà ta tới thì là chỉ vì lúa (vì bổng lộc)”. Còn như vua Việt mà nghe lời ông, dùng đạo ông thì ông chỉ xin được đủ ăn đủ mặc thôi.

Sự ăn mặc của ông chắc là đạm bạc lắm. Sinh trong giai cấp “tiện nhân”, ông chịu khổ quen rồi, không khó tính như Khổng tử. (Khổng nếu thịt không tươi thì không ăn, cắt không đều cũng không ăn, phải có gừng để thơm miệng và dễ tiêu hóa), và cũng không đòi các vua chúa phải cung phụng mình một cách trọng hậu như Mạnh tử (Mạnh cho rằng kẻ sĩ truyền đạo của tiên vương thì có quyền đi đâu dắt trăm cỗ xe, mấy trăm người tùy tùng, đến nước nào thì vua nước ấy phải cung cấp cho đủ mọi vật cần thiết, nếu cần tiền mà vua tặng hàng trăm dật vàng thì cũng có thể nhận được – Coi Mạnh tử của nhà Cảo Thơm 1975 – tr. 97-81).

Mặc tử không hề làm quan, cũng ít khi ở nhà, suốt đời đi khắp nơi lo việc thiên hạ, có lần đi một mình từ Lỗ tới Sở, ngày đêm không nghỉ, thì đời ông tất phải khắc khổ rồi. Khổng và Mạnh, về già, biết đạo mình không thi hành được, trở về quê hương dạy học, còn hưởng được ít năm an nhàn. Mặc tử hình như bôn ba cho tới chết. Chết ở đâu cũng không ai biết. Vốn ghét ca nhạc, ông không được hưởng cái vui nghệ thuật của Khổng tử; lại ghét an nhàn, ông cũng không bao giờ thổ lộ tâm sự hoặc nói chuyện phiếm với môn sinh như Không tử. Sống trên bốn thế kỷ trước Ki-Tô, ông không bị đóng đinh trên thánh giá như Ki-Tô nhưng đã phải vác nó không phải mươi mười lăm năm như Ki-Tô mà ít nhất là năm chục năm vì tương truyền ông thọ tám chín chục tuổi.

Triết gia thì có thể và thường có tinh thần hoài nghi, nhưng chính trị gia phải có đức tự tín. Muốn chiến đấu cho chủ trương chính trị của mình, muốn thuyết phục người khác, lôi cuốn quần chúng thì phải tin chắc rằng chỉ mình mới đúng còn mọi người đều sai. Lão, Trang, là triết gia, có lúc bàn qua về chính trị; Khổng, Mạnh, Mặc, khác hẳn, vừa là triết gia, vừa là chính trị gia, cho nên đức tự tín rất cao.

Khổng tử và Mạnh tử đều tin rằng trời trao cho mình sứ mạng nối nghiệp vua Văn, vua Võ và Chu Công. Khi bị người đất Khuông (nước Vệ) toan hãm hại vì tưởng lầm là Dương Hổ, Khổng tử nói với các môn sinh: “Vua Văn vương đã mất, lễ nhạc, chế độ của ngài chẳng truyền lại cho thầy đấy ư? Nếu Trời muốn để mất lễ nhạc, chế độ ấy sao lại giao phó cho thầy? (Luận ngữ - Tử hãn 5). Rồi khi sắp mất, ông than thở: “Núi Thái Sơn sắp sụp, cây thượng lương sắp đổ, bậc triết nhân sắp mất”[5].

Còn Mạnh tử thì bảo một môn sinh là Sung Ngu: “Trời chưa muốn cho thiên hạ được bình trị, chứ nếu muốn thì thời này, không dùng ta thì dùng ai?” (Công tôn Sửu hạ, 13). Ông chê sự nghiệp của Tề Hoàn công và Quản Trọng nhỏ nhen, không thèm làm; và muốn được như vua Văn, vua Võ nhà Chu kia.

Mặc tử không tự cho mình là được Trời giao phó sứ mạng nhưng cũng nghĩ chỉ học thuyết, chủ trương của mình mới đúng. Thiên Quí Nghĩa, 19, ông bảo: “Lời nói của ta dùng được. Kẻ nào không dùng lời của ta mà thay đổi tư tưởng của ta (suy nghĩ khác ta) thì cũng như không gặt lúa mà đi mót bông lúa vậy; kẻ nào dùng lời của mình mà bài bác lời của ta thì cũng như cầm trứng ném vào đá, ném hết trứng trong thiên hạ, đá vẫn y nguyên, không sứt mẻ được”. (Ngô ngôn túc dụng hĩ. Xả ngôn cách tư giả, thị do xả hoạch nhi quấn túc dã. Dĩ kì ngôn phi ngô ngôn giả, thị do dĩ noãn đầu thạch dã. Tận thiên hạ chi noãn, kì thạch do thị dã, bất khả hủy dã[6]).

Tự tín tới mức đó thì tất nhiên bất chấp dư luận.

Trên bước đường bôn ba, thầy trò Khổng tử mấy lần gặp một số ẩn sĩ và bị họ chê là không biết thời, thời loạn rồi không cứu vãn được nữa mà đi tìm minh quân làm gì nữa cho phí sức, Không tử ngậm ngùi than: “Nếu thiên hạ mà hữu đạo (không loạn) thì Khâu này cần gì phải sửa đổi” (Vi tử - 6). Còn Tử Lộ (học trò của Khổng tử) thì bảo: “Người quân tử ra làm quan là để thi hành cái nghĩa trung quân ái quốc, chứ đạo mà không làm được thì ai cũng biết rồi” (Vi tử - 7). Tử Lộ muốn nói: cứ làm được đến đâu thì làm cho hết bổn phận mình. Hai ông đó nhận những lời chê của các ẩn sĩ là đúng nên có giọng buồn, nhưng vẫn không bỏ chủ trương của mình.

Cao Thạch tử, một môn đệ của Mặc tử, tinh thần không già dặn bằng Tử Lộ, còn ngại bị người ta chê. Ông ta do Mặc tử giới thiệu được vua Vệ cho làm quan khanh, bổng lộc rất hậu. Cao ba lần vào chầu, đều trình bày hết những điều mình muốn nói nhưng không điều nào được vua Vệ thi hành cả, bèn bỏ đi, qua Tề, thưa với Mặc tử:

- Vua Vệ vì thầy mà cho con làm quan khanh, đãi lộc rất hậu. Con ba lần vào chầu, nói hết những điều con muốn nói nhưng không điều nào được thi hành cả, vì vậy mà con bỏ đi. Vua Vệ không cho con là khùng chứ?

Mặc tử đáp:

- Bỏ đi mà hợp đạo thì dù mang tiếng là khùng, có hại gì đâu? (Khứ chi cẩu đạo, thụ cuồng hà thương?[7]). Xưa ông Chu công Đán chê Quản Thúc[8] mà từ chức tam công, qua đất Thương Yên ở phía Đông, ai cũng cho là khùng, nhưng đời sau khen đức của ông, nêu danh ông lên, tới bây gìơ vẫn còn trọng ông. Vả lại Địch này nghe rằng làm điều nghĩa thì đừng tránh lời chê, tìm lời khen (Địch văn chi, vi nghĩa phi tị huỷ tựu dự[9]). Bỏ đi mà hợp đạo thì dù mang tiếng là khùng, có hại gì đâu?

Cao Thạch thưa:

- Thạch con bỏ đi, đâu dám trái đạo. Xưa thầy có dạy con: “Thiên hạ vô đạo thì kẽ sĩ có đức nhân không ở địa vị có lộc hậu”. (Thiên hạ vô đạo, nhân sĩ bất xử hậu yên[10]).

Mặc khen là bỏ lộc mà theo nghĩa, mới thấy có một người là Cao Thạch tử (Canh Trụ -13).

Truyện dưới đây (Canh Trụ - 6) còn thú vị hơn nữa. Chính Mặc tử bị Vu Mã tử chê là khùng. Vì “thầy làm việc nghĩa, tôi chưa thấy ai phục thầy, cũng chưa thấy quỉ thần ban phúc cho thầy, mà thầy vẫn cứ làm”.

Mặc tử không đáp, chỉ hỏi lại một câu:

- Ví dụ ông có hai người giúp việc, một người trước mặt không thì làm việc, vắng mặt ông thì không làm, còn người kia dù có mặt hay vắng mặt ông cũng làm, thì ông quí người nào?

Vu Mã tử đáp:

- Tôi quí người có mặt hay vắng mặt tôi cũng làm việc.

Mặc tử bảo:

- Vậy ông cũng quí người mắc tật khùng rồi đấy.

Mặc tử trong truyện đó thật nhanh trí và có tài ăn nói. Chúng ta có thể tưởng tượng nụ cười mỉa mai của ông khi nói câu cuối đó. Ông đã chẳng sợ bị chê là khùng mà còn tự hào cho rằng mình khùng vì khùng như ông mới đáng quí.

Hai đức kể trên – không ham quyền vị, danh lợi mà sống đạm bạc, với tự tín coi thường dư luận – thì nhiều người có thể bằng Mặc tử được; đến đức nhiệt tâm cứu đời, tận tuỵ vì nhân loại thì cổ kim Đông Tây không thể có được người thứ hai.

Ít nhất là ông đã ba lần ráng cứu cho dân tộc Trung Hoa khỏi cái nạn đâm chém nhau và ông đã thành công hai lần: thuyết phục được Lỗ Dương Văn Quân đừng đánh Trịnh và Sở Huệ vương đừng đánh Tống. (Lần thuyết vua Tề có lẽ ông đã thất bại).

Li kì nhất là lần thuyết Sở Huệ vương. Người nào đã chép truyện đó thành một thiên riêng[11], là nhận thấy giá trị đặc biệt của nó. Nó dài nhất, hay nhất, không thể sắp chung với các truyện khác được. Chỉ một mình nó cũng đủ miêu tả tư cách cùng tài năng của Mặc tử.

Ông chủ trương ngôn hành hợp nhất. Ở trên chúng tôi đã dẫn câu: “chính giả, khẩu ngôn chi, thân tất hành chi” của ông trong bài Công Mạnh 24.

Ông đả đảo sự đánh chiếm nước khác, cho là bất nghĩa; cho nên hay tin nước Sở sắp đánh chiếm nước Tống, ông phải tới thuyết phục ngăn cản, cho dù cách xa hàng nghìn dặm.

Và ông lên đường lên đường ngay, đi luôn mười ngày đêm không nghỉ, tới nỗi quần rách, giày rách, hở chân ra, khó tưởng tượng có người chịu cực khổ nổi như vậy.

Ông thuyết Công Thâu Ban trước chứ không yết kiến vua Sở vội, vì ông biết Ban chủ mưu, nếu Ban chịu bỏ, không dùng thang mây thì vua Sở sẽ không còn muốn đánh Tống nữa. Nhưng gặp Ban, ông không nói tới thang mây vội mà xin Ban giúp một việc, giết giùm một kẻ thù cho mình. Dĩ nhiên, Ban không chịu làm việc bất nghĩa đó.

Gài bẫy xong rồi, Mặc tử mới tấn công tới tấp, buộc Ban ba tội: bất nhân vì giúp một nước lớn đánh một nước nhỏ vô tội; bất trung vì không biết can ngăn vua, để vua làm một việc mình biết là không phải; mâu thuẫn với bản thân vì không chịu giết một người mà tính chuyện giết nhiều người.

Ban không cãi lại, trút trách nhiệm lên vua Sở. Tức thì Mặc tử vô yết kiến vua Sở, cũng dùng lại thuật gài bẫy lần nữa, đưa một thí dụ người giàu có mà ăn trộm của người nghèo, hỏi vua Sở như vậy có phải là mắc tật ăn trộm không. Vua Sở nhận là phải. Lúc đó Mặc tử mới buộc tội ba quan khanh của Sở là quân gian, có tật ăn trộm nước Tống vì Sở giàu mà Tống nghèo. Chúng ta để ý: Mặc tử trút tội lên ba quan khanh mà làm bộ cho rằng vua Sở không có ý đánh Tống vì biết việc đó hại cho điều nghĩa. Ông hiểu tâm lí bọn vua chúa, không muốn làm cho họ xấu hổ, nên không nói thẳng, mắng thẳng vào mặt vua như Mạnh tử (coi thiên Lương Huệ vương thượng và hạ trong Mạnh tử).

Vì vậy vua Sở đã không giận mà còn khen “hay”; nhưng rồi lại đổ lỗi cho Công Thâu Ban.

Mặc tử lại trở về để thuyết phục Ban. Lần này ông không đem nhân nghĩa mà đem thực tế ra thuyết phục. Ông đã chuẩn bị kĩ, tìm cách phá chiến thuật của Ban, bày trận trên mặt bàn, dùng cái đai tượng trưng cho thành, thẻ tre tượng trưng cho binh khí. Ban dùng hết các kiểu máy để đánh thành, ông phá được hết các máy đó. Ban chịu thua, nhưng nảy ra cái ý muốn giết ông, để không còn ai phá được kế hoạch của mình.

Mặc tử cũng đã tiên liệu được điều đó, nên trước khi đi lại Sở, ông đã sai một bọn môn đệ ba trăm người dưới sự điều khiển của Cầm Li Hoạt, dùng những khí giới chống thang mây để bảo vệ thành trì cho Tống. Vậy dù Mặc tử có bị Sở ám sát thì vẫn còn môn đệ của ông. Lúc đó vua Sở mới chịu bỏ việc đánh Tống.

Chúng ta thấy ông nhiệt tâm cứu đời:

- Nói thì làm, làm cho kì được, không kể gian lao.

- Trước khi làm thì chuẩn bị, xếp đặt kĩ, phòng trước mọi việc xảy ra để kịp thời đối phó.

- Kiên nhẫn, thuyết một lần không được thì thuyết ba lần.

- Hiểu tâm lí người đối thoại, đón trước ý của họ, dồn họ vào chỗ bí để họ phải bỏ ý của họ mà chấp nhận ý của mình.

Đức nhiệt tâm của ông cũng thể hiện rõ trong bài Quí nghĩa 2: Một người quen cũ ở Tề khuyên ông thôi đi đừng làm điều nghĩa nữa cho khổ thân vì thiên hạ loạn quá rồi, không ai làm điều nghĩa cả. Ông đáp: “Gia đình nọ có mười người con, một người cày ruộng còn chín người ở không thì người cày ruộng đó không thể không làm gấp lên được. Tại sao? Tại số người ăn thì đông mà số người cày ruộng thì ít. Thiên hạ ngày nay không làm điều nghĩa thì bác nên khuyến khích, chứ sao lại ngăn tôi?”.

So lời đó của Mặc tử với thầy trò Khổng tử sau khi gặp các ẩn sĩ (đã dẫn ở trên), chúng ta thấy nhiệt tâm của Mặc hơn hẳn hai nhà kia. Sinh sau Khổng tử, sống trong một thời đại loạn hơn thời của Khổng, mà ông không hề chán nản, trái lại càng hăng hái hơn, sự khó khăn trong công việc chỉ kích thích ông thêm thôi. Không hiểu nếu sống vào cuối thời Chiến Quốc như Tuân tử hay Hàn Phi, phải mục kích những cuộc chém giết rùng rợn, những mưu mô quỉ quyệt, những sự phản bội trắng trợn, ông sẽ hăng hái tới đâu nữa.

Cứ thấy việc phải làm là Mặc tử làm, dù không được ai khen, không được quỉ thần biết tới thì cũng cứ làm. (Canh Trụ - 6 đã dẫn ở trên). Hơn nữa, dù không có kết quả, chỉ nội cái ý tốt muốn làm điều nghĩa cũng đáng khen rồi, như trong bài Canh Trụ - 4 ông trả lời Vu Mã tử:

Lần đó Vu Mã tử trách ông:

- “Thầy gồm yêu thiên hạ mà chưa thấy có lợi gì cho thiên hạ; tôi không yêu thiên hạ mà chưa thấy có hại gì cho thiên hạ, chưa thấy kết quả mà sao thầy đã tự cho mình là phải mà chê tôi?”.

Mặc tử hỏi vặn lại:

- Nay có người nổi lửa lên, một người xách nước lại tưới cho tắt, một người thêm lửa vào, kết quả chưa thấy, nhưng ông quí người nào?

Vu Mã tử đáp:

- Tôi quí cái ý muốn của người xách nước tưới và chê cái ý muốn của người thêm lửa vào.

Mặc tử bảo:

- Tôi cũng cho ý của tôi là phải mà chê ý của ông”.

Vì nhiệt tâm cứu đời, ông đi đâu cũng thuyết phục thiên hạ làm điều nghĩa, mở đường cho các biện sĩ đời sau, từ Mạnh tử tới Tô Tần, Trương Nghi; dĩ nhiên tư cách của ông khác hẳn họ Tô, Trương, và chỉ có Mạnh tử có thể ví được với ông thôi. Mặc tử bị người đương thời chê là hiếu biện (Mạnh tử - Đằng Văn công hạ - 9), ông cũng bị chê là nói quá nhiều. Lần nào ông cũng nhanh trí, chỉ hỏi vặn lại một câu (như truyện đã kể trên), hoặc dùng ngay lời của kẻ đối thoại để đập lại, có khi dùng cả hai thuật đó, như trong bài Công Mạnh 2:

Công Mạnh tử bảo ông:

- “Mình làm điều thiện thì ai mà không biết? Như người đồng cốt giỏi, không ra khỏi nhà cũng dư gạo ngon (người ta đem cúng hoặc tạ ơn), người đàn bà đẹp không ra khỏi nhà, người ta cũng tranh nhau cầu thân. Còn như mình hành động mà tự khoe thì chẳng ai dùng mình. Nay thầy đi thuyết phục mọi người, sao mà khó nhọc như vậy?

Ông đáp:

- Đời này loạn, số người cầu đàn bà đẹp thì nhiều, cho nên đàn bà đẹp không ra khỏi nhà, nhiều người cũng tìm tới; còn số người cầu người hiền thì ít, không gắng thuyết phục người ta, tất người ta không biết”.

Câu đó đủ bác bỏ lời nông nổi của Công Mạnh tử rồi, nhưng ông lại hỏi vặn thêm:

- Vả lại có hai người bói (bằng cỏ thi) đều giỏi cả, một người đi khắp nơi để bói cho người ta, một người không ra khỏi nhà thì người nào được nhiều gạo hơn?

Công Mạnh tử đáp:

- Người đi bói cho người ta được nhiều gạo hơn.

Mặc tử kết:

- Vậy, đức nhân, nghĩa ngang nhau, người đi thuyết phục mọi người thì công làm điều thiện tất cũng nhiều hơn, thế thì tại sao lại không đi thuyết phục?

Chẳng những riêng bọn sĩ hay quân tử không ưa ông, ngay hạng ẩn sĩ cũng hiểu lầm ông nữa. Trong thiên Lỗ vấn có hai bài 12 và 13 chép lời Mặc tử đáp Ngô Lự. Ngô Lự ở miền Nam Bỉ nước Lỗ, noi gương vua Vũ, tự làm đồ gốm và cấy lấy ruộng mà ăn, hai lần chê Mặc tử là ham thuyết quá, sao không lẳng lặng làm điều nghĩa. Hai lần, ông đều đáp đại khái như nhau, nhưng lần sau, lời lẽ gọn hơn, ông bảo:

- Thí dụ trong thiên hạ không ai biết cày ruộng (Ông lấy ngay nghề của Ngô Lự làm thí dụ). Dạy cho thiên hạ cày ruộng với không dạy mà riêng tự mình cày ruộng thì cách nào kết quả nhiều hơn?

Ngô Lự đáp:

- Dạy người ta cày thì kết quả nhiều hơn.

- Thí dụ đánh một nước bất nghĩa. Đánh trống thúc quan sĩ tiến lên với không đánh trống thúc quân mà riêng mình tự xông lên chiến đấu thì cách nào kết quả nhiều hơn?

- Đánh trống thúc quân thì kết quả nhiều hơn.

Rồi Mặc tử kết:

- Trong thiên hạ, hạng dân thường và kẻ sĩ đi bộ (chưa hiển đạt) ít biết điều nghĩa, dạy điều nghĩa cho thiên hạ thì kết quả cũng nhiều hơn, vậy thì tại sao không dùng lời để thuyết? Nếu dân chúng được cổ động mà tiến về việc nghĩa thì cái nghĩa của tôi cũng chẳng tiến thêm nhiều ư?

Mặc tử luôn luôn dùng những ví dụ cụ thể như vậy để so sánh rồi đặt câu hỏi để kẻ đối thoại dễ hiểu và không cãi được. Ông quả là có tài thuyết phục thiên hạ.

Nhờ tư cách rất cao và tài thuyết phục đó mà ảnh hưởng của ông rất lớn, ngang với ảnh hưởng của đạo Khổng trong suốt thời Chiến Quốc. Mạnh tử sống sau ông khoảng một trăm năm phải nhận rằng học thuyết của ông và của Dương Chu lan tràn thiên hạ, khi bàn bạc, người nào không theo Dương thì theo Mặc. Một trăm năm sau nữa, ảnh hưởng của Dương dường như không còn, trái lại đạo Mặc vẫn còn là một học thuyết danh tiếng nhất, ngang với học thuyết của Nho (Lời của Hàn Phi trong Hiển học). Học thuyết của ông bị nhiều người đả, người đả nhiều nhất là Mạnh tử. Mạnh bảo: “Họ Dương vị ngã, như vậy là không có vua, họ Mặc kiêm ái, như vậy là không có cha. Không cha, không vua tức là cầm thú (Dương thị vị ngã, thị vô quân dã; Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ dã. Vô phụ, vô quân thị cầm thú dã - Đằng Văn công hạ - 9); nhưng chính Mạnh tử cũng nhận rằng ông hi sinh cho thiên hạ, “dù trán mòn, lỏng gót mà có lợi cho thiên hạ thì cũng làm” (ma đính phóng trủng[12] lợi thiên hạ vi chi – Cáo tử hạ). Lời đó là chê mà chính là một lời khen.

Sách Trang tử, thiên Thiên hạ, tuy chê thầy trò Mặc tử: “Dụng tâm của Mặc tử và Cầm Li Hoạt tốt nhưng thực hành thì sai. Họ khiến cho những người đời sau theo học đạo của họ ganh đua nhau lao khổ tới nỗi đùi teo, ống chân rụng hết lông. Như vậy khá hơn loạn, nhưng chưa được là trị”.

Nhưng cũng phải khen Mặc tử là “người tốt trong thiên hạ, không tìm được người nào khác như ông ấy. Chịu cực khổ, dù cho thân thể khô đét, ông ấy cũng không bỏ việc giúp đời. Thật là bậc sĩ có tài năng”. (Mặc tử chân thiên hạ chi hảo dã, tương cầu chi bất đắc dã, tuy khô cảo bất xả dã, tài sĩ dã phù).

Vì nhiệt tâm quá, nên Mặc tử sống khắc khổ và bắt môn sinh cũng phải chịu khắc khổ như mình. Chỉ có mỗi một lần ông khen môn sinh, Thạch Tử Cao, là biết trọng nghĩa hơn bổng lộc (Canh Trụ 13, đã dẫn ở trên); còn ba lần khác, ông chê môn sinh. Bài Quí nghĩa 15, ông vạch cái lỗi ham bổng lộc của một đệ tử đang làm quan ở nước Vệ mà bỏ về chỉ vì vua Vệ hứa ban cho một ngàn bồn lúa mà sau chỉ phát cho có năm trăm bồn; một lần nữa, ông không cho Thắng Xước làm quan nữa vì coi bổng lộc trong hơn điều nghĩa.

Mặc tử bắt đệ tử phải làm việc cật lực, rầy họ khi họ không làm vừa ý ông, khiến Canh Trụ - một đệ tử của ông – có lần đã phản kháng, bảo: “Con không hơn người khác sao?”; nhưng rồi ông lại ôn tồn giảng giải, vuốt ve Canh Trụ: “Ta muốn lên núi Thái Hàng, có một xe thắng ngựa kí (loài ngựa giỏi) với một xe thắng cừu, thì anh đánh xe nào?” Canh Trụ đáp: “Đánh xe thắng con ngựa kí” – “Tại sao vậy?” – “Tại con ngựa kí mới đủ sức leo núi” – “Ta cũng cho là anh đủ sức làm việc đó”. Được thầy cho mình vào hàng ngựa kí, Canh Trụ tất hãnh diện và phấn khởi.

Vậy đối với đệ tử, Mặc tử nghiêm trang mà ôn tồn, công bằng (hiểu tâm lí và tài năng của họ) nhưng không thân mật với họ như cha con. Đọc bộ Mặc tử chúng ta không thấy thầy trò họ trò chuyện với nhau như thầy trò Khổng tử trong Luận ngữ. Mặc không khóc thương một môn đệ nào, không giận dữ với họ như cha giận con, mà môn đệ cơ hồ không quyến luyến với ông như Nhan Hồi, Tử Cống quyến luyến với Khổng tử. Ông coi học trò của ông chỉ như những đảng viên dưới quyền ông thôi. Về phương diện đó, chúng ta quí Khổng tử hơn ông nhiều.

Trong thiên Quí nghĩa 6, ông khuyên chúng ta:

“Phải trừ bỏ sáu sự thiên lệch đi, khi làm thinh thì suy nghĩ, khi nói thì phải răng mình, khi cử động thì phải để làm việc, ba cái đó thay nhau mà dùng thì thành thánh nhân. Phải trừ bỏ mừng, giận, vui, buồn, yêu, ghét mà dùng nhân nghĩa: tay chân, miệng mũi, tai dùng vào việc nghĩa thì thành thánh nhân” (Tất khứ lục tịch. Mặc tắc tư, ngôn tắc hối, động tắc sự. Sử tam giả đại ngự, tất vị thánh nhân. Tất khử hỉ, khứ nộ khử lạc, khử bi, khử ái, khử ố, nhi dụng nhân nghĩa: thủ, túc, khẩu tị, nhĩ tòng sự ư nghĩa, tất vị thánh nhân[13]).

Giọng sao mà giống giọng Hàn Phi sau này thế. Rõ ràng là con người nhiều lí trí mà sợ tình cảm. Hàn Phi chắc đã đọc Mặc tử nên mới khuyên các vua chúa nên khử hiếu, khử ố thì mới trị được bề tôi mà thành một minh quân. (Hàn Phi tử thiên Nhị bính). Có lẽ vì ông quá ham cứu đời, quá nóng nảy làm điều nghĩa nên không muốn bận tâm vì tình cảm và đôi khi có những hành động không cận nhân tình.

Như lần một môn đệ của ông vì chiến đấu mà chết. Cha người đó lại phiền trách ông. Ông đáp: “Ông muốn tôi dạy con ông. Nó học thành tài, chiến đấu mà chết, thì ông lại oán giận, như vậy không khác gì muốn có thóc, mua được rồi thì lại oán giận, chẳng cũng ngược lí ư?” (Lỗ vấn 11). Có lẽ ngược lí đấy, nhưng Mặc tử không hiểu được tình cha thương con mà cũng đòi hỏi ở người cha đó quá nhiều: có phải ai cũng nhận như ông hi sinh để bênh vực cho một nước yếu không phải là nước mình, là một việc nghĩa cao cả đâu. Giá Mặc tử giảng giải rồi an ủi người đó thì phải hơn.

Lần dưới đây Mặc tử còn đáng trách hơn nữa. Ông thấy một thanh niên cường tráng thông minh, dụ dỗ anh ta theo học mình và hứa sẽ cho làm quan. Anh ta nghe lời, học được một năm, xin ra làm quan. Ông đáp: “Không giới thiệu cho anh làm quan! Anh đã đọc sách Lỗ ngữ không? Một nhà nọ ở nước Lỗ có năm anh em. Cha chết, người con trưởng ham rượu và không lo việc chôn cất với các em, bốn người em bảo: “Anh lo việc chôn cất cha với chúng em, chúng em sẽ mua rượu cho uống”. Được khuyến khích như vậy người anh lo việc chôn cất. Chôn cất xong, hắn đòi bốn em mua rượu cho mình. Bốn người em đáp: “Tụi em không mua rượu cho anh! Anh chôn cất cha, chúng tôi cũng chôn cất cha, cha là cha chung chứ đâu phải của riêng chúng tôi. Anh không chôn cất cha thì người ta cười anh, cho nên chúng tôi mới khuyến khích anh chôn cất”. Nay anh làm việc nghĩa, ta cũng làm việc nghĩa, đâu phải việc nghĩa của riêng ta. Anh không học thì người ta cười anh, cho nên ta mới khuyến khích anh học”.

Lừa gạt đệ tử như vậy dù là việc nghĩa, là điều không nên. Người ta có thể ngờ rằng ông không từ một phương tiện nào, miễn đạt được cứu cánh.

Chú thích:

[1] 士之仕也,猶農夫之耕也

[2] 士之失位也,猶諸侯之失國家也

[3] Chịu cong một thước mà ngay được một tầm – 10 thước, tức tạm thồi thoả hiệp, làm sai đạo của mình đi để lập nên sự nghiệp.

[4] 邦無道,穀; 恥也

[5] Lời than thở đó được chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Trong cuốn Khổng tử, viết sau bộ Mặc học này, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo rằng cụ không tin lời nói đó là của Khổng tử vì: “Nó không hợp với tinh thần của Khổng tử…”. (Goldfish).

[6]吾言足用矣,舍言革思者,是猶舍穫而捃粟也。以其言非吾言者,是猶以卵投石也,盡天下之卵,其石猶是也,不可毀也。

[7]去之苟道,受狂何傷!

[8] Coi chú thích trong phần dịch – Thiên Canh Trụ - 13.

[9] Vi nghĩa phi tị huỷ tựu dự: nguyên văn chữ Hán trong Phần Chữ Hán chép là: 為義非避毀就譽. Chữ “dự” (bản nguồn chép lầm là “dư”), trên mạng có bản chép là 举 (cử). (Goldfish).

[10] Câu này ý nghĩa cũng tựa câu: Bang vô đạo, cốc, sỉ dã của Khổng tử chúng tôi đã dẫn ở trên. Mạnh tử cũng nghĩ rằng kẻ sĩ ra làm quan là vì đạo; nhưng có khi vì nghèo mà phải ra làm quan, thì nên từ chối chức vị cao mà nhận chức vị thấp, từ chối bổng lộc lớn mà nhận bổng lộc nhỏ: Sĩ phi vị bần giả, nhi hữu thời hô vị bần… Vị bần giả, từ tôn cư ti, từ phú cư bần – (Vạn Chương hạ -5) [Nguyên văn chữ Hán chép trong Phần Chữ Hán: 天下無道,仁士不處厚焉. (Goldfish)].

[11] Tức thiên Công Thâu (xem phần dịch). (Goldfish).

[12] Bốn chữ này có thể hiểu là: Mòn tấm thân từ đầu tới gót chân.

[13]必去六辟。嘿則思,言則誨,動則事,使三者代禦,必為聖人。必去喜,去怒,去樂,去悲,去愛,而用仁義。手足口鼻耳從事於義,必為聖