← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV BỘ MẶC TỬ

Các triết gia cuối đời Xuân Thu và đầu đời Chiến Quốc thích giảng đạo hơn viết sách vì viết sách hồi đó là công việc khó nhọc (phải dùng sơn làm mực, lưỡi dao làm bút, thẻ tre làm giấy), mà lại ít người biết chữ, phổ biến tư tưởng bằng cách đó không được rộng rãi, công hiệu. Thêm một lẽ nữa, họ cho công việc cứu đời là quan trọng, chỉ khi nào thấy đời không dùng mình, mới lui về quê hương, bất đắc dĩ trứ tác để lưu lại học thuyết của mình cho đời sau, như trường hợp Khổng tử và Mạnh tử.

Mặc tử, như trên chúng tôi đã nói, nhiệt tâm hơn Khổng, Mạnh, không bao giờ tỏ ý chán nản, nghĩ tới việc bỏ cuộc, về vườn nghĩ ngơi, mà có thể đã bôn ba khắp nơi truyền đạo cho tới khi chết, cho nên không nghĩ tới việc viết sách. Bộ Mặc tử không phải do ông viết mà do các đệ tử và người đời sau ghi chép.

Theo Nghệ văn chí trong bộ Hán thư thì bộ đó đời Hán gồm 71 thiên[1]. Qua đời Tống, bộ Trung hưng quán các thư mục ghi là còn 61 thiên. Vậy là từ Hán tới Tống đã mất 10 thiên. Bản hiện lưu hành chỉ còn có 53 thiên (chia làm 15 quyển), thế là mất thêm 8 thiên nữa, có lẽ là từ sau khi nhà Tống dời xuống phương Nam.

Năm mươi ba thiên đó, hai học giả Lương Khải Siêu và Hồ Thích chia làm năm “tổ” hoặc vì nội dung, hoặc vì thể tài (hình thức) có điểm giống nhau.

Tổ I gồm 7 thiên:

1- Thân sĩ 亲士

2- Tu thân 修身

3- Sở nhiễm 所染

4- Pháp nghi 法仪

5- Thất hoạn 七患

6- Từ quá 辞过

7- Tam biện 三辩

Về tác giả ba thiên đầu, ý kiến các học giả còn phân vân. Phương Thụ Sở cho rằng thiên 1 Thân sĩ có xen vài tư tưởng của Đạo gia, như “giếng ngọt thì mau cạn, cây tốt thì mau bị đốn”, “thịnh quá thì khó giữ” (mau suy), có thể là do một người trong Đạo gia nguỵ tạo; nhưng đại thể thì thiên đó diễn cái ý tôn hiền trọng sĩ trong thiên Thượng hiền, cho nên không thể bảo là tư tưởng của Đạo gia được, vì vậy Uông Trung trong Mặc tử tự ngờ là Nho gia nguỵ tạo, còn La Căn Trạch trong Chu tử khảo sách khẳng định là của Mặc gia thời sau viết.

Thiên 2 Tu thân, Uông Trung cũng cho là của Nho gia vì giọng như giọng nhà Nho mà vấn đề tu thân là vấn đề quan trọng của đạo Nho. La Căn Trạch bảo Mặc gia cũng trọng tu thân vậy. Chứng cứ là bài Lỗ vấn 12, Mặc tử nói với Ngô Lự: “Kẻ sĩ đi bộ dùng lời của tôi thì đức hạnh tất sẽ sửa chữa”; nhất là bài Quí nghĩa 11, Mặc tử bảo: “Người quân tử ở đời muốn thành nghĩa, mà có ai giúp họ sửa mình thì họ giận, có khác gì muốn xây bức tường, có người lại tiếp tay cho thì giận, há chẳng ngược đạo ư?”.

Vả lại trong thiên hai[2] có câu: “Người quân tử khi ra bày trận thế, nhưng gốc làm phải có dũng khí; trong việc chôn cất phải theo lễ, nhưng gốc là tấm lòng sầu bi; kẻ sĩ tuy phải học, nhưng cái gốc là đức hạnh”. Hai mục sau, bảo là chủ trương của Nho giáo hay của Mặc đều được, như mục đầu thì rõ là chủ trương của Mặc vì Mặc trọng cả văn lẫn võ, còn Nho trọng văn mà khinh võ.

Xét chung thì trong Tu thân tư tưởng của Mặc nhiều hơn của Nho, nên La Căn Trạch cũng cho là của Mặc gia thời sau viết.

Thiên 3 Sở nhiễm chép:

Thầy Mặc tử than thở vì thấy tơ sống nhuộm màu vàng thì ra vàng, nhuộm màu xanh thì ra xanh. Có học giả căn cứ vào đó, cho rằng thiên đó luận về tính người, và phải xuất hiện sau khi các triết gia Tiên Tần đã bàn nhiều về vấn đề đó. Do đó Lương Khải Siêu bảo thiên 3 cũng nguỵ tạo nữa. La Căn Trạch nhận rằng nó không phải của môn sinh Mặc tử viết, nhưng chắc chắn là của Mặc gia đời sau viết chứ không phải của Nho gia nguỵ tạo vì Nho gia ghét Mặc, ngay Mặc tử cũng ít khi Nho gia nhắc tới, đâu thèm nhắc tới Cầm tử, học trò của Mặc, như trong thiên đó.

Tóm lại ba thiên đầu chứa vài tư tưởng của Đạo gia và vài tư tưởng chung của Nho và Mặc, nên một số học giả cho là của Đạo gia và Nho gia nguỵ tạo; nhưng La Căn Trạch bảo đều là của Mặc gia đời sau viết. Chúng tôi nghĩ Đạo gia và Mặc gia chủ trương ngược hẳn (một bên vô vi, một bên cực hữu vi), còn Nho gia vì oán ghét Mặc gia, mắng là bọn “không cha”; như vậy Đạo gia và Nho gia nào mà nguỵ tạo những thiên chứa tư tưởng của Mặc gia đó tất không phải là Đạo gia và Nho gia chân chính, mà trái lại đã bị ảnh hưởng đậm của Mặc rồi; coi họ là Mặc gia đời sau (chịu ít nhiều ảnh hưởng của Nho, Lão) như La Căn Trạch có phần hợp lí hơn.

Về bốn thiên sau, ý kiến của các học giả tương đối nhất trí. Ai cũng nhận rằng cả bốn thiên đều diễn thêm những tư tưởng của Mặc tử. Thiên 4 Pháp nghi diễn những “dư nghĩa” (ý nghĩa thừa) của các thiên Thiên chí, hai thiên 5 Thất hoạn, 6 Từ quá; còn thiên 7 Tam biện thì diễn dư nghĩa của thiên Phi nhạc[3]. Đúng như Lương Khải Siêu nói, bốn thiên ấy tóm tắt những điểm chính của đạo Mặc. Vì vậy La Căn Trạch và Phương Thụ Sở đều cho là của Mặc gia đời sau viết (giữa hay cuối đời Chiến Quốc). Chỉ có Tiền Mục xét “văn khí” trong bốn thiên đó, ngờ là của người đời Tây Hán, nhưng La Căn Trạch chê Tiền Mục là nói vu vơ (sách đã dẫn – tr.172).

Tổ II gồm 24 thiên:

Tổ này lớn nhất (gồm 33 thiên, mất 9, còn 24), quan trọng nhất vì do môn đệ của Mặc tử chép lời giảng của ông, (có thể là chép trong khi Mặc còn sống), cho nên đáng tin nhất.

Tổ này còn có thêm hai đặc điểm này nữa:

- Các thiên trong tổ I không dùng những chữ “Tử Mặc tử” (Thầy Mặc tử) mà hầu hết các chương trong tổ II này (chỉ trừ thiên Phi công thượng và thiên Phi Nho hạ).

- Tổ II gồm đề: Thượng hiền, Thượng đồng, Kiêm ái v.v… mà đề nào cũng gồm ba thiên: thượng, trung, hạ.

Dưới đây là các thiên đánh số tiếp theo 7 thiên trong tổ I:

8-9-10- Thượng hiền /尚賢/[4] thượng, trung, hạ.

11-12-13- Thượng đồng /尚同/ thượng, trung, hạ.

14-15-16- Kiêm ái /兼愛/ thượng, trung, hạ.

17-18-19- Phi công /非攻/ thượng, trung, hạ.

20-21- Tiết dụng /節用/ thượng, trung, (mất hạ).

22- Tiết táng /節葬/ hạ (mất thượng, trung).

23-24-25- Thiên chí /天志/ thượng, trung, hạ.

26- Minh quỉ /明鬼/ hạ (mất thượng, trung).

27- Phi nhạc /非樂/ thượng (mất trung, hạ).

28-28-30- Phi mạng /非命/ thượng, trung, hạ.

31- Phi nho /非儒/ hạ (mất thượng trung).

Theo Hàn Phi thì sau khi Mặc tử mất, Mặc học chia làm ba phái: phái của họ Tương Lí, phái của họ Tương Phu và phái của họ Đặng Lăng (Hàn Phi tử - Thiên Hiển học). Một số học giả đời Thanh như Du Việt và Lương Khải Siêu căn cứ vào thuyết đó mà đoán rằng mỗi đề tài trong tổ này sở dĩ chia làm ba thiên, ý và lời đại đồng tiểu dị, là do ba phái chép riêng lời của Mặc tử, rồi người đời sau thu thập hết cho đủ.

Các thiên thượng, trung, hạ khác nhau nhiều về dài ngắn: xin coi bảng so sánh số chữ của mỗi thiên dưới đây do La Căn Trạch căn cứ vào bản đời Gia Tĩnh nhà Minh mà lập và cho in trong Chu tử khảo sách (tr.179).

.

Trong đó đại khái giống bảng của Vệ Tụ Hiền do Phương Thụ Sở dẫn trong Mặc học nguyên lưu - trang 45, chỉ khác: Chúng ta nhận thấy có vài ba thiên trung nhiều chữ hơn thiên hạ, ngược lại cũng có vài ba thiên hạ nhiều nhiều chữ hơn thiên trung; nhưng hết thảy các thiên thượng đều ngắn hơn thiên trung, hạ rất nhiều (số chữ có khi chỉ bằng một phần ba, một phần tư), trừ thiên Phi mạng thượng là số chữ cao hơn hai thiên kia: có thể cổ nhân đã lầm: trung mà gọi là thượng chăng?

Dài ngắn khác nhau thì tất nhiên ngôn luận trong các thiên cũng khác nhau. Chẳng hạn so sánh ba thiên Kiêm ái (coi phần dịch), chúng ta sẽ thấy thiên thượng chỉ diễn cái ý: loạn do không yêu nhau, người nào cũng chỉ nghĩ tới cái lợi riêng của mình mà ra; vậy muốn cho hết loạn thì phải kiêm ái, tức gồm yêu mọi người như yêu bản thân mình.

Thiên trung cũng diễn ý đó, nhưng còn bác thêm lời những người không tin rằng có thể thi hành được thuyết kiêm ái vì nó khó quá, không thể làm được.

Thiên hạ cũng diễn ý loạn do không yêu nhau mà ra; nhưng còn giảng thêm cái lợi của kiêm ái: tai mắt của mọi người sẽ thành tai mắt của mình, người già và trẻ em được nuôi nấng, săn sóc…; sau cùng bác lời của những người cho rằng thuyết kiêm ái không dùng được vì nó khó quá (như thiên trung), vì chọn kẻ sĩ kiêm ái thì được chứ làm sao chọn được vua kiêm ái, lại thêm nếu kiêm ái, coi cha mẹ người như cha mẹ mình, tức coi cha mẹ mình như người ngoài, như vậy là bất hiếu.

Danh từ cũng có khi khác. Như ba tiêu chuẩn để nói năng, bàn luận, Phi mạng trung gọi là “tam biến”, Phi mạng hạ gọi là “tam pháp”; tiêu chuẩn thứ nhất, Phi mạng trung gọi là bản, Phi mạng hạ gọi là khảo.

Xét kĩ thì những điểm khác nhau đó chỉ là đại đồng tiểu dị không sao tránh được khi ba người cùng thuật lại những tư tưởng mà Mặc tử có thể phô diễn trong những hoàn cảnh khác nhau, vào những thời khác nhau.

Chúng ta có thể tin rằng những thiên trong tổ II này, trừ thiên Phi nho, ghi đúng những điểm cốt yếu trong học thuyết Mặc tử, và những thiện thượng do một người viết, những thiên trung, hạ cũng vậy, mà viết sau khi Mặc tử mất không lâu, còn ý kiến của Du Việt và Lương Khải Siêu chúng tôi dẫn ở trên (các thiên do ba phái Tương Lí, Tương Phu, Đặng Lăng chép) thì chỉ đáng gọi là giả thuyết thôi.

Chúng tôi nói “trừ thiên Phi nho”, vì thiên này là thiên duy nhất trong tổ II mà ý kiến của các học giả chưa được nhất trí. Tất Nguyên, Lương Khải Siêu và Hồ Thích thấy đề tài Phi nho chỉ còn có một thiên hạ mà thiên này không gọi Mặc tử là thầy (Tử Mặc tử) nên ngờ là nguỵ thư. Tôn Di Nhượng cũng nghĩ vậy và còn đưa ra một lí do nữa: Mặc tử “Phi nho” chứ không “phi Khổng” (chê Khổng tử) mà trong thiên có nhiều lời chê Khổng tử, vậy không đáng tin.

Uông Trung và La Căn Trạch nghĩ khác, bảo bài 15 thiên Công Mạnh chép lời Mặc tử cho đạo Nho có bốn chủ trương đủ làm mất thiên hạ: cho Trời là không sáng suốt, quỉ thần không thiêng; chôn cất hậu hĩ, để tang lâu; thích ca nhạc; tin có số mạng. Lời chê tuy đúng nhưng cũng thật là nặng. Mà đã chê Nho, thì tất nhiên là chê Khổng; phân biệt chê Nho và chê Khổng là điều gượng ép, vô lí. Vậy thiên 32 cũng là do một môn đệ ghi chép lời của thầy nữa.

Ai cũng nhận rằng các thiên thượng, trung, hạ đều do môn đệ Mặc tử viết, nhưng thiên nào viết trước, thiên nào viết sau, thì chúng ta không biết được. Phương Thụ Sở bảo các thiên thượng viết sau vì gọn hơn. Lí lẽ đó chưa đủ vững.

Tổ III gồm 6 thiên:

32-33- Kinh /經/ thượng, hạ

34-35- Kinh thuyết /經說/ thượng, hạ

36- Đại thủ /大取/

37- Tiểu thủ /小取/

Sáu thiên đó không liên quan gì tới triết học chính trị của Mặc tử, mà do phái Biệt Mặc đời sau viết, cho nên chúng tôi để lại xét riêng trong một phần sau.

Tổ IV gồm 5 thiên:

38- Canh Trụ /耕柱/

39- Quí Nghĩa /貴義/

40- Công Mạnh /公孟/

41- Lỗ vấn /魯問/

42- Công Thâu /公輸/

Năm thiên này do Mặc gia đời sau chép những cố sự mà họ nghe được về ngôn luận và hành vi của Mặc tử. Một số có thể là học trò của học trò Mặc tử, vì có bài tác giả gọi học trò của Mặc tử là “tử” (thầy), như Canh Trụ tử, Cao Thạch tử (Thiên Canh Trụ 1, 13); có bài tác giả còn gọi Cầm Hoạt Li, một môn đệ của Mặc tử là Tử Cầm tử nữa (Canh Trụ 13). Thể tài giống Luận ngữ, đọc cũng thú và bổ ích gần như Luận ngữ. Nhiều bài cho ta biết thêm về đời sống, tư cách và tư tưởng của Mặc tử. Đặc biệt là thiên Công Thâu (chỉ có ít bài), nghệ thuật chép truyện rất cao, đáng coi là áng văn bất hủ thời Chiến Quốc. Chúng tôi đã phân tích bài đó trong Chương III.

Sau cùng, tổ V gồm 11 thiên:

43- Bị thành môn /備城門/

44- Bị cao lâm /備高臨/

45- Bị thê /備梯/

46- Bị mộc[5]

47- Bị đột /備突/

48- Bị huyệt /備穴/

49- Bị nghi phục[6]

50- Nghinh địch từ /迎敵祠/

51- Kì Xí /旗幟/

52- Hiệu lệnh /號令/

53- Tạp thủ /襍守/

Mười một thiên này đều chép phép phòng bị quân địch. Chúng ta đã biết Mặc tử giỏi về thuật phòng ngự, đã chế tạo một số vũ khí, và đã chỉ cho nhóm Cầm Hoạt Li cách giữ thành Tống. Một số Mạc gia đời sau có thể đã chép lại những thuật đó thành 11 thiên trong tổ V. Nhưng có học giả[7] cho rằng 11 thiên đó là do người đời Hán nguỵ tạo. La Căn Trạch ở cuối bài Mặc tử thám nguyên (sách đã dẫn) bảo sẽ khảo riêng về niên đại trứ tác các thiên đó, nhưng chúng tôi không kiếm ra được; nên không biết ý kiến của ông ra sao.

Tóm lại, muốn tìm hiểu triết lí chính trị Mặc tử, chúng ta cần phải đọc trước hết những thiên trong tổ II do học trò của ông viết sau khi ông mất không lâu (trừ thiên Phi nho hạ); rồi tới thêm những thiên trong tổ I, nhưng phải khéo nhận định tư tưởng nào thật của Mặc, tư tưởng nào chịu ảnh hưởng của Nho, Lão.

Còn tổ III của phái Biệt Mặc, không liên quan gì tới học thuyết của Mặc, phải xét riêng, tổ V là một loại binh thư, càng phải để riêng nữa.

Đó là ý kiến chung của những nhà viết về Mặc tử. Đường Kính Cảo cũng nghĩ như vậy, cho nên trong cuốn Mặc tử chỉ trích bốn thiên quan trọng trong tổ II và cả năm thiên trong tổ IV.

Chú thích:

[1] 71 thiên đó có lẽ do Lưu Hướng đời Hán (-79 -8 tr.TL) thu thập, sắp đặt, hiệu đính qua loa và đặt tên, nhưng không ghi tác giả vì không biết chắc là của ai. Cách đặt tên thiên thì cứ lấy hai chữ ở đầu thiên, cũng như các sách Luận ngữ, Mạnh tử… Những thiên mà nhan đề có ý nghĩa như Kiêm ái, Phi công thì có thể đã có sẵn, do người viết đặt ra.

[2] Thiên hai (bản nguồn chép là “thiên hạ”), tức thiên Tu thân (câu “Người quân tử… cái gốc là đức hạnh” là đoạn đầu của thiên này). (Goldfish).

[3] Các thiên Thiện chí, Phi nhạc, coi ở đoạn sau.

[4] Các chữ trong dấu / / là do chúng tôi ghi thêm, ở sau cũng vậy. (Goldfish).

[5] Bị mộc: Theo trang http://baike.baidu.com/view/2232.htm thì nhan đề thiên này là 備水, tức “Bị thuỷ”. (Goldfish).

[6] Bị nghi phục: cũng theo trang trên thì nhan đề thiên này là 備蛾傅, tức “Bị nghĩ phụ”. (Goldfish).

[7] Như Chu Hi Tổ, một học giả hiện đại. Theo Phương Thụ Sở, Chu đưa ra bốn chứng cứ: trong những thiên đó có chép nhiều quan chức của đời Hán; có chép chế độ hình pháp của đời Hán; tác phẩm cuối thời Chiến Quốc (như bộ Quản tử) hoặc thời Tần, và đầu đời Hán; nói đến đồ bằng sắt quá nhiều; không hợp với thời Mặc tử. Phương cho rằng hai chứng cứ sau cùng không vững: Quản tử phỏng tổ V của Mặc tử chứ không phải Mặc tử phỏng Quản tử; đồ sắt cuối thời Mặc tử đã thịnh rồi; và Phương kết luận rằng chỉ 4 thiên cuối 50-53 là của đời Hán nguỵ tạo, còn 7 thiên trên (43-49) đúng là của Mặc gia đời sau (sách đã dẫn – tr.52-55).