CHƯƠNG V NGÔN NGỮ CỦA MẶC TỬ
Chúng tôi không xét văn bản của Mặc tử vì Mặc tử không hề viết sách hoặc viết mà không hề lưu lại; cũng không xét văn bộ trong bộ Mặc tử vì bộ đó do nhiều người viết mà họ có thể sống cách nhau vài thế kỉ, cho nên có tổ văn nhuần nhã như tổ IV (đặc biệt là thiên Công Thâu), hoặc tổ I (bốn thiên 4-7); có tổ văn rất cô động, tới mức khó hiểu như tổ III (Kinh thượng, hạ, Đại thủ, Tiểu thủ); bút pháp khác xa tổ II.
Vì vậy chúng tôi chỉ có thể phân tích ngôn ngữ của Mặc tử thôi. Ngôn ngữ đó đã được môn đệ Mặc tử ghi lại một cách trung thực trong tổ II (trừ thiên Phi Nho hạ). Chúng ta thử so sánh với đoạn đầu hai thiên Kiêm ái thượng và trung, sẽ thấy mức trung thực ra sao.
Thượng:
a/ Bậc thánh nhân trị thiên hạ, tất phải biết loạn do đâu mà phát ra thì mới trị được (…)
Thử xét loạn do đâu mà phát. Phát ở chỗ không yêu nhau (…)
b/ Con chỉ yêu mình mà không yêu cha cho nên mới làm thiệt hại cho cha để lợi cho mình; em chỉ yêu mình mà không yêu anh, cho nên mới làm thiệt hại cho anh để lợi cho mình; bề tôi chỉ yêu mình mà không yêu vua nên mới làm thiệt hại cho vua để lợi cho mình, như vậy gọi là loạn; (…) kẻ cướp chỉ yêu thân mình mà không yêu thân người, cho nên mới làm thiệt hại thân người để lợi cho thân mình; (…) các quan đại phu chỉ yêu mình mà không yêu nhà khác, cho nên mới làm loạn nhà khác để lợi cho mình; các chư hầu chỉ yêu nước mình mà không yêu nước khác, cho nên mới đánh chiếm nước khác để lợi cho nước mình.
c/ Các việc loạn trong thiên hạ (…) xét nguyên do từ đầu đều do không yêu nhau mà ra cả.
Trung:
a/ Người nhân sở dĩ làm việc là để gây cái lợi cho thiên hạ, trừ cái hại cho thiên hạ (…)
Cái hại do đâu mà ra?... Do không yêu nhau mà ra (…)
b/ (…) Chư hầu không yêu nhau thì tất đem quân đánh nhau ở ngoài đồng; chủ nhà (ở đây trỏ các quan đại phu) không yêu nhau thì tất cướp lẫn nhau; người nọ không yêu người kia tất làm hại lẫn nhau, vua tôi không yêu nhau thì vua không huệ (gia ân cho dân), tôi không trung; cha con không yêu nhau thì cha không từ, con không hiếu; anh em không yêu nhau thì không hoà thuận; người trong thiên hạ không yêu nhau thì người mạnh tất áp chế người yếu, người giàu tất khinh khi kẻ nghèo, người sang tất ngạo mạn người hèn, người khôn lanh tất lừa gạt kẻ ngu.
c/ Những tai hoạ, tranh cướp, oán hận trong thiên hạ sở dĩ nổi lên đều do không yêu nhau mà ra, cho nên bậc nhân giả chê cái đó.
Chúng ta thấy đoạn mở a/ và đoạn kết c/ gần y hệt nhau, còn đoạn giữa b/, những thí dụ đưa ra cũng giống nhau, chỉ khác thứ tự ngược nhau mà thôi:
Thiên thượng nói tới cha con trước rồi tới anh em, vua tôi, các người trong thiên hạ, các quan đại phu, sau cùng tới các vua chư hầu.
Thiên trung nói tới các vua chư hầu rồi tới các quan đại phu, vua tôi, cha con, anh em, người trong thiên hạ.
Chúng ta nên để ý: Mặc tử giảng về thuyết kiêm ái không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần trong suốt đời ông, và tác giả hai thiên đó có thể tuổi tác khác nhau, nghe giảng vào hai lần cách nhau có thể tới hàng chục năm; nghe xong không chắc họ đã ghi lại ngay mà đợi khi thầy mất rồi mới ghi (nghĩa là có thể hàng chục năm sau); mà lời ghi chép của họ giống nhau như vậy thì phải nói là trung thực rất mực rồi. Thời đó ít dùng chữ viết nên kí tính người ta tốt.
Một giáo sư ngày nay, năm năm trước giảng về Mặc tử cho một lớp sinh viên, năm năm sau cũng giảng bài đó cho một lớp khác, nếu không cầm “cua” cũ mà đọc thì lời giảng hai lần đó chưa chắc đã giống nhau như vậy. Cho nên chúng ta có thể căn cứ vào các thiên trong tổ II để biết ngôn ngữ, lối diễn thuyết của Mặc tử, mà không sợ lầm.
Đầu thiên Ngoại trừ thuyết tả thượng, Hàn Phi chép một cố sự lí thú về việc một vua Sở (có lẽ là Sở Uy vương) chê lời lẽ của Mặc tử rườm, mà không văn nhã, tô chuốc.
“Vua Sở hỏi Điền Cưu (một Mặc gia sống sau Mặc tử khoảng 100 năm):
- Mặc tử là một học giả nổi danh, suốt đời tận lực làm việc, đáng khen lắm, nhưng lời nói rườm mà không nhã, tại sao vậy?
Điền Cưu đáp:
- Xưa Tần bá (Tần Mục công) gả con gái cho công tử nước Tấn (Trùng Nhĩ), trang sức cho cô dâu, đưa theo bảy chục thiếu nữ bận áo gấm làm nàng hầu. Tới Tấn, người Tấn yêu những người thiếp đó mà coi thường con gái Tần bá. Như vậy có thể bảo là khéo gả các nàng thiếp[1] mà không khéo gả con gái. Nước Sở có người bán hạt châu qua nước Trịnh, làm cái hộp bằng gỗ mộc lan, xông bằng quế, tiêu cho thơm, điểm xuyết bằng châu ngọc, trang sức bằng ngọc mai khôi (một loại ngọc màu đỏ), lót bằng lông chim trả. Người nước Trịnh mua cái hộp mà trả lại châu. Như vậy có thể bảo là khéo bán cái hộp mà không khéo bán hạt châu.
Ngày nay người ta thảo luận đều thích dùng lời khéo léo, văn hoa, bậc vua chúa thấy cái văn hoa mà quên rằng những lời đó vô dụng. Thuyết của Mặc tử truyền lại đạo của tiên vương, luận lời của thánh nhân để tuyên cáo cho mọi người. Nếu dùng những lời văn nhã thì sợ người ta chỉ nhớ tới cái văn hoa mà quên cái hữu dụng của học thuyết, như vậy tức là lấy văn hoa làm hại cái hữu dụng, không khác việc người nước Sở bán hạt châu, Tần bá gả con gái. Vì vậy mà lời của Mặc Tử rườm mà không văn nhã”.
Lời nhận định của ông vua Sở đó đúng.
Chúng tôi xin dẫn đoạn đầu trong thiên Phi công thượng mà các nhà viết văn học sử Trung Quốc thường coi là tiêu biểu cho “văn” nghị luận của Mặc tử:
“Nay có một kẻ vào vườn người ta hái trộm đào, mận, ai nghe thấy cũng chê, nhà cầm quyền biết được thì trừng phạt. Tại sao vậy? Tại kẻ ấy lấy của người làm lợi cho mình. Đến khi cướp gà, chó, heo của người ta thì việc bất nghĩa còn nặng hơn vào vườn hái trộm đào, mận. Tại sao vậy? Tại làm thiệt hại cho người ta nhiều hơn, tội nặng hơn. Đến khi vào chuồng bò chuồng ngựa bắt bò bắt ngựa của người ta thì việc bất nhân, bất nghĩa nhiều hơn, tội nặng hơn là cướp gà, chó, heo của người ta. Tại sao vậy? Tại làm hại cho người ta nhiều hơn. Làm hại cho người ta nhiều hơn thì sự bất nhân nhiều hơn, tội nặng hơn. Đến khi giết người vô tôi để lột áo vải áo da, lấy ngọn mác thanh kiếm của người ta thì việc bất nghĩa còn nặng hơn vào chuồng bò chuồng ngựa của người ta. Tại sao vậy? Tại làm hại người ta nhiều hơn. Làm hại nhiều hơn thì sự bất nghĩa nhiều hơn, tội nặng hơn. Những việc đó, các bậc quân tử trong thiên hạ đều biết là quấy mà chê, bảo là bất nghĩa; nay các việc đại bất nghĩa là đánh chiếm nước người lại không biết chê là quấy, còn khen nữa, bảo là nghĩa. Như vậy có thể bảo là phân biệt được nghĩa với bất nghĩa không?...”[2]
Bảo là rườm quá thì quả thật đoạn đó quá rườm, mà đoạn sau, cho tới hết thiên thì cũng vậy. Có thể rút đi tám phần mười mà vẫn diễn được ý, chẳng hạn: “Các bậc quân tử trong thiên hạ chê việc ăn trộm đào mận, cướp gà chó là bất nghĩa mà trừng trị; vậy mà cái việc đại bất nghĩa là đánh chiếm nước người thì đã không chê, lại còn khen là nghĩa, như vậy là không phân biệt được nghĩa với bất nghĩa”. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong văn học Trung Quốc thời Tiên Tần, chúng ta gặp một lối văn nghị luận như vậy. Nhưng chúng ta nên tìm hiểu vì đâu có lối “văn” đó và công dụng của nó ra sao.
Chúng ta đã biết Mặc tử không viết văn, ông chỉ diễn giảng cho môn sinh hoặc diễn thuyết cho công chúng. Vậy đoạn trên phải là ngữ ngôn (langage parlé) chứ không phải là văn ngôn (langage écrit); vì môn sinh ghi lại đúng, đời sau gom thành sách, nên gọi là “văn”.
Nói là để thuyết phục; muốn thuyết phục được người nghe thì lời nói phải sáng sửa, (họ không có thì giờ suy nghĩ); phải dùng những thí dụ cụ thể mọi người đều thấy, tránh những cái trừu tượng; lại phải lập đi lập lại cho người ta nhớ; và đặt những câu hỏi để gợi ý cho thính giả, khiến thính giả tích cực dự vào cuộc đàm luận, nhờ vậy mà không chán.
Mặc tử đã dùng tất cả những thuật đó trong đoạn kể trên. Chủ ý của ông là mạt sát thói đánh chiếm nước khác của các vua chúa, cho nó là đại bất nghĩa. Ông không lí thuyết trừu tượng gì cả, đột ngột đưa ngay ra một thí dụ cụ thể ai cũng biết, là việc hái trộm đào mận. Rồi tới thí dụ thứ nhì là cướp gà, chó, heo; thí dụ thứ ba: bắt bò, ngựa; thí dụ thứ tư: giết một người vô tội để cướp áo và khí giới. Bốn thí dụ đó trình bày theo một tuần tự tiệm tăng, từ nhẹ tới nặng.
Cứ sau mỗi thí dụ ông lại hỏi thính giả: Tại sao việc đó đáng chê? Rồi ông tự đáp: Tại làm hại cho người để làm lợi cho mình. Ông lập lại bốn lần câu hỏi, đập vào óc thính giả, khiến độc giả nhớ rằng hễ bất nghĩa nhiều hơn thì tội nặng hơn.
Cuối cùng ông mới đưa ra việc đánh nước người, việc bất nghĩa nặng nhất mà các vua chúa đã không chê, lại còn khen. Lời thật sáng sủa, nghe tới đâu hiểu tới đấy, mà cũng nhớ tới đấy[3].
Vậy điều mà vua Sở chê là rườm, chính là chỗ dụng ý, chính là sở trường của Mặc tử, nhờ nó ông thuyết phục được thiên hạ, có nhiều môn sinh, khiến Mạnh tử phải nhận rằng học thuyết của ông lan tràn thiên hạ.
Đọc những thiên trong tổ II (trừ thiên Phi Nho hạ) chúng ta thấy Mặc tử luôn luôn dùng thuật thuyết đó, và có lúc chúng ta cũng thấy chán, nhưng hạng bình dân thời ông nghe vài ba lần giảng về Phi công, Kiêm ái, Tiết dụng… thì nhất định là phải mê ông… Ông là chính trị gia duy nhất biết nói trước công chúng. Mà thuật lập lại và đặt câu hỏi của ông cũng là của các giáo chủ như Thích Ca, Ki Tô…
Vua Sở còn chê lời ông không văn nhã. Cũng đúng nữa. Và đây cũng là một nét độc đáo, một sở trường của ông. Ông sinh trong giới bình dân, có ngôn ngữ bình dân; muốn thuyết phục bình dân, ông càng phải dùng những tiếng thông tục vì vậy mà kém văn nhã.
Trong tổ II, nhất là các thiên Thượng hiền, Phi công, Tiết táng, Phi nhạc, chúng ta thường gặp những chữ 唯毋 (duy vô), 虽毋 (tuy vô)[4] không có nghĩa gì cả.
Thí dụ[5]:
/古者聖人“唯毋”得贤人而使之 (Cổ giả thánh nhân[6] “duy vô” đắc hiền nhân nhi sử chi) / (Thượng hiền trung).
/賢人“唯毋”得明君而事之 (Hiền nhân “duy vô” đắc minh quân nhi sự chi)/ (n.t)
/今師徒“唯毋”興起,冬行恐寒,夏行恐暑 (Kim sư đồ “duy vô” hưng khởi, đông hành khủng hàn, hạ hành khủng thử)/ (Phi công trung)
/今“唯毋”以厚葬久喪者為政 (Kim “duy vô” dĩ hậu táng cửu tang giả vi chính)/ (Tiết táng hạ)
/今王公大人,“雖無”造為樂器,以為事乎國家 (Kim vương công đại nhân, “tuy vô” tạo vi nhạc khí, dĩ vi sự hồ quốc gia)/ (Phi nhạc thượng)
Những chữ đó, các nhà hiệu đính thời xưa không hiểu nghĩa, đoán là chép sai, sửa lại là (quán) hoặc (vụ), nhưng không ổn, mãi sau mới có người[7] đoán được rằng chỉ là những tiếng thông tục thời Mặc tử, không có nghĩa gì cả, bộ Mặc tử dùng chúng lần đầu tiên để cho lời nói có giọng bình dân; rồi bộ Quản tử cũng dùng theo. (Coi Phương Thụ Sở - sách đã dẫn – tr.48).
Cho những chữ đó chỉ thêm ngữ khí chứ không có nghĩa thì những câu chữ Hán chúng tôi dẫn ở trên hoá ra sáng sủa:
Các thánh vương đời xưa được người hiền để sai bảo.
Các hiền nhân được minh quân để thờ.
Nay dấy binh vào mùa đông thì sộ lạnh, vào mùa hè thì sợ nóng.
Nay theo chính sách ma chay hậu hĩ, để tang lâu…
Nay các vương công đại nhân chế tạo nhạc khí để dùng trong nước…
Ngoài ra, những chữ 可而 /khả nhi/[8] cũng thường thấy và có lẽ cũng chỉ là những tiếng thông tục không có nghĩa gì cả. Như:
/使天下之為善者可而勸也,為暴者可而沮也。然則此尚賢者也,與堯舜禹湯文武之道同矣 Sử thiên hạ chi vi thiện giả khả nhi khuyến dã, vi bạo giả khả nhi tự dã. Nhiên tắc thử thượng hiền giả dã, dữ Nghiêu Thuấn Vũ Thang Văn Vũ chi đạo đồng hĩ/[9] (Thượng hiền hạ)
- Đạo của vua Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ khuyến khích những người làm điều thiện trong thiên hạ, ngăn cản những người làm điều tàn bạo trong thiên hạ.
…[焉而]得罪,將惡避逃之[10] /Yên nhi đắc tội, tương ố tị đào chi/
…mắc tội thì trốn đi đâu được.
Lại thêm, khi dẫn sách cổ, Mặc tử cũng thêm một vài chữ cho dễ hiểu hoặc hợp với ngôn ngữ đương thời. Phương Thụ Sở đưa ra thí dụ:
Thiên Phi công trung, dẫn câu này trong Kinh Thi:
魚水不務,陸將何及乎! /Ngư thủy bất vụ, lục tương hà cập hồ!/
Thiên Kiêm ái hạ dẫn một câu trong Tiểu nhã (Kinh Thi):
君子之所履,小人之所視 /Quân tử chi sở lí, tiểu nhân chi sở thị/
Một câu trong Đại nhã (Kinh Thi):
无言而不雠,无德而不报 /Vô ngôn nhi bất thù, vô đức nhi bất báo/
Những chữ 乎 /hồ/, 之 /chi/, 而 /nhi/ trong ba câu đó đều do Mặc tử thêm, như vậy là đổi thơ ra thành văn xuôi.
Chữ 也 /dã/[11] trong những câu dưới đây cũng vậy:
小人見姦巧,乃聞不言也 /Tiểu nhân kiến gian xảo, nãi văn bất ngôn dã/
(Thiên Thái thệ, dẫn trong thiên Thượng đồng hạ)
予非爾田野葆士之欲也, 予共行天之罰也 /Dư phi nhĩ điền dã bảo sĩ chi dục dã, dư cộng hành thiên chi phạt dã/
(Thiên Vũ thệ, dẫn trong thiên Minh quỉ hạ).
Vậy Mặc tử dùng những lời thông tục, nhiều ví dụ cụ thể và lặp đi lập lại nhiều câu, không ngại rườm, mục đích là để “truyền cái đạo của tiên vương… mà tuyên cáo cho mọi người” như Điền Cưu nói. Ông không dùng những lời văn nhã, có thể là vì sợ người ta chỉ “nhớ cái văn hoa mà quên cái hữu dụng”, nhưng trước hết là để giới bình dân hiểu ông, có vậy học thuyết của ông mới truyền bá rộng được.
Chú thích:
[1] Theo tục quí tộc thời đó, các thiếu nữ đó đi phù dâu, rồi ở luôn với cô dâu để hầu cô dâu mà cũng “hầu” cả chú rễ nữa, cho nên gọi là “thiếp”.
[2] Đoạn này bản nguồn chép sai sót mấy chỗ, tôi đã sửa lại theo đoạn tương ứng dẫn trong chương IV - phần II ở dưới. (Goldfish).
[3] Cụ Nguyễn Hiến Lê không giải thích tại sao tác giả thiên Phi công thượng lại bảo tội này thì “bất nghĩa”, tội nọ là “bất nhân, bất nghĩa”, hoặc “bất nhân”? (Goldfish).
[4] Hai chữ 虽毋, trong thí dụ ở dưới (theo Phần Chữ Hán ở cuối sách) chép là 雖無. Hai chữ đang xét trong câu “雖無”造為樂器, trên mạng có bản chép là 虽無, có bản chép là 雖無. (Goldfish),
[5] Trong thí dụ này, bản nguồn chỉ ghi tên thiên, tôi dựa vào đoạn sau đây trong Phần Chữ Hán:
73.古者聖人“唯毋”得贤人而使之賢人“唯毋”得明君而事之
今師徒“唯毋”興起,冬行恐寒,夏行恐暑
今“唯毋”以厚葬久喪者為政。今王公大人,“雖無”造為樂器,以為事乎國
để chép thêm nguyên văn chữ Hán và phiên âm (đặt trong dấu / /). (Goldfish).
[6] Thánh nhân 聖人: các bản chữ Hán trên mạng chép là “thánh vương” 聖王; lời dịch ở dưới cũng là “thánh vương”. (Goldfish).
[7] Vương Niệm Tôn trong Đọc thư tạp chí.
[8] Có lẽ sau hai chữ 可而 (khả nhi) này còn có hai chữ 焉而 (yên nhi), vì thí dụ trước có hai chữ 可而 và thí dụ sau có hai chữ 焉而. (Goldfish).
[9] Nguyên văn chữ Hán tôi chép theo trang http://baike.baidu.com/view/433761.htm (bản nguồn bỏ trống) và tạm phiên âm. (Goldfish).
[10] Câu này trong thiên Thiên chí thương. (Goldfish)
[11] Bản nguồn chép là 而 nhưng trong hai câu dẫn ở dưới đều không có chữ 而 nào cả, nên tôi tạm sửa lại thành 也 (dã) vì chỉ có chữ 也 là được dùng cả hai câu đó. (Goldfish).