CHƯƠNG VI BÁC THUYẾT ĐỊNH MẠNG
Trễ lắm là vào thời Khổng tử, người Trung Hoa đã có nhiều chữ mạng, cũng gọi là thiên mạng, theo ba nghĩa:
1. Nghĩa thứ nhất: Cái vẻ vô hình, linh diệu của trời đất mà người sáng suốt có thể tìm hiểu được, theo nghĩa đó thì mạng là thiên lí, luật tự nhiên của Hoá công.
Như trong Luận ngữ (Vi chính - 4), Khổng tử bảo:
“Ta hồi 15 tuổi, chăm chú vào việc học, ba chục tuổi biết vững chí, bốn chục tuổi không còn nghi hoặc, năm mươi tuổi biết mạng trời… - Ngô thập hữu ngũ chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng…”.
Cái thiên mạng đó khiến cho mọi người biến hoá, hợp với lẽ điều hoà, mà mọi sinh vật mới sinh trưởng được, vậy không nên làm trái nó, mà phải sợ nó, hành động hợp với nó. Đó là ý nghĩa trong câu: “Quân tử uý… thiên mạng” – (Quí thị).
2. Nghĩa thứ nhì: Mạng trỏ những nguyên do nào đó, ta cũng không rõ, ảnh hưởng một cách bất ngờ tới hoạt động của ta, khiến cho kẻ tận lực mà không thành công, lại có kẻ không làm mà thành việc. “Đạo ta mà sắp thi hành được ư? Là do mạng trời; đạo ta mà sắp bị bỏ ư? Là do mạng trời”- (Đạo chi tương hành dã dư? Mạng dã. Đạo chi tương phế ư? Mạng dã[1]).
Chữ mạng ở đây hiểu theo nghĩa thứ nhì. Khổng tử không biết chắc nó ra sao, như vậy ông cứ theo đạo mà làm, dù biết khó có kết quả, bị nhiều người chê đấy, ông cũng cứ làm.
3. Nghĩa thứ ba: là định mạng, số mạng như trong câu của Tử Hạ: “Tử sinh hữu mạng, phú quí tại thiên” (Nhan Uyên 5). Mạng ở đây trỏ sự tiền định, sức người không thể đổi được, như có người sinh ra vốn thông minh, có kẻ vốn ngu độn; người thì thọ, kẻ thì yểu, cho nên cùng gặp một tai nạn mà kẻ sống người chết.
Nghĩa thứ hai và ba đều cho rằng trong đời có những điều không thể hiểu được, có khi vô lí; chỉ khác nghĩa thứ hai trỏ một thái độ tích cực, cứ làm hết sức mình rồi kết quả ra sao cũng được; còn nghĩa thứ ba tỏ một thái độ tiêu cực hoàn toàn để cho hoàn cảnh chi phối, cho trời định, chẳng cần làm gì cả.
Thời nào cũng vậy, hạng người theo thuyết thứ ba đông nhất. Nên Mặc tử phải đả đảo thuyết đó trong thiên Phi mệnh, nó trái với quan niệm “thiên ý” của ông, và khi ông đã nhận rằng hễ làm việc thiện thì được trời thưởng, làm điều ác thì bị trời phạt, thì tất nhiên ông cũng nhận thêm rằng: hoạ phúc là do mình, do hành động của mỗi người. Ông phủ nhận định mạng mà chỉ tin luật nhân quả.
Để chứng minh rằng không có định mạng, Mặc tử dùng ba biểu chúng tôi đã trình bày trong chương trên.
- Biểu thứ nhất: bản (khảo)
Thiên Phi mạng hạ, ông bảo:
“Ba đời thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ thời xưa, khi mới cai trị thiên hạ bảo phải chăm lo đề cử những người con có hiếu để khuyến khích việc thờ cha mẹ, phải tôn trọng người hiền lương để dạy dân làm điều thiện. Thế rồi các vị ấy thi hành chính [trị] giáo [dục], thưởng người thiện, phạt kẻ bạo ngược. Nhờ vậy mà thiên hạ loạn có thể làm cho trị được, xã tắc nguy có thể làm cho yên được.
“Nếu cho làm không phải như vậy [thì sao] xưa vua Kiệt làm cho nước loạn, vua Thang trị được, Trụ làm cho nước loạn, vua Võ vương trị được? Vào những thời đó, cũng vẫn là xã hội ấy, dân ấy, không có gì khác mà trên [vua] thay đổi chính trị thì dưới [dân] thay đổi thói quen. Ở vào thời Kiệt, Trụ thì thiên hạ loạn; ở vào thời Thang, Võ thì thiên hạ trị. Vậy thiên hạ trị là nhờ công của Thang, Võ; thiên hạ loạn là do tội của Kiệt, Trụ. Xét điều đó thì an hay nguy, trị hay loạn là do chính trị của người trên, sao bảo là số mạng được?
Ba đời Vũ, Thang, Văn, Võ thời xưa, khi mới cai trị thiên hạ, bảo phải làm sao cho người đói được ăn, người rét được mặc, người mệt được nghỉ ngơi, nước loạn hoá trị; nhờ vậy mà các vị đó được vẻ vang, tiếng tốt truyền khắp thiên hạ. Đâu có thể là do số mạng được? Đó là công lao của các vị ấy. Nay các người hiền lương biết trọng người hiền và thích đọc đạo, thì tất trên được vương công, đại nhân thưởng, dưới được dân khen, được vẻ vang, tiếng tốt truyền khắp thiên hạ, như vậy đâu có thể cho là do số mạng được, cũng lại là do công lao của họ nữa”.
(Tích Kiệt chi sở loạn, Thang trị chi; Trụ chi sở loạn, Võ vương trị chi. Đương thử chi thời, thế bất du nhi dân bất dịch, thượng biến chính nhi dân cải tục. Tồn hồ Kiệt, Trụ nhi thiên hạ loạn, tồn hồ Thang, Vũ nhi thiên hạ trị. Thiên hạ chi trị dã, Thang, Trụ chi lực dã; thiên hạ chi loạn dã, Kiệt, Trụ chi tội dã. Nhược dĩ thử quan chi, phù an nguy trị loạn, tồn hồ thượng chi vi chính dã, tắc phù khởi khả vị hữu mạng tai?
Cổ tích giả Vũ, Thang, Văn, Võ phương vi chính hồ thiên hạ chi thời, viết tất sử cơ giả đắc thực, hàn giả đắc y, lao giả đắc tức, loạn giả đắc trị; toại đắc quang dự lịnh vấn ư thiên hạ. Phù khởi khả dĩ vị mạng tai? Cố dĩ vị kì lực dã. Kim hiền lương chi nhân, tôn hiền nhi hiếu công đạo thuật. Cố thượng đắc kì vương công đại nhân chi thưởng, hạ đắc kì vạn dân chi dự, toại đắc quang dự lịnh vấn ư thiên hạ, diệc khởi dĩ vị kì mạng tai? Hựu dĩ vị kì lực dã[2]).
Hơn nữa, Mặc tử còn cho rằng chính bọn bạo vương đặt ra thuyết có định mạng rồi hạng dân biếng nhác, xấu xa mới theo mà thuật lại, chứ các thánh vương đều bác các thuyết ấy:
“Ba đời bạo vương thời xưa Kiệt, Trụ, U, Lệ […] ngoài thì rong ruổi, săn bắt, bẫy thỏ, bắn chim; trong thì đắm, mê rượu nhạc, bỏ bê việc trị nước và dân; rất đỗi vô dụng mà lại còn tàn bạo với trăm họ, đến nỗi mất tôn miếu (…) rồi bảo: “Mất nước là tại số mạng của ta vậy”.
Còn các thánh vương thì lo ngại về hậu quả của thuyết đó nên đã ghi chép trên sách để răn đời sau. Như thiên Thái thệ của Võ vương[3] chép: “Trời giúp người có đức sáng, điều đó hiển nhiên. Tấm gương đâu xa, coi vua nhà Ân (tức Trụ) đó. Hắn bảo: “Người ta có số mạng”, bảo: “Không cần kính [Trời]”, bảo: “Cúng tế chẳng ích gì”, bảo: “Bạo ngược cũng không bị hại”. [Vì vậy] Thượng Đế không giúp hắn, hắn mất chín châu (tức thiên hạ). Thượng Đế ghét Trụ, khiến hắn phải chết. Ta là Hữu Chu được nhận nhà Thương (nghĩa là trời cho diệt vua Trụ nhà Thương, thay nhà Thương mà trị thiên hạ)”[4].
- Biểu thứ nhì: nguyên
Mặc tử bảo:
“Ta sở dĩ biết có mạng hay không là nhờ xét sự thực của tai mắt mọi người: nếu mọi người nghe thấy, trông thấy thì ta cho là có; nếu mọi người không nghe thấy, trông thấy thì ta cho là không có. Mà ta đã từng xét sự thực trăm họ từ xưa tới nay, xem có ai từng trông thấy hình thể của số mạng, từng nghe tiếng của số mạng chưa, thì thật là chưa từng có”.
(Ngã sở dĩ tri mạng chi hữu dữ vô giả, dĩ chúng nhân nhĩ mục chi tình, tri hữu dữ vô; hữu văn chi, hữu kiến chi, vị vi hữu; mạc chi văn, mạc chi kiến, vị chi vô. Thường khảo chi bách tính chi tình, tự cổ dĩ cập kim… diệc thường hữu kiến mạng chi vật, văn mạng chi thanh[5] giả hồ? Tác vị thường hữu dã[6] – Phi mạng trung).
Dùng biểu thứ nhất là phải, và Mặc đã áp dụng đúng; nhưng áp dụng biểu thứ hai thì bậy. Mặc cơ hồ phân biệt cái trừu tượng với cái cụ thể. Số mạng đâu phải là một vật có hình có tiếng mà bảo người ta trông thấy, nghe thấy cho được? Chắc người viết thiên Phi mạng hạ đã nhận thấy lí luận của Mặc sai nên không chép.
- Biểu thứ ba: dụng
Mặc tử bảo:
“Các vương công đại nhân ngày nay sáng sớm vô triều, chiều mới về (…) không dám biếng nhác, uể oải là tại sao? Tại họ cho rằng hễ gắng sức làm thì nước trị, nếu không thì nước loạn; gắng sức thì yên, không thì nguy cho nên không dám biếng nhác uể oải. Nay các khanh đại phu tận lực dùng tay chân và trí óc để suy tư, ở trong thì trông coi các kho lẫm nhà nước, ở ngoài thì thu cái lợi (thuế) cửa quan và chợ, cái lợi của rừng, núi, chằm, cầu để cho kho lẫm được đầy, mà không dám biếng nhác, chán nản là tại sao? Tại họ cho rằng hễ gắng sức thì sang, không thì hèn, gắng sức thì vinh, không thì nhục, cho nên không dám biếng nhác, uể oải. Nay nông dân sáng ra ngoài ruộng, chiều tối về, gắng sức cày cấy, trồng trọt, để thu được đậu lúa, mà không dám biếng nhác uể oải là tại sao? Tại họ cho rằng gắng sức thì giàu, không thì nghèo, gắng sức thì ấm, không thì lạnh, vì vậy mà không dám biếng nhác, uể oải.
Giả sử các vương công đại thần tin thuyết có số mạng mà hành động theo thuyết đó thì tất họ sẽ biếng nhác trong vụ xử kiện, trị nước; các khanh đại phu mà biếng nhác trong việc trông coi kho lẫm của nhà nước thì tôi cho rằng thiên hạ tất loạn; nông phu biếng nhác trong việc cày cấy trồng trọt, đàn bà biếng nhác trong việc đánh sợi, kéo tơ thì tôi cho rằng thức ăn, áo mặc trong thiên hạ nhất định sẽ thiếu.
Trị thiên hạ mà như vậy mà thờ trời và quỉ thần, thì trời và quỉ thần không nhận; dưới bảo vệ nuôi nấng trăm họ, trăm họ không được lợi, tất sẽ li tán không dùng họ được, do đó mà lui về giữ nước không vững, tiến quân đánh nước ngoài thì sẽ không thắng (…)
Vậy: “Bậc sĩ quân tử ngày nay nếu thực tâm muốn dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì không thể không tận lực bài xích thuyết có số mạng”.
(Kim dã, vương công đại nhân chi sở dĩ tảo triều yến thoái, thính ngục trị chính, (…)[7] nhi bất cảm đãi quyện giả, hà dã?[8] Viết: Bỉ dĩ cưỡng tất trị, bất cưỡng tắc loạn; cưỡng tất ninh, bất cưỡng tất nguy; cố bất cảm đãi quyện. Kim dã, khanh đại phu chi sở kiệt cổ quang chi lực, đàn kì tư lự chi trí, nội trị quan phủ, ngoại liễm quan thị, sơn lâm, trạch lương chi lợi, dĩ thực quan phủ, nhi bất đãi quyện giả, hà dã? Viết: Bỉ dĩ vi cưỡng tất quí, bất cưỡng tất tiện; cưỡng tất vinh, bất cưỡng tất nhục, cố bất cảm đãi quyện. Kim dã, nông phu chi sở dĩ tảo xuất mộ nhập, cưỡng hồ canh giá thụ nghệ, đa tụ thục túc, nhi bất cảm đã quyện, hà dã? Viết: Bỉ dĩ vi cưỡng tất phú, bất cưỡng tất bần, cưỡng tất noãn, bất cưỡng tất hàn, cố bất cảm đãi quyện.
Kim tuy vô tại hồ vương công đại nhân, quĩ nhược tín hữu mạng nhi trí hành chi, tắc tất đãi thính ngục trị chính hĩ, khanh đại phu tất đãi hồ trị quan phủ hĩ; nông phu tất đãi hồ canh giá thụ nghệ hĩ; phụ nhân tất đãi hồ phưởng tích chức nhâm hĩ. Vương công đại nhân đãi hồ thính ngục, trị chính, khanh đại phu đãi hồ quan phủ, tắc ngã dĩ vi thiên hạ tất loạn hĩ. Nông phu đãi hồ canh giá thụ nghệ, phụ nhân đãi hồ phưởng tích chức nhâm, tắc ngã dĩ vi thiên hạ y thực chi tài tương bất túc hĩ. Nhược dĩ vi chính hồ thiên hạ, thượng dĩ sự thiên quỉ, thiên quỉ bất sử; hạ đãi công dưỡng bách tính, bách tính bất lợi, tất li tán bất khả đắc dụng dã. Thị dĩ nhập thủ tắc bất cố, xuất tru tắc bất thắng (…)
Kim chi thiên hạ chi sĩ quân tử, trung thực tương dục cầu hưng thiên hạ chi lợi, trừ thiên hạ chi hại, đương nhược hữu mạng giả chi ngôn, bất khả bất cưỡng phi chi dã[9]).
Đã chủ trương có định mạng, giàu nghèo, thọ yểu đều do trời định trước rồi, không thể thêm bớt được, thì trong đời không còn việc gì đáng làm nữa, ngay cả việc học. Thiên Công Mạnh, bài 6, Mặc tử bảo:
“Bảo người ta học mà lại chủ trương có định mạng, như vậy khác gì bảo người ta bao tóc mà bỏ cái mũ đi”.
Trong suốt đời Tiên Tần, chỉ có một mình Mặc tử đưa ra thuyết phi mạng. Thuyết đó tuy tích cực, nhưng chỉ tương đối tiến bộ thôi. Ông vẫn nghĩ rằng “nhân năng thắng thiên”, mà chỉ bảo trời và quỉ thần rất sáng suốt, công minh, không định trước thời này sẽ thịnh, thời kia sẽ loạn, người này sẽ giàu sang và thọ, kẻ kia sẽ nghèo hèn và yểu; mà để cho mọi người tự xây dựng cuộc đời mình, định đoạt lấy tương lai của mình, nếu làm điều thiện thì trời sẽ thưởng, ngược lại thì mới bị trời phạt, vậy thái độ hợp lí nhất của ta là cứ gắng sức hoài đi. Việc chưa thành là vì sức chưa đủ chứ không phải là vì số mạng. Ông “năng thuyết” mà cũng “năng hành” để làm gương cho thiên hạ: suốt đời khẳng khái làm việc nghĩa, mong cứu vớt loài người, dù gian nan bao nhiêu cũng không ngại, dù không có kết quả cũng không nản (Canh Trụ 4 và 6), và nếu không ai làm thì ông lại phải làm nhiều lên, như trong một gia đình có người người con, chín người ở không thì người thứ mười phải gắng sức cày cấy[10]. (Quí nghĩa 2).
Chúng ta tiếc rằng sử không chép gì về cuộc đời về già của ông ra sao, khi sức ông đã suy mà xã hội cũng vẫn loạn như trước hay hơn trước; nhưng trong bộ Mặc tử chúng ta cũng không thấy chép một lời chán nản, than thở nào của ông.
Nhưng khi Mặc tử chê đạo Nho có thể làm mất thiên hạ vì chủ trương có định mạng, không thể sửa đổi được, thì ông tỏ ra bất công.
Quả thực Khổng tử cho rằng có số mạng như khi Bá Ngưu, một môn sinh của ông đau nặng, ông lại thăm, cầm tay Bá Ngưu, than thở: “Con sắp mất. Số mạng đó thôi! Người như vậy mà bị bệnh như vậy!”[11] (Ung dã – 8).
Tử Hạ, một môn đệ khác của ông bảo: “Thương tôi nghe nói[12]: “Tử sinh hữu mạng, phú quí tại thiên” (Nhan Uyên – 5).
Nhưng Khổng tử trước sau không hề dạy môn sinh phải “thính thiên an mạng” mà trái lại luôn luôn có thái độ “tri kì bất khả nhi vi chi”, và suốt đời ông “làm việc thánh, việc nhân không chán, dạy người không mỏi” (Thuật nhi 33: Nhược thánh dữ nhân, tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyện, tắc khả vị vân nhi dĩ hĩ).
Mạnh tử đời sau cũng khuyên ta gắng sức làm điều thiện (cưỡng vi thiện), ai cũng có thể thành bậc thánh như Nghiêu, Thuấn được nếu chịu luyện tâm như Nghiêu, Thuấn.
Sau cùng, Tuân Tử cũng tin như Khổng tử rằng có mạng trời: “Thình lình xảy ra mà không ngờ (không hiểu được nguyên nhân) thì gọi là mạng” (Tiết ngộ chi vị mạng – Chính danh), nhưng ông chủ trương trời và người không tương quan vì với nhau (thiên nhân bất tương quan) - trái hẳn Khổng tử, Mặc tử - cho nên khuyên ta không cần lưu tâm gì tới thiên mạng, hơn nữa, ta còn có thể thắng được thiên mạng. Ông bảo: “Theo trời mà khen ngợi trời thì sao bằng tài chế cái mạng trời mà dùng?” (Tòng thiên nhi tụng, thục dữ chế thiên mạng nhi dụng chi? – Thiên luận). Nghĩa là nếu ta siêng thì trời không thể làm cho ta nghèo được, nếu ta lười thì[13] trời không phải là cái gì nhất định, nó như một sức mạnh đẩy ta tới một hướng nào đó, ta có thể chống lại được.
Tư tưởng “chế thiên mạng” đó tấn bộ hơn tư tưởng “phi mạng” của Mặc tử, nhất là Mặc tử cở hồ có lúc không tin thuyết của mình lắm, nên trong thiên Canh Trụ, bài 2 (đã dẫn ở chương trên), ông tin bói, bảo quỉ thần biết trước được việc mấy trăm năm về sau. Như vậy là có định mạng hay không có định mạng?[14]
Chú thích:
[1] Luận ngữ, Hiến vấn 36. (Goldfish).
[2]昔桀之所亂,湯治之;紂之所亂,武王治之。當此之時,世不渝而民不易,上變政而民改俗。存乎桀紂而天下亂,存乎湯武而天下治。天下之治也,湯武之力也;天下之亂也,桀紂之罪也。若以此觀之,夫安危治亂存乎上之為政也,則夫豈可謂有命哉! 故昔者禹,湯,文,武方為政乎天下之時,曰必使飢者得食,寒者得衣,勞者得息,亂者得治,遂得光譽令問於天下。夫豈可以為命哉?故以為其力也。今賢良之人,尊賢而好功道術,故上得其王公大人之賞,下得其萬民之譽,遂得光譽令問於天下,亦豈以為其命哉?又以為力也!
[3] Thiên đó ở trong Chu thư nhưng không chắc là của người thời Võ vương chép.
[4] Đoạn này cũng trong thiên Phi mạng hạ. (Goldfish).
[5] Kiến mạng chi vật, văn mạng chi thanh: nhiều trang chữ Hán trên mạng chép là: 見命之物,聞命之聲; còn bản nguồn (xem chú thích ở dưới) thì chép là: 聞命之聲,見命之體 (văn mệnh chi thanh, kiến mạng chi thể). Mấy chữ này cũng trong thiên Phi mạng trung, nhưng ở đoạn sau. (Goldfish).
[6]我所以知命之有與亡者,以眾人耳目之情,知有與亡;有聞之,有見之,謂之有;莫之聞,莫之見,謂之亡。嘗考之百姓之情,自古以及今...亦嘗有聞命之聲,見命之體者乎?則未嘗有也。
[7] Bỏ bốn chữ khó hiểu.
[8] Đoạn “Kim dã… quyện dã, hà dã”, bản nguồn không chép chữ Hán. Trang http://ctext.org/mozi/book-9/zhs chép là: 今也王公大人之所以蚤朝晏退,聽獄治政,終朝均分,而不敢怠倦者,何也?Bốn chữ mà cụ Nguyễn Hiến Lê bỏ là: “chung triêu quân phân” 終朝均分. (Goldfish).
[9]曰:彼以為強必治,不強必亂;強必寧,不強必危,故不敢怠倦。今也卿大夫之所以竭股肱之力,殫其思慮之知,內治官府,外斂關市、山林、澤梁之利,以實官府,而不敢怠倦者,何也?曰:彼以為強必貴,不強必賤;強必榮,不強必辱,故不敢怠倦。今也農夫之所以蚤出暮入,強乎耕稼樹藝,多聚叔粟,而不敢怠倦者,何也?曰:彼以為強必富,不強必貧;強必煖,不強必寒,故不敢怠倦。
今雖毋在乎王公大人,蕢若信有命而致行之,則必怠乎聽獄治政矣,卿大夫必怠乎治官府矣,農夫必怠乎耕稼樹藝矣,婦人必怠乎紡績織紝矣。王公大人怠乎聽獄治政,卿大夫怠乎治官府,則我以為天下必亂矣。農夫怠乎耕稼樹藝,婦人怠乎紡織績紝,則我以為天下衣食之財將必不足矣。若以為政乎天下,上以事天鬼,天鬼不使;下以持養百姓,百姓不利,必離散不可得用也。是以入守則不固,出誅則不勝(…)
今天下之士君子,中實將欲求興天下之利,除天下之害,當若有命者之言,不可不強非之也。
[10] Trong Đại cương triết học Trung Quốc, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê bảo: “Ông đem thực hành thuyết Kiêm ái với một tinh thần hi sinh cổ kim hi hữu, càng thấy thiên hạ ít người theo mình lại càng gắng sức làm. Câu: “Trong nhà có mười đứa con, chín đứa ở không, một đứa làm ruộng thì đứa này lại càng phải làm gấp bội” quả là bất hủ”. (Sđd, cuốn 2, tr.432). (Goldfish).
[11] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch hơi khác: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó!”. (Goldfish).
[12] Nguyên văn “Thương văn chi”, nghĩa là Thương tôi – tức Tử Hạ - nghe nói. Chu Hi chú giải là: “Thương tôi nghe Phu tử, tức Khổng tử, dạy rằng” – Có thể chính Khổng tử nói, nhưng không hiểu Chu Hi căn cứ ở đâu.
[13] Có lẽ sau bốn chữ “nếu ta lười thì” còn có mấy chữ, ví dụ như: “trời không thể làm cho ta nghèo được,” (Goldfish).
[14] Nhưng Mặc tử không tin thuyết âm dương – Coi bài 18 thiên Quí Nghĩa.