CHƯƠNG VII DƯỚI THỐNG NHẤT TƯ TƯỞNG VỚI TRÊN
Mặc tử là một chính trị gia trọng lí tưởng mà có óc thực tế và thực tiễn; biết rằng chỉ thuyết thôi thì không khác gì nhiều người theo[1] đạo kiêm ái của mình, mà sự chế tài bằng tôn giáo hiệu quả chắc không được bao nhiêu, nên phải dùng thêm sự chế tài bằng chính trị nữa. Trong hai thiên Ý trời và Ý quỉ thần chúng tôi đã xét sự chế tài bằng tôn giáo, chương này và chương sau xét về sự chế tài bằng chính trị.
Qui tắc của Mặc về việc trị dân như sau:
“Bề trên cai trị hễ được kẻ dưới đồng tình thì trị, không được kẻ dưới đồng tình thì loạn” (Thượng chi vi chính, đắc hạ chi tình tắc trị, bất đắt hạ chi tình tắc loạn – Thượng đồng hạ).
Sự đồng tình đó không có nghĩa là được lòng dân, vua và dân thân với nhau như cha với con nhỏ, như Khổng tử khuyên:
“Trên thân với dưới như tay đối với lòng ruột, dưới thân với trên như con nhỏ đối với mẹ hiền. Trên dưới thân với nhau như vậy cho nên trên có lệnh thì dưới theo, trên thi thố điều gì thì dân làm. Dân mến đức của người trên, kẻ gần thì vui lòng phục tòng, kẻ xa thì qui phụ, trị dân như vậy là rất mực”. (Thượng chi thân hạ dã, như thủ túc chi ư phúc tâm; hạ chi thân thượng dã, như ấu tử chi ư từ mẫu hĩ. Thượng hạ tương thân như thử, cố lệnh tắc tòng, thi tắc hành. Dân hoài kì đức, cận giả duyệt phục, viễn giả lai phụ, chính chi trí dã – Khổng tử gia ngữ).
Sự đồng tình của Khổng thiên về tình cảm, của Mặc thiên về tư tưởng (quan niệm thiện ác), về pháp luật; mặc dù Mặc cũng yêu dân, lo cho dân không kém Khổng, có phần hơn nữa, như trong thiên Kiêm ái chúng ta đã thấy.
Mặc tử giảng:
“Bề trên cai trị mà được kẻ dưới đồng tình thì biết rõ quan niệm về tốt xấu trong dân chúng. Biết rõ quan niệm về tốt xấu trong dân chúng rồi thì biết được người nào thiện mà thưởng, kẻ nào tàn bạo mà phạt; người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì nước tất trị. Bề trên cai trị mà không được kẻ dưới đồng tình thì không biết rõ quan niệm về tốt xấu trong dân chúng; không biết rõ về quan niệm tốt xấu trong dân chúng thì không biết được người nào thiện mà thưởng, kẻ nào tàn bạo mà phạt; người thiện không được thưởng, kẻ tàn bạo không bị phạt, trị dân mà như vậy thì nước quốc gia tất loạn. (Thượng đồng hạ).
Người trên kẻ dưới không đồng tình về tốt xấu thì sẽ xảy ra trường hợp bề trên cho một người nào đó là tốt, muốn thưởng, người đó tuy được bề trên thưởng nhưng lại sợ trăm họ huỷ báng (vì quan niệm về tốt xấu của nhà vua và của dân trái ngược nhau); (…) bề trên cho một người nào đó là tàn bạo muốn phạt, người đó tuy bị bề trên phạt nhưng lại được trăm họ khen. Như vậy sự khen của bề trên không có giá trị, không khuyến khích được dân làm điều thiện, mà sự trừng phạt của bề trên không làm cho dân sợ.
Những trường hợp như vậy rất thường xảy ra trong lịch sử: bọn bạo chúa tin dùng những kẻ tiểu nhân nịnh bợ, tàn nhẫn với dân, mà giết hại những người hiền tài, chính trực được lòng dân; do đó dân coi thường sự thưởng phạt của vua mà nổi loạn để “thế thiên hành đạo”, ủng hộ người ngay, trừng trị kẻ gian.
Trong một nước như vậy, mà trong thiên hạ cũng vậy. Chúng ta đã biết mới đầu thiên tử nhà Chu đã qui định rõ ràng: Ai có công nhiều thì được phong tước cao: công, hầu; ai có công ít thì được phong tước[2] thấp: bá, tử, nam; tước cao thì được đất rộng, có nhiều chiến xa (nghĩa là binh lực nhiều); tước thấp thì đất hẹp, có ít chiến xa; và không một chư hầu nào được uy hiếp, xâm lăng một chư hầu khác. Nhưng rồi dần dần một số chư hầu vì lý do này hay một lý do khác, không theo lệ đó; khuyết trương binh lực để mở mang bờ cõi, gây ra cảnh loạn lạc, chiến tranh liên miên trong thời Chiến Quốc. Như vậy là do lẽ trên dưới không cùng một quan niệm về điều phải, tức về cái “nghĩa” (nghĩa bất đồng), như Mặc tử nói.
Chính trị gia nào cũng hiểu lẽ đó. Điều chúng ta muốn biết là Mặc tử dùng cách nào để thống nhất cái “nghĩa” đây.
Ông bảo: “Chỉ có cách là người dưới phải tán đồng lẽ phải với người trên mới trị được thiên hạ” – (Duy năng dĩ thượng đồng nhất nghĩa vi chính, nhiên hậu khả hĩ[3] – Thượng đồng hạ).
Ông lại dùng biểu thứ nhất, khảo sát thời cổ để chứng minh thuyết của ông:
“Thời nguyên thuỷ, trời mới sinh dân, chưa có ai làm chính trưởng (cầm đầu). Mỗi người tự làm chủ mình. Mỗi người tự làm chủ mình thì mỗi người có một lẽ phải, mười người có mười lẽ phải, trăm người có trăm lẽ phải, ngàn người có ngàn lẽ phải, cho tới khi số người đông không biết bao nhiêu mà kể. Ai cũng bênh lẽ phải của mình, chê lẽ phải của người, xung đột lớn thì đến đánh nhau, xung đột nhỏ thì tranh nhau. Trời muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ, cho nên chọn người hiền lập làm thiên tử”.
“Cổ giả thiên chi thuỷ sinh dân, vị hữu chính trưởng dã, bách tính vi nhân. Nhược cẩu bách tính vi nhân, thị nhất nhân nhất nghĩa, thập nhân thập nghĩa, bách nhân bách nghĩa, thiên nhân thiên nghĩa. Đãi chí, nhân chi chúng, bất khả thăng kế dã, tắc kì sở vị nghĩa giả, diệc bất khả thăng kế. Thử giai thị kì nghĩa, nhi phi nhân chi nghĩa, thị dĩ hậu giả hữu đấu, nhi bạc giả hữu tranh. Thị cố thiên [hạ] chi dục đồng nhất thiên hạ chi nghĩa dã, thị cố tuyển trạch hiền giả, lập vi thiên tử”[4].
Xin độc giả để ý đến câu cuối: “Trời muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ, cho nên chọn người hiền lập làm thiên tử”. Trong một đoạn sau, chúng tôi sẽ trở lại ý đó, bây giờ xin hãy diễn tiếp:
“Thiên tử cho rằng trí lực mình chưa đủ để trị thiên hạ, nên mới lập tam công (ba vị đứng đầu trong triều đình thiên tử đời Chu: thái sử, thái phó, thái bảo). Tam công lại thấy trí lực mình chưa đủ để giúp thiên tử, nên mới chia nước ra lập các chư hầu (điều này, Mặc tử chắc đã lầm: theo sử thì thiên tử chứ không phải tam công lập các chư hầu). Chư hầu lại cho rằng trí lực mình chưa đủ để trị khắp bốn cõi, nên lựa người ở dưới lập chức khanh và chức tể (chủ một địa phận, một cơ quan). Khanh và tể lại cho rằng trí lực chưa đủ để giúp vua chư hầu, nên lựa người ở dưới lập làm hương trưởng, gia trưởng. Vì vậy mà đời xưa thiên tử lập tam công, chư hầu, khanh, tể, hương trưởng, gia trưởng không phải vì giàu sang quá mà bỏ (chia xẻ bớt) đi đâu mà là để có người giúp mình coi việc hình chính…” (Thượng đồng hạ).
Tóm lại là trời ghét loạn, mà loạn là do tư tưởng của vạn dân không thống nhất, muốn thống nhất tư tưởng cho hết loạn, trời lựa người hiền cho làm thiên tử để giúp mình, rồi thiên tử lựa người hiền để giúp mình, cứ như vậy lần lần xuống tới chư hầu, khanh, tể, hương trưởng, gia trưởng.
Ý đó không có gì đặc biệt. Khổng giáo cũng cho rằng trời lựa người mà giao cho việc thay mình trị dân, (vì vậy mà người Trung Hoa gọi vua là thiên tử - con trời) và thiên tử lựa các quan và chư hầu.
Đặc biệt là điểm dưới đây:
Khi thống nhất tư tưởng (đồng nhất thiên hạ chi nghĩa) thì không từ trên xuống như khi giao quyền, mà từ dưới lên.
Cũng trong Thượng đồng hạ, Mặc tử bảo:
“Muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ (…) sao không bảo gia trưởng làm thử đi. Gia trưởng ban bố pháp luật trong nhà, bảo: “Hễ thấy ai yêu và làm lợi cho nhà thì phải báo cáo, thấy ai ghét và làm hại cho nhà cũng phải báo cáo”. Nếu thấy ai yêu và làm lợi cho nhà thì báo cáo, thì cũng như chính mình yêu và làm lợi cho nhà, người trên biết được sẽ thưởng cho và mọi người trong nhà nghe thấy sẽ khen; nếu thấy ai ghét và làm hại cho nhà mà không báo cáo thì cũng như chính mình ghét và làm hại cho nhà, người trên biết được sẽ phạt và mọi người trong nhà nghe thấy sẽ chê. Như vậy thì mọi người trong nhà đều muốn gia trưởng khen thương, tránh bị chê phạt. Thấy người thiện và kẻ bất thiện đều báo cáo thì gia trưởng biết được ai thiện mà thưởng, ai tàn bạo mà phạt. Người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì nhà tất trị. Thử xét một nhà như vậy mà trị thì là tại sao? Chỉ tại theo chính sách kẻ dưới thống nhất lẽ phải với người trên vậy thôi.
“Nhà đã trị rồi, thì cái đạo trị nước như vậy là xong rồi chăng? Chưa xong. Số nhà trong thiên hạ rất nhiều, nhà nào cũng cho mình là phải mà chê nhà khác, xung đột lớn thì sinh loạn, nhỏ thì tranh nhau. Cho nên lại phải bắt các gia trưởng trong nước thống nhất lẽ phải của mình với nhà vua. Vua cũng phải ban bố phát luật trong dân chúng, bảo: “Hễ thấy ai yêu và làm lợi cho nước thì phải báo cáo, thấy ai ghét và làm hại cho nước cũng phải báo báo” (…)[5] Dân thấy ai thiện, ai bất thiện đều báo cáo thì vua biết được ai thiện mà thưởng, ai tàn bạo mà phạt. Người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì nước tất trị. Thử xét một nước như vậy mà trị là tại sao? Chỉ tại theo chính sách kẻ dưới thống nhất lẽ phải với bề trên vậy thôi.
“Nước đã trị rồi thì cái đạo trị thiên hạ như vậy là xong rồi chăng? Chưa xong. Số nước trong thiên hạ rất nhiều, nước nào cũng cho mình là phải mà chê nước khác, xung đột lớn thì gây chiến, nhỏ thì tranh nhau. Cho nên lại phải bắt hết thảy các nước thống nhất lẽ phải với thiên tử. Thiên tử cũng phải ban bố phát luật trong thiên hạ, bảo: “Hễ thấy ai yêu và làm lợi cho thiên hạ thì phải báo cáo, thấy ai ghét và làm hại cho thiên hạ cũng phải báo báo” (…) Người trong thiên hạ thấy ai thiện, ai bất thiện đều báo cáo thì thiên tử biết được ai thiện mà thưởng, ai tàn bạo mà phạt. Người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì thiên hạ tất trị. Thử xét thiên hạ như vậy mà trị là tại sao? Chỉ tại theo chính sách kẻ dưới thống nhất lẽ phải với bề trên vậy thôi.
“Thiên hạ trị rồi, thiên tử lại đem tất cả lẽ phải trong thiên hạ thống nhất với trời”.
(Dục đồng nhất thiên hạ chi nghĩa (…) hồ bất thường sử gia quân thí dụng? Gia quân phát hiến bố lệnh kì gia, viết: “Nhược kiến ái lợi gia giả, tất dĩ cáo. Nhược kiến ố tặc gia giả, diệc tất giả cáo”. Nhược kiến ái lợi gia dĩ cáo, diệc do ái lợi gia giả dã, thượng đắc thả thưởng chi, chúng văn tắc dự chi; nhược kiến ố tặc gia bất dĩ cáo, diệc do ố tắc gia giả dã, thượng đắc thả phạt chi, chúng văn tắc phi chi. Thị dĩ biến nhược gia chi nhân, giai dục đắc kì trưởng thượng chi thưởng dự, tịch kì huỷ phạt. Thị dĩ thiện ngôn chi, bất thiện ngôn chi, gia quân đắc thiện nhân chi thưởng chi, đắc bạo nhân nhi phạt chi. Thiện nhân chi thưởng nhi bạo nhân chi phạt, tắc gia tất trị hĩ. Nhiên kế nhược gia chi sở dĩ trị, hà dã? Duy dĩ thượng đồng nhất nghĩa vi chính cố dã.
Gia kí dĩ trị, quốc chi đạo tận thử dĩ da? Tắc vị dã. Quốc chi vi gia số dã thậm đa, thử giai thị kì gia, nhi phi nhân chi gia, thị dĩ hậu giả hữu loạn, nhi bạc giả hữu tranh. Cố hựu sử gia quân tổng kì gia chi nghĩa, dĩ thượng đồng ư quốc quân. Quốc quân diệc vi phát hiến bố lệnh ư quốc chi chúng, viết: “Nhược kiến ái lợi quốc giả tất dĩ cáo, nhược kiến ố tặc quốc giả diệc tất dĩ cáo” (…) Dân kiến thiện giả ngôn chi, kiến bất thiện giả ngôn chi, quốc quân đắc thiện nhân nhi thưởng chi, đắc bạo nhân nhi phạt chi. Thiện nhân thưởng nhi bạo nhân phạt, tắc quốc tất trị hĩ. Nhiên kế nhược quốc chi sở dĩ trị giả, hà dã? Duy năng dĩ thượng đồng nhất nghĩa vi chính cố dã.
Quốc kí dĩ trị hĩ,thiên hạ chi đạo tận thử dĩ da? Tắc vị dã.Thiên hạ chi vi quốc sổ dã thậm đa,thử giai thị kì quốc,nhi phi nhân chi quốc,thị dĩ hậu giả hữu chiến,nhi bạc giả hữu tranh. Cố hựu sử quốc quân tuyển[6] kì quốc chi nghĩa,dĩ thượng đồng ư thiên tử.Thiên tử diệc vi phát hiến bố lệnh ư thiên hạ chi chúng, viết: “Nhược kiến ái lợi thiên hạ giả, tất dĩ cáo, nhược kiến ố tặc thiên hạ giả,diệc dĩ cáo” (…) Thị dĩ kiến thiện,bất thiện giả cáo chi. Thiên tử đắc thiện nhân nhi thưởng chi, đắc bạo nhân nhi phạt chi, thiện nhân thưởng nhi bạo nhân phạt,tắc thiên hạ tất trì hĩ. Nhiên kế thiên hạ chi sở dĩ trị giả, hà dã? Duy nhi dĩ thượng đồng nhất nghĩa vi chính cố dã[7].
Thiên hạ kí dĩ trị, thiên tử hựu tổng thiên hạ chi nghĩa, dĩ thượng đồng ư thiên)[8]. (Thượng đồng hạ).
Trong đoạn đó, Mặc tử dùng bốn chữ “thượng đồng nhất nghĩa” mà chúng tôi dịch là “thống nhất lẽ phải với bề trên” cho dễ hiểu. Cái “nghĩa” đó, “lẽ phải” đó là cái lợi chung của thiên hạ, mà cái lợi chung đó ở chỗ mọi người phải gồm yêu lẫn nhau (kiêm tương ái), làm lợi lẫn cho nhau (giao tương lợi). Đó là ý muốn của trời, trời cao quí hơn cả, nên thiên tử phải theo trời, thống nhất ý chí với trời, vua chư hầu phải thống nhất với thiên tử, các gia trưởng phải thống nhất với vua, các người trong nhà phải thống nhất với gia trưởng.
Muốn thống nhất thì mỗi người trong nhà thấy ai theo đúng cái “nghĩa”, cái “lẽ phải” đó mà yêu, làm lợi cho đoàn thể thì khen và báo với người trên, làm trái cái “nghĩa” đó thì chê và báo với người trên; cứ như vậy từ dưới lên, tức từ nhà lên tới vua, vua tới thiên tử và – theo nguyên tắc – lên tới trời.
Theo Mặc tử, chính sách báo cáo với người trên đó, các tiên vương đã dùng rồi, cho nên thiên Thái thệ [đời vua Chu công] chép: “Nhân dân thấy kẻ nào gian trá thì phải báo cáo, nếu không, việc phát giác thì cũng bị tội như kẻ gian trá”. Ông cho rằng kết quả rất tốt: “thánh vương trị thiên hạ [dùng chính sách đó mà] được nhiều người ngoài (người trong dân gian) nhìn và nghe thay cho mình. Vì vậy mà mưu tính việc với người thì mau hơn người, cùng làm việc với người thì thành công trước người, trông nghe được rộng, thấy mọi sự trước người (…) Ngoài ngàn dặm có hiền nhân nào, hàng xóm người đó chưa nghe và thấy khắp mà thánh vương đã biết mà thưởng rồi; trong ngàn dặm có kẻ tàn bạo nào, làng xóm người đó chưa nghe và thấy khắp mà thánh vương đã biết và phạt rồi. Thánh vương dù mắt sáng tai rõ tới đâu, làm sao có thể nhìn một cái mà thấy khắp ở ngoài ngàn dặm, nghe một lần mà thấy được khắp nơi ở ngoài ngàn dăm? Thánh vương không tới tận nơi để nhìn, để nghe mà khiến cho những kẻ trộm cướp phiến loạn trong thiên hạ không có chỗ nào để dung thân, là tại sao? Tại chính sách tán đồng với người trên rất hay vậy.
Như chúng tôi đã nói, thiên Thái thệ chưa chắc đã do người đời Chu Võ vương viết; vậy chính sách cáo gian chưa chắc đã có từ đời đó; nếu có thì nó cũng phải bỏ vì đời Khổng tử, Mặc tử không dùng. Mãi tới đời Tần Hiếu công (thế kỉ thứ 4 tr,T.L), Thương Ưởng mới thi hành, nhưng khi Thương Ưởng chết, nó bị bãi bỏ; rồi tới đời Tần Thuỷ Hoàng, Hàn Phi lại đề nghị dùng lại. Trong thiên Bát Kinh, Hàn viết: “Trong một huyện, nhà nào cũng gần nhau, hợp nhau thành từng “ngũ” (5 nhà), từng “liên” (250 nhà), hễ ai tố cáo lỗi của người khác thì được thưởng, không tố cáo thì bị trừng trị. Bề trên đối với người dưới, người dưới đối với bề trên đều như vậy cả…”. Chắc Thương Ưởng và Hàn Phi đã chịu ảnh hưởng của Mặc tử.
Tóm lại, theo Mặc tử, muốn cho nước trị thì phải thống nhất tư tưởng với vua, rồi bắt dân báo cáo kẻ thiện, kẻ ác, để vua thưởng kẻ thiện, phạt kẻ ác. Sự chế tài bằng chính trị như vậy, nó bổ sung cho sự chế tài bằng tôn giáo mà hiệu quả không được lớn vì sự thưởng phạt của trời và quỉ thần không hiển nhiên, trực tiếp bằng sự thưởng phạt của vua, quan, gia trưởng.
Tuy nhiên, chúng ta còn nhận thấy rằng Mặc tử cũng cho sự khen chê của dư luận là một cách chế tài nữa, nên sau những chữ: “thượng đắc tắc thưởng chi”, “thượng đắc tắc phạt chi”, ông thêm: “chúng văn tắc dự chi”, “chúng văn tắc phi chi”.
Tuân Tử đời sau, trong thiên Thiên luận chê Mặc tử chỉ thấy cái lẽ dân chúng phải cùng theo một đường lối, một chủ trương mà không thấy cái lẽ mỗi người có một cá tính, một quan niệm, nhân sinh quan riêng (Mặc tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỉ), như vậy cá tính không phát triển được. Nhận xét đó có phần đúng.
Phùng Hữu Lan (sách đã dẫn, tr.136) bảo dân phải phục tùng thiên tử, và chỉ thiên tử phải “thượng đồng” với trời, như vậy thiên tử vừa là vua, vừa là giáo hoàng, quân quyền và thần quyền đều ở trong tay, cũng đúng nữa.
Nếu Mặc tử được cầm quyền, thì có thể tổ chức một liên gia (5 tới 10 nhà) tố cáo lẫn nhau của Thương Ưởng đã xuất hiện sớm được hơn trăm năm. Nhưng lí tưởng “thượng đồng” của Mặc tử có phần hơi giống lí tưởng “lễ nhạc, chinh phạt tự thiên tử xuất”[9] của Khổng tử, và khác hẳn lí tưởng của bọn pháp gia Thương Ưởng, Hàn Phi. Khổng và Mặc đều muốn giữ chế độ phong kiến trên là thiên tử, dưới là chư hầu, đều muốn mưu hạnh phúc cho khắp thiên hạ; còn Thương Ưởng chỉ muốn dùng võ lực thống nhất Trung Quốc để mưu cái lợi riêng cho nước Tần, đúng hơn là vua Tần. Chính vì câu “Thiên tử hựu tổng thiên hạ chi nghĩa dĩ thượng đồng ư thiên” mà Mặc tử không thể coi là nhà độc tài được. Ông buộc thiên tử phải hành động hợp với ý trời thì mới đáng được thiên hạ đồng tình.
Bây giờ chúng ta trở lại câu trong Thượng đồng hạ: “Trời muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ, cho nên chọn người hiền làm thiên tử” đã dẫn trong đoạn Mặc tử bàn về thời nguyên thuỷ. Nguyên văn câu đó như sau: “Thiên hạ chi dục đồng nhất thiên hạ chi nghĩa dã, thị cố tuyển trạch hiền giả lập ư thiên tử”.
Tìm trong Thượng đồng thượng và trung chúng tôi thấy: Thượng:
“Phù minh hô thiên hạ chi sở dĩ loạn giả, sinh ư vô chính trưởng, thị cố tuyển thiên hạ chi hiền khả giả lập vi thiên tử”[10] [Thời nguyên thuỷ thiên hạ loạn như cầm thú], biết rằng thiên hạ sở dĩ loạn là do không có chính trưởng, cho nên chọn người hiền lương trong thiên hạ lập làm thiên tử.
Hai động từ “minh” (biết rằng) và “tuyển” (chọn) đều không có chủ từ; vậy không biết được là ai chọn vua: trời hay dân? Khó có thể là dân được vì thời đó dân “loạn như cầm thú”.
Thượng đồng trung rõ ràng hơn, bảo là trời tuyển:
“… Cố giả Thượng Đế quỉ thần kiến thiết quốc đô, lập chính trưởng dã (…) tương dĩ vi vạn dân hưng lợi, trừ hại, phú bần, chúng quả[11], an nguy, trị loạn dã”[12]: Thời xưa, Thượng Đế, quỉ thần đặt quốc đô, lập vị chính trưởng là để vạn dân mà hưng lợi, trừ hại, làm cho nghèo hoá giàu, ít dân hoá nhiều dân, nguy hoá an, loạn hoá trị”.
Tóm lại, ba thiên Thượng đồng thì thiên thượng không nó rõ ai lựa vua, thiên trung nói rõ là trời lựa, thiên hạ nói dân lựa. Nhưng Tôn Di Nhượng rồi gần đây: Phùng Hữu Lan, Phương Thụ Sở, Tiêu Công Quyền, Đường Kính Cảo đều cho rằng Mặc chủ trương trời lựa vua, mà thiên Thượng đồng hạ đã chép sai, dư chữ hạ. Còn một vài tác giả khác (như Ngô Tất Tố - Sách đã dẫn tr.136) cho là Mặc chủ trương dân lựa vua).
Chúng tôi theo Tôn Di Nhượng vì chủ trương trời lựa hợp với tư tưởng “thiên ý”, “thượng đồng ư thiên”, tức tư tưởng thần quyền của Mặc hơn. Vả lại thời Xuân Thu và đầu thời Chiến Quốc, dân tộc Trung Hoa chưa thể có quan niệm dân lựa vua được; họ chỉ có thể thừa nhận hay không thừa nhận một ông vua mà thôi. Không thừa nhận thì ta thán, nổi loạn như dưới thời Kiệt, Trụ, U, Lệ; thừa nhận thì ca tụng như khi Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, Thuấn cho Vũ…
Do những lẽ đó chúng tôi đã theo Tôn, bỏ chữ hạ thứ nhất trong “thiên hạ chi dục đồng nhất thiên hạ chi nghĩa dã…” mà dịch là: “Trời muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ…”: thống nhất lẽ phải là ý trời chứ không phải của dân, vậy việc lựa người hiền cho làm thiên tử cũng là việc của trời chứ không phải của dân. Lẽ đó hiển nhiên[13].
Mà hiểu như vậy cũng hợp với hai đoạn dưới đây trong thiên Thượng đồng trung:
“Chỉ có trời là không kể tới giàu nghèo, sang hèn, gần xa, thân sơ, cứ người nào hiền thì đề cử mà tôn trọng, kẻ nào xấu thì ức chế, bỏ đi…”
“…Vì vậy mà trời và quỉ thần hưởng lễ vật của họ (Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ) cho làm thiên tử, làm cha mẹ dân…”
Nhưng Mặc tử không cho ta biết trời lựa vua cách nào.
Đời sau, Mạnh tử sửa lại ý của Mặc tử. Mạnh tử cũng chủ trương rằng ai được làm vua là do ý trời, nhưng trời không tuyển, chỉ cho thôi (thiên dữ chi). Trời cho là thế này:
Vua Nghiêu tiến cử một người hiền là ông Thuấn với trời thì trời thuận, rồi tuyên bố với dân (rằng ông Thuấn sẽ kế vị mình) dân cũng chịu. Sở dĩ biết dân cũng chịu là vì khi ông Thuấn hay vua Nghiêu cai quản việc nước được ổn tri, trăm họ được yên vui. Như thế là trời và dân đều đem thiên hạ cho ông Thuấn (Thiên dữ chi, nhân dữ chi[14] – Vạn Chương thượng, bài 5).
Rồi sau vua Thuấn nhường ngôi cho ông Vũ, thì cũng vậy, được trời và dân nhận. Tới khi vua Vũ già, muốn nhường ngôi cho một bề tôi là ông Ích, nhưng dân không chịu, không ca tụng ông Ích mà ca tụng ông Khải, con vua Vũ, vậy là ông Khải được làm vua, ngôi vua từ đó không truyền cho người khác nữa, mà truyền cho con. Cũng là do ý trời, ý dân nữa (Vạn Chương thượng, bài 6).
Thuyết của Mạnh tiến bộ hơn và cũng dễ chấp nhận hơn thuyết của Mặc.
Sau cùng, còn một điểm nữa, cũng nên xét thêm.
Phương Thụ Sở (sách đã dẫn tr.86), bảo: “Nếu thiên tử [do trời lựa chọn] không phải là người nhân mà là bạo chúa thì làm sao? Điểm đó Mặc tử chưa nói tới”.
Tiêu Công Quyền (Trung Quốc chính trị tư tưởng sử tr.156 – chú 54) cũng viết: “Trong bộ Mặc tử không có thuyết giết bạo quân”.
Hai nhà đó lầm chăng? Thiên chí thượng, Mặc đã nói rõ: Kiệt, Trụ, U, Lệ bị trời phạt, không cho “sống hết tuổi thọ, không hết đời họ, đến nay còn bị huỷ báng, gọi là bạo vương”.
Minh quỉ hạ, Mặc còn nói rõ thêm rằng trời “sai vua Thang rất sáng suốt trừng trị Kiệt”, “sai Võ vương rất sáng suốt trừng trị Trụ”, và khi trời và quỉ thần đã trừng trị thì dù là “kẻ giàu sang, đông đảo, mạnh mẽ, có võ lực, áo giáp cứng, binh khi bén” cũng không chống nổi trời.
Vậy là Mặc đã nói đến việc giết bạo quân đấy. Nhưng ý đó không có gì mới, cũng vẫn là của Nho giáo. Kinh Thư, thiên Thang Cáo đã chép: “Đạo trời giáng tai ương cho Kiệt để tỏ rõ tội hắn (…), ta (tức vua Thang) theo mệnh trời mà tỏ rõ uy của trời, nên không dám tha hắn”. Rồi Thái Thệ cũng chép: “Tội Trụ đã đầy, mệnh trời là giết hắn đi, nếu ta không thuận ý trời thì tội cũng như hắn”.
Ở thời Khổng tử và Mặc tử, chưa ai nghĩ tới việc cho dân làm cách mạng, giết vua. Phải đợi tới khoảng trăm năm sau khi Mặc tử chết, Mạnh tử mới có hùng tâm cho dân cái quyền làm cách mạng một cách gián tiếp. Theo Mạnh, hạng “thiên lại” tức hạng vâng mệnh trời mà trị an có quyền giết vua, đánh một nước vô đạo; hạng đó phải có đức, được dân tín nhiệm, đã nổi danh là khoan đại, nhân nghĩa; lại phải theo ý dân, nghĩa là dân có lòng oán bạo chúa, mong mỏi được giải phóng, thì lúc đó thiên lại mới giết vua (Coi N.H.L Mạnh tử - Cảo Thơm 1975 – tr.90-92).
Vậy tuy sinh trong giới tiện dân, có nhiệt tâm bênh vực giai cấp của mình, Mặc tử vẫn bị thời đại hạn chế, chưa có được tư tưởng dân quyền bằng Mạnh tử.
Chú thích:
[1] Có lẽ trước chữ “theo” còn có chữ “không” hoặc “không chịu”. (Goldfish).
[2] Mấy chữ: “cao: công, hầu; ai có công ít thì được phong tước” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[3]唯能以尚同一義為政,然後可矣 (theo http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90/%E5%B0%9A%E5%90%8C%E4%B8%8B) (Goldfish).
[4]古者天之始生民,未有正長也,百姓為人。若苟百姓為人,是一人一義,十人十義,百人百義,千人千義。逮至人之眾,不可勝計也,則其所謂義者,亦不可勝計。此皆是其義,而非人之義,是以厚者有鬥,而薄者有爭。是故天下之欲同一天下之義也,是故選擇賢者,立為天子。
[5] Bỏ 5 hàng giống với đoạn trên.
[6] Chữ tuyển 選 này dùng như chữ tổng 总. [Bản nguồn đánh số lầm chú thích này ở tiểu đoạn hai, sau: (…). Hai chữ Hán 選 và 总 là do tôi ghi thêm. (Goldfish)].
[7] Tiểu đoạn thứ ba này (“quốc kí dĩ… vi chính cố dã”) là do tôi ghi thêm. Hai tiểu đoạn trên tôi cũng sửa lại vài chỗ. (Goldfish)
[8]欲同一天下之義...胡不賞使家君試用。家君發憲布令其家曰:“若見愛利家者,必以告。若見惡賊家者,亦必以告。”若見愛利家以告,亦猶愛利家者也,上得且賞之,眾聞則譽之。若見惡賊家不以告,亦猶惡賊家者也,上得且罰之,眾聞則非之。是以遍若家之人,皆欲得其長上之賞譽,辟其毀罰。是以善言之,不善言之。家君得善人而賞之,得暴人而罰之。善人之賞,而暴人之罰,則家必治矣。然計若家之所以治者,何也?唯以尚同一義為政故也。
家既已治,國之道盡此已邪?則未也。國之為家數也甚多,此皆是其家,而非人之家,是以厚者有亂,而薄者有爭。故又使家君總其家之義,以尚同於國君,國君亦為發憲布令於國之眾,曰:“若見愛利國者,必以告。若見惡賊國者,亦必以告。”(...)民見善者言之,見不善者言之。國君得善人而賞之,得暴人而罰之。善人賞而暴人罰,則國必治矣。然計若國之所以治者,何也?唯能以尚同一義為政故也。
國既已治矣,天下之道盡此已邪?則未也。天下之為國數也甚多,此皆是其國,而非人之國,是以厚者有戰,而薄者有爭。故又使國君選其國之義,以尚同於天子。天子亦為發憲布令於天下之眾,曰:“若見愛利天下者,必以告。若見惡賊天下者,亦以告。”是以見善、不善者告之。天子得善人而賞之,得暴人而罰之,善人賞而暴人罰,則天下必治矣。然計天下之所以治者,何也?唯而以尚同一義為政故也。
天下既已治,天子又總天下之義,以尚同於天。
[9] Luận ngữ, thiên Quí thị, bài 2. (Godfish).
[10]夫明虖天下之所以亂者,生於無政長,是故選天下之賢可者,立以為天子。
[11] Phú bần, chúng quả: tức富貧,众寡 (theo http://www.ccmedu.com/bbs40_133954.html), nhưng Phần chữ Hán chép là: 富貴貧寡 (phú quí bần quả) – xem chú thích ở dưới. (Goldfish).
[12] 古者上帝,鬼神之建設國都,立正長也(...)將以為萬民興利除害,富貴貧寡,安危治亂也。
[13] Trong Đại cương triết học Trung Quốc – quyển hạ, trang 485, chúng tôi đã lầm, cho là dân lựa vua, nay xin đính chính.
[14] Bản nguồn chép là: “Thuấn dữ chi, nhân dữ chi”, tôi sửa lại theo trang http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%AD%9F%E5%AD%90/%E8%90%AC%E7%AB%A0%E4%B8%8A: 天與之,人與之. (Goldfish).