CHƯƠNG VIII LỰA NGƯỜI HIỀN
Dân tộc Trung Hoa có truyền thống trọng người hiền (Thượng hiền) và còn hơn nữa những người hiền coi quyền cao chức trọng – ngay cả ngôi vua – không bằng chiếc dép cỏ của họ.
Truyền thống đó để lại cho hậu thế nhiều trang sử thú vị. Mười truyện chưa chắc đã được năm truyện có thật và chuyện nào có thực thì mười phần chưa chắc đúng được năm, nhưng người chép đã say mê chép và người nghe cũng say mê nghe. Những truyện vua Nghiêu đem hai đứa con gái gả cho ông Thuấn; vua Thành Thang đưa một người đầu bếp lên chức tể tướng (tức Y Doãn); vua Văn vương nhà Chu rước một ông lão câu cá (Thái công Vọng) về triều giúp nước; Lưu Bang tam cố thảo lư của Lưu Bị; rồi những truyện Hứa Do, nghe tin vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho mình, phải xuống rửa tai ở sông Dịch, quá quắt hơn nữa, Sào Phủ thấy vậy dắt trâu lên, không cho uống nước dưới dòng nước, sợ bẩn mồm trâu; Bá Di và Thúc Tề không chịu làm vua Cô Trúc; Trang tử đuổi sứ giả vua Sở vua phái tới đón mình về triều làm tể tướng; gàn dở có một như Vụ Quang, được vua Thang nhường ngôi cho, không nhận thì thôi, mà nhảy xuống sông tự tử mà cũng được đời sau truyền tụng…; ngoài những truyện đó còn biết bao nhiêu truyện khác nữa rải rác trong mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa mà chúng tôi chưa gặp trong lịch sử một dân tộc nào khác.
Truyền thống trọng kẻ ẩn sĩ có một thời bị nhóm Pháp gia như Hàn Phi đả kích mạnh. Hàn cho rằng dù bọn ẩn sĩ đào giếng lấy nước mà uống, trồng lúa lấy mà ăn, không làm hại gì cho quốc gia thì cũng vẫn là vô dụng, tại sao lại trọng họ? Còn truyền thống trọng người hiền thì ai cũng nhận là đẹp.
Theo truyền thuyết, các vua Trung Hoa từ đời Thương trở về trước hầu hết đều trọng người hiền hơn người thân, giao quyền cho người hiền chứ không giao cho người thân.
Từ đời Chu trở đi mới có chế độ “thân thân”[1], nghĩa là thương yêu người thân, người ruột thịt, họ hàng, giao quyền hành cho họ, dù họ không có tài, tin họ dù họ không có đức, mà không dùng người ngoài. Do đó mà thành một giai cấp quí tộc nắm hết quyền ở các triều đình, cha truyền con nối. Chỉ có họ mới được học, mới biết pháp luật, muốn giải thích pháp luật ra sao tuỳ ý, và dĩ nhiên, họ bênh vực lẫn nhau, cho nên mới có tục: “lễ bất há thứ nhân, hình bất thướng đại phu” (Lễ Kí), nghĩa là giữa họ với nhau có xảy ra chuyện gì thì họ theo pháp điển bất thành văn (lễ) của họ mà dàn xếp, còn đối với dân thường họ mới dùng hình pháp mà chỉ họ được biết thôi. Tóm lại bọn cha anh (phụ huynh) nhà vua đó điều khiển việc nước, dân thường không được dự vào.
Đầu đời Chu như vậy, nhưng qua đời Xuân Thu, vì nhà Chu suy vi, một số chư hầu mạnh lên, muốn lấn quyền nhà Chu, và khôn khéo biết dùng hạng bình dân có tài để giúp mình làm cho nước mau phú cường. Trường hợp điển hình là Tề Hoàn công dùng Quản Trọng – một kẻ hồi trẻ nghèo hèn, phải bán dầu, lại là kẻ thù cũ của mình – làm tướng quốc, trọng Quản Trọng như cha chú, nên gọi là Trọng Phụ; rồi lại nghe lời Quản, phong Ninh Thích – một người chăn bò – làm đại phu, mà các quí tộc ở Tề như họ Cao, họ Quốc không hề bất bình, ganh tị. Nhờ vậy mà Tề mạnh lên, làm bá chủ chư hầu.
Cuối đời Xuân Thu, nhiều nước chư hầu bị các nước mạnh thôn tính, và mỗi lần như vậy thì một bọn quí tộc mất địa vị, như tổ tiên Khổng tử. Họ Khổng vốn là một quí tộc ở Tống. Khi Tống suy, họ phải dời qua Lỗ, được vài đời thì sinh ra Khổng tử. Vì ở trong giai cấp quí tộc nên Khổng tử được học, nhưng vì gia đình suy tàn nên 18 tuổi chưa có chức vụ gì cả, sau mới được coi việc gạt thóc, nuôi bò, những chức thấp nhất thời đó. Sống gần như bình dân, ông có công gây phong trào giáo dục bình dân. Môn sinh của ông đa số là bình dân, ông đào tạo họ thành những kẻ sĩ, và một số có tài như Tử Cống, Tử Dư, Tử Lộ, Ngôn Yển… ra làm quan ở Lỗ, Tề, Vệ… Như vậy là ông không những chủ trương rằng giới bình dân có tài phải được lãnh chức vụ trong chính quyền, mà gắng sức đào tạo hạng người đó để giúp xã hội nữa.
Trong sách Trung dung, chương 20, ông bảo: Việc trị thiên hạ, nước nhà có chín điều căn bản, mà ba điều là: sửa mình thì thành đạo, tôn trọng người hiền thì khỏi lầm lạc, yêu người thân thì cha chú, anh em không dám oán…
(Phàm vi thiên hạ quốc gia hữu cửu kinh, viết tu thân dã, tôn hiền giả, thân thân dã… Tu thân tắc đạo lập, tôn hiền tắc bất hoặc, thân thân tắc chư phụ, côn đệ bất oán…)[2]
Đặt “tôn hiền” lên hàng nhì, trước “thân thân” là ông đã có ý sửa đổi chế độ quí tộc của nhà Chu, chứ không hoàn toàn “tòng Chu” nữa. Chỉ sửa đổi một chút thôi, vì thời ông bọn “cha anh” quyền còn quá lớn, ông chưa dám gạt họ ra. Mấy chữ “thân thân tắc chư phụ, côn đệ bất oán” thật hàm súc: vua còn sợ bọn “cha anh” đó oán mà sẽ không làm được việc gì, có khi mất mạng nữa khiến ông vẫn phải “thân thân”. Ông ở trong giai cấp quí tộc, mặc dầu là hạng quí tộc nhỏ, đã suy, nên vẫn tôn trọng ít nhiều quyền lợi của giai cấp ấy.
Mặc tử khác hẳn, ở trong giai cấp tiện dân, thâm oán hạng quí tộc, lại thấy rõ cái hại chuyên quyền của bọn quí tộc như ba họ Quí, Thức, Mạnh ở Lỗ thời Xuân Thu, giàu mạnh hơn cả nhà vua; thấy họ sống cực kì xa xỉ, bốc lột bần dân để đào ao hồ, xây đình tạ, nuôi những đoàn ca nhạc, những bầy mĩ nữ và những tàu ngựa (Quí nghĩa 14), mỗi lần tống táng thì như dọn cả một lâu đài tới huyệt, chôn theo biết bao bảo vật (Tiết táng)… nên mạnh dạn đả kích chính sách “thân thân” và lối dùng người thiếu khả năng của bọn vua chúa thời ông.
Thiên Thượng hiền trung, ông bảo:
“Nay bậc vương công đại nhân, có một bộ áo không may cắt lấy được, phải nhờ một thợ may giỏi; có con bò con dê không mổ lấy được, phải nhờ người đồ tể giỏi; để làm hai việc đó, họ đều theo chính sách trọng người hiền. Đến cái việc nước nhà loạn lạc, xã tắc lâm nguy thì lại không biết theo chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi để sửa trị, mà dùng kẻ thân thích, cố cựu, cùng kẻ giàu sang[3] [tức hạng quí tộc], mặt mũi tốt đẹp[4]. Bọn thân thích, cố cựu, giàu sang, mặt mũi tốt đẹp được dùng đó, nhất định là có trí tuệ cả không? Cho họ trị nước, tức là sai bọn ngu dốt trị nước, như vậy nước loạn là điều có thể biết chắc được rồi.
Bọn vương công đại nhân vì yêu dung nhan một người nào đó mà dùng, yêu mà không xét khả năng của họ ra sao. Họ không cai trị nổi một trăm người mà cho làm một chức quan cai trị một ngàn người, không cai trị nổi một ngàn người mà cho làm một chức quan cai trị một vạn người, như vậy là chức quan lớn gấp mười khả năng. Phép trị dân, ngày nào cũng phải thi hành, không thể ngưng được, mà khả năng cai trị của kẻ đó không thể trong một ngày tăng lên gấp mười được […] thì họ chỉ trị được một phần mà bỏ qua chín phần kia; tuy suốt ngày đêm họ thi hành chức vụ, kết quả cũng như không thi hành. Nguyên do tại đâu? Tại các vương công đại nhân không hiểu rõ chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi”.
(Kim vương công đại nhân, hữu nhất y thường bất năng chế dã, tất tạ lương công; hữu nhất ngưu dương bất năng sát dã, tất tạ lương tể. Cố đương nhược chi nhị vật giả, vương công đại nhân giai tri dĩ thượng hiền sử năng vi chính dã. Đãi chí kì quốc gia chi loạn, xã tắc chi nguy, tắc bất tri sử thượng hiền năng dĩ trị chi, thân thích tắc sử chi, vô cố, phú quí, diện mục giảo (cảo) hảo tắc sử chi. Phù vô cố phú quí, diện mục giảo hảo tắc sử chi, khởi tất trí thả hữu tuệ tai? Nhược sử chi trị quốc gia, tắc thử sử bất trí tuệ giả trị quốc gia dã, quốc gia chí loạn. Kí khả đắc nhi tri dĩ.
Thả phù vương công đại nhân hữu sở ái kì sắc nhi sử, kì tâm bất sát kì trí nhi dữ kì ái, thị cố bất năng trị bách nhân giả, sử xử hồ thiên nhân chi quan, bất năng trị thiên nhân giả, sử xử hồ vạn dân chi quan, tắc thử quan thập bội dã. Phù trị chi pháp tương nhật chí giả dã, nhật dĩ trị chi, nhật bất thập tu; trí dĩ trị chi, trí bất thập ích […], tắc thử trị nhất nhi khí kì cửu hĩ. Tuy nhật dạ tương tiếp dĩ trị nhược quan, quan do nhược bất trị. Thử cố hà dã? Tắc vương công đại nhân bất minh hồ dĩ thượng hiền sử năng vi chính dã[5]).
Cái hại không phải chỉ là việc nước mười phần chỉ làm được một, tất phải bê trễ, hư hỏng; mà còn khiến cho dân chúng chán nản, hoá biếng nhác vì nhà cầm quyền thưởng không nhằm vào người hiền, phạt không nhằm vào kẻ bạo, vì:
“Bậc sĩ quân tử trong thiên hạ, ai cũng muốn giàu sang mà ghét nghèo hèn, nhưng làm thế nào mà được giàu sang và tránh nghèo hèn đây? Đáp: Không gì bằng làm cốt nhục của các vương công đại nhân (…) Nếu không phân biệt đức hạnh thì dù [hiền như] vua Thang, vua Vũ, vua Văn, vua Võ cũng không được lợi gì (không được thưởng), mà kẻ cốt nhục của các vương công đại nhân dù [tàn bạo] như Kiệt, Trụ cũng không bị hại gì (không bị phạt). Cho nên thưởng không nhằm vào người hiền, phạt không nhằm vào vào kẻ tàn bạo, người được thưởng đã không có cớ, kẻ bị phạt cũng không có tội, như vậy khiến cho trăm họ đều nản lòng, biếng nhác, chán nản làm điều thiện, xuôi tay xuôi chân, không giúp đỡ nhau, bỏ thối nát của thừa thải mà không chia cho nhau, giấu giếm điều hay mà không dạy bảo lẫn nhau. Hậu quả là kẻ đói không được ăn, kẻ rét không được mặc, xã hội loạn mà không trị được” (Thượng hiền hạ).
Chúng ta nhận thấy Mặc gia đả trước hết bọn thân thích (cha anh, họ hàng) của nhà vua, rồi tới bọn cố cựu (người quen lâu), bọn bất tài được vua yêu dấu tức chính những bọn Hàn Phi sau này đả trong các thiên Bát Kinh và Bát gian.
Mặc về điểm đó đã tiến bộ hơn Khổng tử, hơn cả Mạnh tử nữa – Vì Mạnh tuy trọng đức hơn tước nhưng vẫn còn cho tước là đáng trọng. Thiên Công tôn Sửu hạ, bài 2, Mạnh tử bảo:
“Thiên hạ đều trọng ba cái này: tước vị, tuổi tác và đạo đức. Tại triều đình tước vị được quí nhất, ở làng xóm tuổi tác được trọng nhất, còn về việc giúp đời dạy dân thì đạo đức được trọng nhất” (Thiên hạ hữu đạt tôn tam: tước nhất, xỉ nhất, đức nhất. Triều đình mạc như tước, hương đảng mạc mạc như xỉ, trưởng dân mạc như đức).
Cơ hồ ông vẫn nhận rằng quyền điều khiển việc nước phải để cho bọn quí tộc ở triều đình; người hiền không nên tranh địa vị đó của họ mà nên giữ một nhiệm vụ cao quí hơn: làm thầy hoặc cố vấn của vua, và giáo hoá dân chúng.
Quan niệm của Mặc tử khác: người hiền phải được trị nước, bọn quí tộc mà ngu thì phải lui về; và trọng người hiền là việc căn bản của chính trị. (Thượng hiền vi chính chi bản: 尚賢為政之本 – Thượng hiền trung) vì “người sang và sáng suốt cai trị kẻ ngu và hèn thì nước trị; người ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì nước loạn” (tự quí thả trí giả, vi chính hồ ngu thả tiện giả tắc trị; tự ngu thả tiện giả, vi chính hồ quí thả trí giả tắc loạn[6] - Thượng hiền trung). Chữ “quí” (sang) trong câu đó không trỏ bọn quí tộc mà trỏ hạng người do tài năng được đề cử lên một chức cao, coi đoạn dưới, độc giả sẽ rõ.
Cách xét người hiền của Khổng, Mạnh tuy cực kì thân trọng nhưng không thực tiễn bằng cách của Mặc.
Khổng tử bảo: “Dân chúng đều ưa người nào thì ta phải xét, chớ vội cho người đó là hiền” (chúng hiếu chi tất sát yên)[7]. Theo ông, một người nào trong làng ai cũng ưa, chưa nhất định là tốt, chỉ người nào được những người thiện trong làng đều ưa, bị những những người bất thiện đều ghét thì mới thực là hiền.
Mạnh tử cẩn thận hơn nữa:
“Làm vua một nước mà muốn đặt người hiền ở dưới thấp lên cao thì phải cẩn thận lắm, như bị quốc dân bắt buộc vậy. Muốn dùng một người nào mà hỏi tả hữu bên mình, ai cũng bảo người đó hiền, như vậy chưa được, hỏi các đại phu, các đại phu đều bảo người đó hiền, như vậy vẫn chưa được; khi hết thảy quốc dân đều bảo người đó hiền, lúc đó mới xét, xét xong mà thấy người đó quả là hiền thì mới đùng”.
Mạnh lí tưởng quá, không thực tế, Mặc tử chỉ khuyên:
Khi lựa người thì “không vị tình thân thích, nể nang kẻ giàu sang, nuông chiều kẻ có dung nhan đẹp” (bất đảng phụ huynh, bất thiên phú quí, bất bế nhan sắc), lựa rồi “mới nghe người đó bàn, xem thành tích hành vi người đó xét khả năng mà thân trọng giao cho chức quan (…), thấy người đó trị nước (như tể tướng) được thì cho trị nước, làm trưởng quan (đứng đầu một nha) được thì cho làm trưởng quan, trị một ấp được thì cho làm trưởng ấp” (nhiên hậu[8] thính kì ngôn, tích kì hành, sát kì năng nhi thận dữ quan (…), khả sử trị quốc giả, sử trị quốc; khả sử trưởng quan giả, sử trưởng quan; khả sử trị ấp giả, sử trị ấp)[9] – (Thượng hiền trung).
Xét lời nói, xét ý chí cũng chưa đủ, phải xét hành động, công việc nữa. Mặc luôn luôn chủ trương: “năng ngôn” thì phải “năng hành”. Cho nên thiên Lỗ vấn, bài 10, khi vua Lỗ hỏi ông: có hai người con, một người hiếu học, một người thích chia sẻ của cải cho người khác, thì nên lựa người nào làm thái tử, ông đáp:
- Chưa biết được. Có thể hai người đó vì mong được thưởng hoặc được tiếng khen mà làm ra như vậy. Người đi câu dùng mồi không phải để tặng cá, người dùng thuốc chuột không phải yêu chuột. Phải xét cả ý chí cùng công việc rồi mới biết được.
Sau này Hàn Phi theo đúng lời khuyên của Mặc, trong các thiên Dương giá, Bát Kinh, Hiển học, chỉ rõ cách “thính ngôn” (phương pháp nghe), “tham nghiệm” (phương pháp khảo sát) ra sao rồi mới giao chức cho một người mình muốn dùng[10].
Sở dĩ cách xét người hiền của Mặc khác của Nho là vì quan niệm về người hiền hai phái khác nhau.
Nho chú trọng đến đạo đức trước hết: người hiền phải là người đức độ rất cao, đáng làm thầy cho cả nước, từ vua trở xuống, làm gương cho muôn thuở, như Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ hay Chu công; vì vậy mà có công rất lớn đối với dân như Quản Trọng giúp Tề Hoàn công làm bá chư hầu, bình định được thiên hạ, dẹp rợ Hồ phương Bắc, cứu nền văn minh Trung Quốc, Khổng tử khen là người nhân chứ không gọi là hiền (Luận ngữ - Hiến vấn - 17, 18); Mạnh tử hẹp hòi hơn, chê tài đức chưa được cao, chỉ giúp Hoàn công lập được nghiệp bá chứ không thống nhất được thiên hạ, sự nghiệp đó Mạnh không thèm làm (Công tôn Sửu hạ - 2).
Mặc chú trọng đến tài năng, hễ mẫn cán làm nổi chức được chức vụ, dù là một trưởng quan hay trưởng ấp, cũng gọi được là người hiền.
Đây là những mẫu người hiền của ông:
“Người hiền trị nước, sáng sớm vô triều, chiều muộn mới về, xử án, coi việc hành chính; nhờ vậy mà nước trị, hình pháp thi hành đúng. Người hiền làm trưởng quan thì đêm ngủ sớm, sáng dậy sớm, thu góp thuế quan, thuế chợ, và những nguồn lợi núi rừng, chằm, cầu, để cho kho lẫm được đầy; nhờ vậy mà kho lẫm đầy, tài nguyên không mất mát. Người hiền trị ấp thì sáng đi tối về, cày cấy, trồng cây, thu lúa đậu; nhờ vậy mà lúa đậu được nhiều, dân đủ ăn. Cho nên nước mà trị thì hình pháp thi hành đúng, kho lẫm đầy mà vạn dân giàu có. Bề trên (vua) có lúa gạo tinh khiết để cất rượu, nấu xôi mà tế trời và quỉ thần; ngoài có da, lụa để giao tiếp với chư hầu bốn bên; trong nuôi được vạn dân, dân được ăn khi đói, nghỉ ngơi khi mệt mà hoài vọng người hiền trong thiên hạ” – Thượng hiền trung.
Nhiệm vụ của người hiền chỉ có vậy: siêng năng, làm hết chức vụ; không phải làm gương cho dân, giáo hoá dân. Như vậy đủ cho dân hoài vọng rồi.
Dĩ nhiên, một người như Mặc tử tư cách và đạo đức rất cao, lẽ nào coi thường đạo đức. Thượng hiền thượng, ông bảo: “Kẽ sĩ hiền lương phải bồi dưỡng đức hạnh, luyện khoa ăn nói, học đạo thuật cho rộng”. Ông cũng khuyên người ta phải tu thân. Trong Quí nghĩa, bài 11, ông bảo: “Người quân tử ở đời muốn thành nghĩa mà có ai giúp họ sửa mình thì họ giận, có khác gì muốn xây bức tường, có người lại tiếp thì giận, há chẳng ngược đạo ư?”
Rồi trong Công Mạnh, bài 24, ông mắng Cáo tử: “Anh không trị nổi cái thân anh, thì làm sao trị nước? Anh tạm đừng nói đến việc trị nước nữa, thân anh loạn rồi”.
Ông khen một môn sinh, Cao Thạch tử là biết bỏ lộc mà theo nghĩa (Canh Trụ, 13); mắng một môn sinh khác ham bổng lộc (Quí Nghĩa, 15).
Ông khuyên bề tôi phải biết can gián vua (Công Mạnh, 1). Trung thần không phải là hạng bề tôi vua “bảo cúi thì cúi, bảo ngửa thì ngửa, không khác gì cái bóng; không gọi thì im lặng, gọi thì thưa, không khác gì tiếng vang”, mà phải biết trình bày mưu hay với vua, sửa chỗ bậy của vua, dâng vua điều thiện (Lỗ vấn, 9).
Nhưng có lẽ ông cho rằng những đức đó, tất nhiên bề tôi nào cũng phải có; nên ông chỉ nhấn mạnh vào khả năng giúp nước, giúp dân, vì có làm lợi được cho nước, cho dân thì mới là thi hành được đạo kiêm ái.
Khi đã lựa được người hiền rồi, muốn dùng họ thì phải theo ba qui tắc căn bản dưới đây:
“Tước vị không cao thì dân không kính, bổng lộc không hậu thì dân không tin[11], chính lệnh không quyết đoán thì dân không sợ (…) Phong cho tước cao, ban cho lộc hậu, giao cho công việc, quyết đoán ra lệnh, đâu phải là vì bề tôi mà vì muốn cho được việc (…) Người hiền được minh quân mà thờ thì đem hết sức mình ra làm việc cho vua, suốt đời không mỏi”.
(Tước vị bất cao tắc dân bất kính dã, súc lộc bất hậu tắc dân bất tín dã, chính lệnh bất đoán tắc dân bất uý dã (…) Cao dữ chi tước, trọng dữ chi lộc, nhiệm chi dĩ sự, đoán dữ chi lệnh, phù khởi vị kì thần tứ tai? Dục kì sự chi thành dã (…) Hiền nhân duy vô đắc minh quân nhi sự chi, kiệt tứ chi chi lực, dĩ nhiệm quân chi sự, chung thân bất quyện[12] – Thượng hiền trung).
Phải theo đúng ba nguyên tắc đó, nếu chỉ cho tước cao mà bổng lộc không xứng đáng tước, hoặc nếu vua không cho người hiền quyết đoán mà ôm hết việc nước vào trong tay mình thì là không thực tâm, người hiền sẽ không chịu giúp, mà chỉ những kẻ xấu là bu tới chung quanh vua, việc nước sẽ hỏng, xã tắc sẽ nghiêng đổ như ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ[13]. Không những vậy, dân cũng sẽ không hiếu kính cha mẹ, tôn trọng hàng xóm, dâm loạn vì thấy kẻ hiền không được thưởng, kẻ ác không bị phạt.
Mặc tử lại dẫn sách cổ (Thang thệ) và hành vi của vua Nghiêu, vua Thang… để chứng thực rằng đó chính sách của các thánh vương đời xưa, và là phép của trời: “Chỉ có trời là không kể tới giàu sang, nghèo hèn, thân sơ, cứ người nào hiền thì đề cử mà tôn trọng, kẻ nào xấu thì ức chế, bỏ đi”.
(Duy thiên diệc[14] bất biện bần phú, quí tiện, viễn nhĩ thân sơ, hiền giả cử nhi thượng chi, bất tiếu giả ức nhi phế chi[15] – Thượng hiền trung).
Thượng hiền thượng, Mặc tử còn nói rõ hơn nữa:
“Thánh vương đời xưa trị nước, bảo: “Không theo điều nghĩa thì không được giàu, không theo điều nghĩa thì không được sang, không theo điều nghĩa thì không là người thân [của vua], không theo điều nghĩa thì không được gần [vua]”.
(Bất nghĩa bất phú, bất nghĩa bất quí, bất nghĩa bất thân, bất nghĩa bất cận)[16].
Như vậy những kẻ trước kia trông cậy vào tình thân cận với nhà vua để được tước cao, bổng hậu, nay phải nghĩ lại mà làm theo điều nghĩa hết; tại triều đình như vậy mà ở khắp trong nước, từ quan tới dân đều như vậy: dù là nông dân, thợ thuyền, con buôn, hễ có tài năng là được đề cử, ban cho tước cao, lộc hậu, giao cho chức vụ, ai có công thì được thưởng, ai không có công thì hạ xuống. Cho nên người làm quan không nhất định được sang hoài, mà kẻ thường dân cũng không nhất định bị hèn cho tới suốt đời:
(Quan vô thường quí, nhi dân vô chung tiện, hữu năng tắc cử chi, vô năng tắc hạ chi)[17].
Chủ trương đó thật cách mạng và can đảm. Trước Mặc có thể có người đã nghĩ tới nhưng không ai nói ra. Ông đánh thẳng vào giai cấp quí tộc, tranh đấu cho giai cấp bình dân được bình đẳng vối quí tộc trong việc điều khiển việc nước.
Khổng tử mới chỉ mở tư thục đào tạo một số bình dân, chuẩn bị cho họ lãnh nhiệm vụ trong chính quyền, mới chỉ có ý sửa lại chế độ thế tập; Mặc mới đòi hỏi lật đổ chế độ đó, đáng được coi là ông tổ tinh thần của Pháp gia. Ngô Khỏi sau này làm tướng quốc nước Sở, khuyên vua Sở Điệu vương ra lệnh cứ sau ba đời thì thu hết tước lộc của con cháu các vị chư hầu được phong đất, như vậy mới chỉ là thi hành được một phần chủ trương của ông. Phải tới Thương Ưởng mới thuyết phục được vua Tần Hiếu công ra lệnh phải có công mới được phong chức, quí tộc mà không có chiến công thì cũng bị hạ xuống làm thường dân. Cuối đời Chiến Quốc, Tuân Tử cũng không nói gì hơn Mặc tử. Câu: “Dù là con cháu vương công đại phu mà không thuộc lễ nghĩa thì cũng cho xuống làm tướng sĩ đại phu” của Tuân Tử chỉ là diễn lại tôn chỉ “quan vô thường quí, dân vô chung tiện” của Mặc.
Bọn quí tộc oán chính sách đó lắm, chặt chân tay Ngô Khởi ngay khi Điệu vương chết và xé thây Thương Ưởng khi Huệ vương lên nối ngôi Hiếu công; khiến Hàn Phi phải than thở cho hai pháp gia đó trong thiên Hoà thị.
Tuân Tử chỉ nói suông, không cầm quyền nên được yên thân[18]. Còn Mặc tử, nếu nhận lời làm quân sư hay tướng quốc cho vua Việt (Lỗ vấn 14) mà đưa chính sách “quan vô thường quí” đó ra thì chắc cũng toi mạng rồi. Các quí tộc Trung Hoa thời Chiến Quốc có tinh thần trọng tự do ngôn luận, cho các “tiên sinh”, tức các học giả, triết gia, tha hồ “bàn ngang luận càn”, nhờ vậy mà triết học trong mấy trăm năm đó mới nở rộ như hoa mùa xuân, nhưng động đến quyền lợi của họ thì phải coi chừng.
Tuy muốn xoá giai cấp trong chính quyền, Mặc tử vẫn trọng sự tôn ti của nhà Nho trong xã hội, nên đầu thiên Thượng hiền trung mới bảo: “Người sang mà sáng suốt cai trị kẻ ngu và hèn thì nước trị; người ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì nước loạn”. Ý nghĩa câu đó không khác ý nghĩa trong câu này của Mạnh tử: “Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân. Trị ư nhân giả tự nhân, trị nhân giả tự ư nhân”[19].
Người làm việc bằng tâm trí thì cai trị dân chúng, kẻ làm việc bằng tay chân thì bị trị. Kẻ bị trị (tức dân chúng) có phận sự phụng dưỡng người bề trên, người cai trị được dân chúng phụng dưỡng. (Đằng Văn công thượng, 4).
Nghĩa là vẫn có sự phân công, chứ không như Hứa Hành, đòi vua phải cày ruộng lấy mà ăn như dân. Chưa thể bình đẳng tới mức đó được. Mặc tổ chức xã hội cũng như Khổng, trên có thiên tử, chư hầu rồi tới khanh, đại phu, sĩ, dân thường; trên ra lệnh, dưới phải triệt để thi hành, thì làm gì có chuyện vua tôi cùng vác cày, dắt trâu ra đồng được.
Về điểm đó, Mặc “bội Chu chứ không bội Nho”, cho nên không hề đả chính sách dùng người hiền của Nho. Ông chỉ sửa đổi đạo Nho thôi, “bình dân hoá nó” – lời của Tiêu Công quyền – mở đường cho Pháp gia sau này trong cách lựa người và dùng người, và đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị của Trung Hoa.
Chú thích:
[1] Thân thân: bản nguồn chép là “thân nhân”, nguyên văn chữ Hán 親親. (Goldfish).
[2]凡為天下國家有九經,曰:修身也,尊賢也,親親也...修身則道立,尊賢則不惑,親親則諸父,昆弟不怨
[3] Nguyên văn là /無故/, có sách dịch liều là vô cớ mà giàu sang tức bọn quyền thần bất tài như Tử Chi, Tử Đô, Dương Hổ. Đường Kính Cảo chú giài là vô cố = quen thuộc cố cựu. [Các chữ đặt trong dấu /… / là do tôi chép thêm. Về sau cũng vậy, nhưng không ghi thêm chú thích. (Goldfish)].
[4] Như chàng Di Tử Hà, dùng nhan sắc đẹp đẽ, được Vệ Linh Công yêu hơn cả hoàng hậu và các phi tần.
[5]今王公大人,有一衣裳不能制也,必藉良工;有一牛羊不能殺也,必藉良宰。故當若之二物者,王公大人未皆知以尚賢使能為政也。逮至其國家之亂,社稷之危,則不知使尚賢能以治之,親戚則使之,無故,富貴、面目佼好則使之。夫無故富貴、面目佼好則使之,豈必智且有慧哉!若使之治國家,則此使不智慧者治國家也,國家之亂。既可得而知已。
且夫王公大人有所愛其色而使,其心不察其知而與其愛。是故不能治百人者,使處乎千人之官,不能治千人者,使處乎萬人之官。此其故何也?曰處若官者爵高而祿厚,故愛其色而使之焉。夫不能治千人者,使處乎萬人之官,則此官什倍也。夫治之法將日至者也,日以治之,日不什脩,知以治之,知不什益[...]而予官什倍,則此治一而棄其九矣。雖日夜相接以治若官,官猶若不治且夫王公大人有所愛其色而使,其心不察其知而與其愛。是故不能治百人者,使處乎千人之官,不能治千人者,使處乎萬人之官。此其故何也?曰處若官者爵高而祿厚,故愛其色而使之焉。夫不能治千人者,使處乎萬人之官,則此官什倍也。夫治之法將日至者也,日以治之,日不什脩,知以治之,知不什益,而予官什倍,則此治一而棄其九矣。雖日夜相接以治若官,官猶若不治。此其故何也?則王公大人不明乎以尚賢使能為政也。
[6]自貴且智者,為政乎愚且賤者,則治;自愚 賤者,為政乎貴且智者,則亂。
[7] Luận ngữ, Vệ Linh công 27. (Goldfish).
[8] Sau hai chữ “nhiên hậu”, trong Phần chữ Hán (và các bản trên mạng) còn có hai chữ 聖人 (thánh vương). (Goldfish).
[9]然後聖人聽其言,迹其行,察其所能而慎予官,此謂事能 (...)可使治國者,使治國;可使長官者,使長官;可使治邑者,使治邑。
[10] Coi cuốn Hàn Phi tử của chúng tôi.
[11] Câu “bổng lộc… dân không tin” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[12]爵位不高則民不敬也;蓄祿不厚則民不信也;政令不斷則民不畏也(...)高予之爵,重予之祿,任之以事,斷予之令。夫豈為其臣賜哉?欲其事之成也(...)賢人唯毋得明君而事之,竭四肢之力,以任君之事,終身不倦。
[13] Lệ vương và U vương là hai hôn quân cuối đời Tây Chu, cho nên coi như một đời (đời Chu).
[14] Phần chữ Hán chép thiếu ba chữ “Duy thiên diệc” (xem chú thích ở dưới). Ba chữ này, các bản chữ Hán trên mạng chép là: “Tuy thiên diệc” 雖天亦. Theo Thiều Chửu thì chữ “tuy” 雖 cùng nghĩa với chữ “thôi” 推 hay “duy” 惟. (Goldfish).
[15]不辯貧富,貴賤,遠邇,親疏,賢者舉而尚之,不肖者抑而廢之。
[16]不義不富,不義不貴,不義不親,不義不近。(theo http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90/%E5%B0%9A%E8%B3%A2%E4%B8%8A). (Goldfish)]
[17]官無常貴,而民無終賤。有能則舉之,無能則下之。
[18] Có lẽ cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói rằng Tuân Tử không làm “tướng quốc hay quân sư” vì trong chương VI, phần III, cụ bảo: “Tuân Tử, nhờ tình tri kỉ của Xuân Thân Quân mà làm một chức huyện lệnh ở Lan Lăng (Sở)”. (Goldfish).
[19] Đoạn này, bản nguồn chép là (sai 2 chữ: dân, thân): “Lao tâm giả trị dân…, trị thân giả tự ư nhân”, tôi sửa lại theo cuốn Mạnh tử của cụ Nguyễn Hiến Lê và theo nguyên văn chữ Hán chép trong cuốn Mặc tử: 勞心者治人, 勞力者治於人; 治於人者食人, 治人者食於人. Các bản chữ Hán trên mạng cũng chép như thế. Như vậy, cả hai chữ 食 (thực) trong bài Đằng Vằn công thượng 41 này, cụ Nguyễn Hiến Lê đều đọc là “tự”. Theo Thiều Chửu thì 食 (thực) còn đọc là “tự”, cùng nghĩa với “tự” 飼 (cho ăn). (Goldfish)].