CHƯƠNG IX MẠT SÁT THÓI XA XỈ
Cuối thời Xuân Thu, bình dân Trung Hoa bị hai cái hoạ lớn nhất: vì chiến tranh mà chết chóc, không làm ăn gì được, đói rét, vợ chồng cha con xa nhau; vì thói xa xỉ của bọn quí tộc mà sưu cao thuế nặng, bỏ công việc cày cấy, canh cửi để làm xâu, cung cấp vật lạ, xây cất cung thất cho nhà cầm quyền.
Sách Tả truyện đã chép nhiều vụ xa xỉ đó, như vua nước Tần xây ly cung ở Đồng Đê (?). Vua nước Sở cất đài Chương Hoa, Trịnh Bá đào hầm xây cung thất ở dưới đất để đêm đêm uống rượu, Chu Cảnh công đúc chuông Vô Xạ, Vệ Ý công nuôi bầy chim hạt, ban cho tước đại phu, cho “ngồi” cùng xe với mình. Luận ngữ chép vua Tề tặng vua Ai công nước Lỗ một bầy nữ nhạc khiến Ai công mê thanh sắc mà bỏ việc nước, Khổng tử buồn mà bỏ đi. Rất có thể cảnh bi thảm Mạnh tử kể trong Lương Huệ vương thượng: “bếp [của vua] có thịt béo, chuồng có ngựa mập, mà dân có sắc đói, đồng ruộng có người chết đói”[1] đã xảy ra thời Mặc tử rồi, mà lời trong thiên Từ quá: “Vua chúa ngày nay tàn bạo cướp đoạt cái ăn của dân”[2] là lời của Mặc tử. Lời than thở của dân chúng trong thời Chiến Quốc tất ai oán hơn thời Xuân Thu và đầu đời Chu nhiều, mà văn học Trung Hoa không lưu lại được chút gì cả. Không có người thu thập hay tại lửa Tần đã đốt hết.
Khi bọn vua chúa sống, dân chúng phải chịu đói rét để thoả mãn thói xa xỉ, dâm dật của họ; mà khi chết rồi, họ còn làm cho dân chúng điêu đứng không kém vì đắp đường tới huyệt, đắp nấm “cao ngang gò núi” cho họ, tốn hao sức lực, tiền của không biết bao nhiêu mà kể.
Để trừ cái hoạ thứ nhất – chiến tranh – Mặc tử đưa ra thuyết “phi công”; để trừ cái hoạ thứ hai này – thói xa xỉ - mà ông cho là lỗi của nhà Nho (Công Mạnh 15 đã dẫn ở trên), ông hô hào phải tiết kiệm trong việc tiêu dùng (thiên Tiết dụng), trong việc ma chay (thiên Tiết táng) và bỏ cả ca nhạc đi nữa (thiên Phi nhạc).
A. HỄ ĐỦ DÙNG THÌ THÔI
(Tiết dụng)
Nhan đề là Tiết dụng, nhưng nội dung là chống sự xa xỉ vô ích (chứ không khuyên tiêu dùng ít đi) mà sự xa xỉ ở đây là của bọn quí tộc, dĩ nhiên, vì dân cần đủ ăn đủ mặc còn không được, lấy đâu mà xa xỉ.
Khi Khổng tử tới nước Vệ, khen dân nước đó đông đúc, một môn đệ là Nhiễm Hữu đánh xe cho ông, hỏi: “Dân đã đông rồi, nhà cầm quyền phải làm gì nữa?”, ông đáp: “Phải làm cho họ giàu có”. (Tử thích Vệ, Nhiễm Hữu bộc. Tử viết: “Thứ hĩ tai! Nhiễm Hữu viết: “Kí thứ hĩ, hựu hà gia yên?”. Viết: “Phú chi”[3] – Tử Lộ, bài 9).
Làm cho dân giàu và đông (phú, thứ) là hai mục đích của tất cả các nhà cầm quyền đông, tây thời xưa điều nhắm. Mãi tới đầu thế kỉ của chúng ta, nhất là từ sau thế chiến thứ nhì, người ta mới thấy sự bộc phát của dân số làm chậm sự phát triển của kinh tế (nghĩa là “thứ” làm hại cho “phú”) nên bỏ mục đích thứ hai đi.
Khoảng hai chục năm nay, sau Nhật Bản và Ấn Độ, Trung Hoa đã hạn chế sinh sản, nhưng chưa quyết liệt[4]. Thời Tiên Tần, ông vua nào của Trung Hoa cũng mong cho nước được mạnh – cho nên ngay cả Hàn Phi, chính trị gia đầu tiên nhận thấy số dân tăng theo cấp số nhân, mà cũng không khuyên giảm dân số mà chỉ khuyên gia tăng sản xuất thực phẩm thôi. (Coi Hàn Phi tử của chúng tôi).
Mặc tử cũng chấp nhận qui tắc “phú thứ” đó của Khổng, nhưng ông cho rằng muốn cho “phú” thì trước hết phải bỏ thói xa xỉ, lãng phí đã.
Đầu thiên Tiết táng hạ, ông bảo:
“Người có đức nhân mưu tính cho thiên hạ không phải khác gì người con có hiếu lo cho cha mẹ. Người con có hiếu tính cho cha mẹ ra sao? Đáp: Cha mẹ nghèo thì làm cho cha mẹ giàu lên, nhân dân ít thì làm cho nhân dân nhiều lên (…) Người nhân mưu tính cho thiên hạ cũng vậy. Nghĩa là thiên hạ nghèo thì làm cho thiên hạ giàu lên, nhân dân ít thì làm cho nhiều lên…” (Nhân giả chi vị thiên hạ đạc dã, tỉ[5] chi vô dĩ dị hồ hiếu tử chi vị thân đạc dã. Kim hiếu tử chi vị thân đạc dã, tương nại hà tai? Viết: Thân bần tắc tòng sự hồ phú chi, nhân dân quả, tắc tòng sự chúng chi (…) Tuy nhân giả chi vị thiên hạ đạc, diệc do thử dã. Viết: Thiên hạ bần tắc tòng sự hồ phú chi; nhân dân quả, tắc tòng sự hồ chúng chi…)[6].
Con mưu tính cho cha mẹ mà Mặc bảo: “nhân dân ít thì làm sao cho nhân dân nhiều lên”, nghe không xuôi chút nào cả: nhân dân của cha mẹ là ai? Bỏ qua sự vụng về đó đi, chúng ta chỉ cần nhớ rằng Mặc tử cũng chủ trương: “phú chi, chúng chi” – mà “chúng” của Mặc tử tức là “thứ” của Khổng. Thêm điều này cũng đáng để ý nữa: Khổng cho nhà cầm quyền là cha mẹ của dân; Mặc có lẽ là người đầu tiên dám bảo: nhà cầm quyền phải lo cho dân như con lo cho cha mẹ; nghĩa là ngược lại, dân là cha mẹ của nhà cầm quyền.
Chúng ta hãy khoan xét về vấn đề “chúng chi”, hãy xét về vấn đề “phú chi” đã. Đầu thiên Tiết dụng thượng, Mặc tử khuyên cứ bỏ những cái vô dụng, phí tổn vô ích đi là đủ cho cái lợi của dân tăng lên gấp hai rồi:
“Thánh nhân cai trị một nước thì cái lợi của nước đó có thể tăng lên gấp hai, rộng ra, nếu cai trị cả thiên hạ thì cái lợi của thiên hạ có thể tăng lên gấp hai. Tăng lên gấp hai không phải là vì đi chiếm đất ở ngoài, mà vì bỏ những cái vô dụng, phí tổn vô ích trong nước đi, như vậy đủ tăng lên gấp hai rồi. Thánh nhân trị nước, khi ra lệnh làm một việc gì, khiến dân chúng dùng của cải, thì xét xem việc đó có ích không rồi mới làm, vì vậy mà không phí của cải, không mệt sức dân, lại lợi được nhiều”.
(Thánh nhân vi chính nhất quốc, nhất quốc khả bội dã, đại chi vi chính thiên hạ, thiên hạ khả bội dã. Kì bội chi, phi ngoại thủ địa dã; nhân kì quốc gia; khứ kì vô dụng chi phí, túc dĩ bội chi. Thánh vương vi chính kì phát lệnh hưng sự, sử dân dụng tài dã, vô bất gia dụng nhi vi giả, thị cố dụng tài bất phí, dân đắc[7] bất lao, kì hưng lợi đa hĩ)[8].
Nguyên tắc là cái gì không có lợi cho dân thì bỏ đi, mà theo phép “tiết dụng” của thánh nhân đời xưa. Phép ấy như sau:
“Những thợ làm mọi nghề trong thiên hạ: nghề đóng xe, làm đồ da, đồ gốm, đồ rèn, đồ mộc, tuỳ tài năng của mình; bảo “hễ cung cấp đủ đồ dùng trong thiên hạ rồi thì thôi, cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm”.
Phép ăn uống cũng vậy:
“Đủ để no bụng, nối hơi, mạnh tay chân, sáng tai mắt thì thôi, không rán điều hoà đến cùng cực ngũ vị và mùi thơm, không tìm kiếm những của ngon vật lạ ở xa”.
Mặc dẫn chứng vua Nghiêu làm chủ cả thiên hạ, “từ chỗ mặt trời mọc đến chỗ mặt trời lặn”, mà trong một bữa không dùng hai thứ lúa, không dùng hai món canh và xào, ăn cơm trong bát đàn, húp canh trong tô đàn, uống rượu trong đấu, vì cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm.
Phép mặc thì “mùa đông bận áo lụa xanh, lụa điều, nhẹ mà ấm; mùa hè bận áo vải nhỏ, vải to nhẹ cho mát”, thế thôi. Cái gì không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm.
Để chống loài chim dữ thú dữ hiếp người hại dân, cần có khí giới, nhưng chỉ đủ tiện lợi thì thôi. Chẳng hạn như:
“Cây kiếm, đâm thì thủng, chém thì đứt, đánh một bên thì không gẫy, đó là cái lợi của cây kiếm; dùng da tê làm áo giáp thì nhẹ và tiện lợi, cử động, co duỗi dễ dàng như ý muốn, đó là cái lợi của áo giáp”.
Xe thuyền cũng vậy, không nên trang sức:
“Dùng xe để chở nặng đi xa, ngồi được yên, kéo đi cũng tiện; yên thì không hại cho thân thể, tiện thì mau tới, đó là cái lợi của xe.
“Các thánh vương đời xưa thấy không qua được sông lớn và khe rộng, cho nên chế tạo thuyền và mái chèo cho tiện, đủ để chở người thì thôi, dù chở các vị tước cao chức trọng như tam công, chư hầu thì cũng không thay đổi thuyền vào chèo, người đưa đò cũng không trang sức, đó là cái lợi của thuyền”.
Sau cùng là phép xây cất nhà cửa:
“[Tường] bốn bên có thể ngừa gió và lạnh, [nóc] ở trên có thể ngừa tuyết sương, mưa móc; ở trong sáng và sạch có thể làm chỗ thờ cúng được, vách đủ để ngăn các phòng đàn ông, đàn bà, thế thôi. Cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm”.
(Phàm thiên hạ quần bách công, luân, xa, quĩ, bào, đào, dã, tử tượng, sử các tòng sự kì sở năng. Viết: Phàm túc dĩ phụng cấp dân dụng tắc chỉ; chư gia phí bất gia ư dân lợi giả, thánh vương phất vi)[9]…
(Ẩm thực chi pháp, viết: Túc dĩ sung hư, kế khí, cường cổ quăng, nhĩ mục thông minh tắc chỉ; bất cực ngũ vị chi điều, phân hương chi hoà, bất trí viễn quốc trân quái dị vật).
(Y phục chi pháp, viết: Đông phục cám tưu chi y, khinh thoả noãn; hạ phục hi khích chi y, khinh thả sảnh tắc chỉ. Chư gia phí, bất gia ư lợi dân giả, thánh vương phất vi).
(Đái kiếm vi thích tắc nhập, kích tắc đoạn, bang kích nhi bất chiết, thử kiếm chi lợi dã. Giáp vi y, tắc khinh khả lợi, động tắc biến[10] thả tòng, thử giáp chi lợi dã).
(Xa vi phục trọng trí viễn, thừa chi tắc an, dẫn chi tắc lợi; an dĩ bất thương nhân, lợi dĩ tốc chí, thử xa chi lợi dã).
(Cổ giả thánh vương vi đại xuyên quảng cốc chi bất khả tế, ư thị thị lợi vi chu tiếp, túc dĩ tương chi tắc chỉ, tuy thượng giả tam công chư hầu chí, chu tiếp bất dịch[11], tân nhân nhân bất sức, thử chu chi lợi dã).
(Cung thất chi pháp, viết: Kì bàng khả dĩ ngữ phong hàn, thượng khả dĩ ngữ tuyết sương vũ lộ, kì trung quyên khiết dĩ tế tự, cung tường túc dĩ nam nữ chi biệt tắc chỉ. Chư gia phí bất gia lợi giả, thánh vương phất vi) (Tiết dụng trung).
Theo qui tắc “Chư gia phí bất gia lợi giả, thánh vương phất vi” đó thì phải bỏ hết những bảo vật như vàng ngọc châu báu, bỏ cả mĩ thuật nữa. Mặc tử chủ trương chỉ cái gì có lợi cho dân mới là quí khéo.
Thiên Canh trụ, bài 9, ông bảo:
“Ngọc họ Hoà và hạt châu của Tuỳ hầu, với chín cái vạc, các vua chư hầu đều cho là bảo vật; mà những cái đó có thể làm cho nước giàu, dân đông, việc hình chính được trị, xã tắc được yên không? – Không. Sở dĩ quí bảo vật vì nó có lợi. Mà ngọc họ Hoà, hạt châu của Tuỳ hầu và chín cái vạc không ích lợi gì cho ai, vậy chúng không phải là bảo vật”.
Thiên Lỗ vấn, bài 22, Công Thâu Ban tự cho là rất khéo vì dùng gỗ và tre chế tạo được một con chim khách bay được ba ngày mà không rớt. Mặc tử chê: “Con chim khách của ông không bằng cái chốt xe của tôi, chỉ đẽo ba tấc gỗ trong một lát mà nó đỡ được sức nặng năm thạch (tức 6000 cân). Cái gì ích lợi cho người thì gọi là khéo, không lợi là vụng”.
Truyện đó khiến chúng ta liên tưởng đến truyện Không ưa trí xảo trong Liệt tử:
“Một người nước Tống lấy ngọc chạm trổ thành một lá dó để dâng vua, ba năm mới xong. Đầu nhọn, chỗ mỏng, sống, cuống, lông, gai đều tinh vi, láng bóng, để chung với các lá dó thật, không sao phân biệt được. Người đó nhờ tài khéo mà được vua Tống khen, cấp lương bổng cho.
Liệt tử hay chuyện, bảo: “Trời đất khi sinh vạn vật mà phải mất ba năm mới thành một cái lá thì ít cây có lá lắm!”
Nhưng mục đích của Liệt tử - cũng là mục đích của Lão, Trang – khác hẳn mục đích của Mặc tử. Liệt đả trí xảo, nhất là trí mưu, là muốn con người sống giản dị chất phác, ít tham dục, mà trở về với thiên nhiên, trở về Đạo. Mặc tử thực ra không đả trí xảo, mà đả cái trí xảo nào vô ích cho dân cho nên ông chê con chim khách bằng gỗ và tre mà biết bay ba ngày không rớt của Công Thâu Ban, nhưng ông chế tạo những vũ khí xảo diệu để giữ thành cho Tống, chống sự tấn công của Sở, đặc biệt là để phá thuật dùng thang mây của Công Thâu Ban.
B. CHÔN CẤT VÀ ĐỂ TANG
(Tiết dụng, đoản tang)
Khổng tử trong thiên Thái Bá, bài 21, khen vua Vũ là “ăn uống đạm bạc, mặc những đồ xấu, ở những cung thất nhỏ (phỉ ẩm thực, ố y phục, ti cung thất). Ông lại khuyên chúng ta “trong các cuộc tế lễ, nếu xa hoa thì kiệm ước còn hơn” (Lễ dữ kì xa dã ninh kiệm – Bất dật 4). Vậy ông cũng chống thói xa xỉ như Mặc tử.
Nhưng Mặc chê Nho về việc chôn cất quá hậu hĩ, để tang quá lâu, đặt ra nhiều nghi thức phiền phức. Đọc thiên Tang lễ trong Lễ kí, chúng ta phải nhận rằng Mặc có lí một phần.
Mặc tử cho rằng tục chôn cất hậu hĩ, để tang lâu có ba cái hại lớn:
- Tốn kém quá, mà dân ốm yếu, phải bỏ công việc làm ăn, nước sẽ nghèo;
- Dân sinh sản ít quá, số dân sẽ giảm, nước sẽ yếu;
- Nước sẽ loạn, dễ bị nước ngoài xâm chiếm.
Trong Tiết táng hạ, ông bảo:
“Theo chủ trương ma chay hậu hĩ, để tang lâu mà thi hành trong nước thì hạng vương công đại thần có tang tất bảo: phải hai lớp trong quan ngoài quách, chôn cất hậu hĩ, đồ liệm phải nhiều, thiêu thùa, màu sắc phải rực rỡ, phần mộ phải lớn; hạng dân thường, nghèo hèn có người chết thì gia tài gần khánh kiệt; hạng chư hầu mà chết thì kho lẫm trống rỗng, vì phải dùng vàng bạc châu báu trang sức đầy xác chết, dây thao buộc áo quan, xe và ngựa chôn trong mộ cùng với màn trướng, vạc, trống, kỉ, thiên, hồ lạm[12], mác, kiếm, cờ, lông, răng thú, da thú, có chôn những thứ đó vào mộ rồi mới vừa ý, thành thử tống táng mà như cuộc dời chỗ ở. [Lại thêm]: thiên tử và chư hầu mà chết, người tuẫn táng [người sống chôn theo người chết] nhiều tới vài trăm, ít cũng vài chục; tướng, đại phu mà chết, kẻ tuẫn táng nhiều thì vài chục, ít cũng vài người.
“Còn phép cư tang phải ra sao? Đáp: Lúc nào cũng phải gào khóc tới khản tiếng, bận đồ sô gai, nước mắt nước mũi ròng ròng, ở trong cái chói cất tạm, nằm cỏ gối đất, lại nhịn đói, chịu lạnh, tới nỗi mặt mày phờ phạc, nước da đen sạm, tai mắt mờ, tay chân bủn rủn, không dùng được nữa. Lại bảo hạng sĩ cư tang tất phải có người đỡ mới đứng dậy được, phải chống gậy mới đi được, như vậy suốt ba năm. Nếu theo đúng lối đó thì bọn vương công đại nhân không thể sáng vô triều, chiều mới về, xử án và trị nước được; bọn sĩ đại phu không giữ năm chức vụ, coi sáu ti[13], mở mang đất đai, làm cho kho lẫm đầy được; bọn nông phu không thể sáng ra đồng, chiều về nhà, cày cấy, trồng trọt được; thợ trăm nghề không thể sửa xe thuyền, làm đồ dùng, bát đĩa được; đàn bà không thể dậy sớm thức khuya đánh sợi dệt vải được”.
Như vậy muôn dân giàu đã không được, mà muốn cho dân đông cũng không được nữa, vì:
“…vua chết để tang ba năm, cha mẹ chết để tang ba năm, vợ chết và con trai trưởng chết cũng để tang ba năm; rồi chú bác, anh em, các con thứ để tang một năm; họ hàng gần để tang năm tháng; cô, cậu, chị, cháu gọi bằng cậu, đều để tang vài tháng […]. Nếu theo đúng lời đó, thi hành đạo đó một cách nghiêm cẩn thì sẽ đói, mệt mỏi, mà trăm họ mùa đông không chịu nổi lạnh, mùa hè không chịu nổi nóng, sinh bệnh mà chết không biết bao nhiêu mà kể. [Trong thời cư tang] lại cấm vợ chồng ăn nằm với nhau; như vậy mà muốn cho dân số đông lên thì không khác gì dùng gươm tự tử mà mong được thọ”.
(Chấp hậu táng cửu tang giả ngôn dĩ vi sự quốc gia, thử tồn hồ vương công đại nhân hữu tang giả viết: Quan quách tất trùng táng mai tất hậu, y khâm tất đa, văn tú tất phiền, khâu lũng tất cự. Tôn hồ thất phu, tiện nhân tử giả, đãi kiệt gia thất. Tôn hồ chư hầu tử giả, hư khố[14] phủ, nhiên hậu kim ngọc châu ki tỉ hồ thân, luân tổ tiết ước, xa mã tàng hồ khoáng, hựu tất đa vi ốc mạc, đỉnh cổ kì thiên hồ lạm, qua, kiếm, vũ mao, xỉ, cách tẩm nhi mai chi, mãn ý. Nhược tống tòng, viết thiên tử sát tuẫn, chúng giả sổ bách, quả giả sổ thập; tướng quân, đại phu sát tuẫn, chúng giả sổ thập, quả giả sổ nhân.
Xử tang chi pháp nại hà tai? Viết: Khốc khấp bất trật, thanh ích[15], thôi điệt, thuỳ thế, xử ỷ lư, tẩm thiêm, chẩm khối. Hựu tương suất cưỡng bất thực nhi vi cơ, bác y nhi hàn, sử diện mục nhãn tưu, nhan sắc lê hắc, nhĩ mục bất thông minh, thủ túc bất kính cường, bất khả dụng dã. Hựu viết: Thượng sĩ chi thao tang, tất phù nhi năng khởi, trượng nhi năng hành, dĩ thử cộng tam niên. Nhược pháp, nhược ngôn, hành nhược đạo, sử vương công đại nhân hành thử, tắc tất bất năng tảo triều, yến thoái, thính ngục, trị chính. Sử dĩ đại phu hành thử tắc bất năng trị ngũ quan, lục phủ, tích thảo mộc, thực thuơng lẫm. Sử nông phu hành thử, tắc tất bất năng tảo xuất dạ nhập, canh giá, thụ nghệ. Sử bách công hành thử, tắc tất bất năng túc hưng dạ mị, phưởng tích chức nhâm.
[…] Quân tử, tang chi tam niên; phụ mẫu tử, tang chi tam niên, thê dữ hậu tử tử giả, hựu giai tang chi tam niên, Nhiên hậu bác phụ, thúc phụ, huynh đệ, nghiệt tử cơ, thích tộc nhân ngũ nguyệt, cô tỉ, sanh cữu giai hữu sổ nguyệt […] Nhược pháp, nhược ngôn, hành nhược đạo, cẩu kì cơ ước hựu nhược thử hĩ. Thị có bách tính đông bất nhẫn hàn, hạ bất nhẫn thử, tắc tật bệnh tử giả, bất khả thăng kế dã. Tử kì vi bại nam nữ chi giao đa hĩ, dĩ thử cầu chúng, thí do sử nhân phụ kiếm nhi cầu kì thọ dã). (Tiết táng trung).
Vì nước nghèo, dân ít đi, lại ốm yếu, bỏ bê công việc làm ăn, việc hình chính trễ nải, nên nước sẽ loạn, kẻ dưới oán người trên, đạo tặc nổi lên, nước ngoài sẽ dòm ngó, rồi xâm lăng, nước sẽ mất.
Lại thêm dân nghèo mà xôi rượu để cúng quỉ thần đã ít mà không thanh khiết, Thượng Đế, quỉ thần tất bất bình, giáng tai hoạ để trừng phạt.
Ma chay hậu hĩ, để tang lâu, hại lớn như vậy, cho nên Mặc tử cho là một nguyên nhân mất nước.
Có người bác: “Ma chay hậu hĩ và để tang lâu là đạo của thánh vương”. Mặc tử bảo: “Không phải”, và dẫn việc ba vị thánh vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, khi chết đều chôn cất rất giản dị: quan tài bằng gỗ xấu, cột bằng dây sắn, hạ huyệt rồi mới khóc, rồi lấp đất lên chứ không đắp nấm, hoặc có đắp thì nấm thấp và nhỏ, chỉ đủ để đánh dấu thôi.
Người ta lại vặn hỏi nữa: “Không phải là đạo của thánh vương thì sao các bậc quân tử theo hoài không bỏ”. Không bỏ không nhất định là tốt, ông dẫn chứng:
Như nước Chiếp Mộc có tục: Ông chết thì cũng cõng bà đem bỏ trong rừng, bảo: “Vợ của quỉ không thể sống chung với người được”; nước Đạm, cha mẹ chết thì lóc thịt liệng đi, còn xương đem chôn, như vậy mới là có hiếu; nước Nghi Cừ, chết thì hoả táng…[16] đều là tục lệ cả, nên dân các nước đó không bỏ, chứ đâu phải là đạo nhân nghĩa, và ông kết luận: việc ăn mặc còn nên tiết độ, sao việc chôn cất lại không tiết độ. Lợi cho dân thì cứ cải tục.
Về việc đoản tang, cũng có người vấn nạn Mặc tử. Công Mạnh tử, một môn đệ của Khổng tử, bảo ông:
- Thầy cho để tang ba năm là trái (nghĩa là có hại cho sự trị nước và sản xuất) nhưng thầy chủ trương để tang ba tháng thì cũng trái vậy (nghĩa là cũng có hại, tuy ít hơn).
Ông đáp:
- Ông đem tục để tang ba năm để chê tục để tang ba tháng như vậy, không khác gì người khoả thân bảo người vén áo là không kính cẩn vậy. (Công Mạnh, bài 11).
Công Mạnh tử lại bảo:
- Để tang ba năm là do trẻ con nhớ cha mẹ ba năm.
Ông đáp:
- Trẻ con chỉ biết nhớ cha mẹ mà thôi, cha mẹ không thể thấy lại được mà nó cũng gào khóc không ngừng là tại sao? Tại nó cực ngu. Sự hiểu biết của người theo đạo Nho há không hơn con nít sao? (Công Mạnh, bài 13).
Công Mạnh tử không hiểu rõ chủ trương của đạo Nho, đưa ra một lí mơ hồ, không đúng: trẻ con nhớ cha mẹ ba năm; trẻ con nhớ cha mẹ lâu hay không là tuỳ đứa, xét chung thì dưới ba bốn tuổi chúng mau quên, nhất là khi chúng được người khác (cô, dì, chị) săn sóc tận tâm như cha mẹ. Theo Khổng tử thì người ta để tang cha mẹ ba năm vì cha mẹ nuôi con, ngoài ba năm mới hết ẵm bồng nó.
Luận ngữ, thiên Dương Hoá, bài 20, chép như sau:
“Tể Ngã, [tên tục là Dư], một môn sinh của Khổng tử, hỏi thầy:
Tang ba năm, rút lại một năm cũng là lâu rồi. Vì người quân tử ba năm cư tang, không được học lễ thì lễ sẽ hỏng; ba năm không học nhạc thì quên hết nhạc. Vả lại [sau một năm], lúa cũ đã ăn hết, lúa mới đã thành thục […] cho nên một năm cũng được rồi”.
Khổng tử đáp: [Chưa hết tang ba năm] mà ăn cơm gạo thơm [thay vì gạo thô], mặc áo gấm [thay vì áo gai] thì anh có an lòng không?
- An lòng.
- An lòng thì làm đi. Người quân tử khi cư tang, ăn thức ngon cũng chẳng biết mùi, nghe nhạc cũng chẳng thấy vui, ăn ở không yên, cho nên không làm theo lối của anh. Còn nếu anh an lòng thì cứ làm.
Tể Ngã lui ra. Khổng tử bảo các đệ tử: “Trò Dư là bất nhân. Trẻ sanh ra, ngoài ba năm mới hết ẵm bồng. Tang ba năm là tang ai cũng theo. Trò Dư kia có được cha mẹ thương yêu bồng ẵm đấy không?”
(Dư chi bất nhân dã. Tử sinh tam niên, nhiên hậu phục miễn ư phụ mẫu chi hoài. Phù tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang giả. Dư dã, hữu tam niên chi ái ư kì phụ mẫu hồ?”)
Chúng ta thấy ngay từ thời Khổng tử - có lẽ còn trước nữa – đã có một số người cho phép để tang của đạo Nho có hại cho việc nhà, việc nước. Nhưng Khổng tử coi trọng tình cảm hơn lợi; ông cho hiếu là đức căn bản của con người, có hiếu rồi mới có trung, nhân, nghĩa, lễ, tín thì xã hội mới không loạn. Nhưng để tang mà đến nhịn đói, chịu lạnh, mặt mày bơ phờ, nước da đen sạm, tai mắt mờ, chân tay bủn rủn mới là phải phép, thì chúng tôi nghĩ cũng thái quá.
Câu Khổng tử bảo Tể Ngã: “Nhữ an nhi chi” (anh an lòng – cũng như nhẫn tâm – làm vậy thì cứ làm) thật nghiêm khắc, không cho Tể Ngã lí luận gì nữa. Tể Ngã chỉ còn cách lui ra, sau khi đáp: “an lòng”. Chúng tôi chắc hạng người “an lòng” được như Tể Ngã có nhiều trong xã hội thời đó, họ tuy vẫn theo tục của nhà Nho – cũng xô gai, cũng chống gậy như đi không nổi – nhưng chỉ có hình thức mà thôi, rốt cuộc trái hẳn với thâm ý của Khổng tử trong câu “tang dữ kì dị giả, ninh thích” – (Bát dật, bài 4), nghĩa là trong việc tang, quan trọng nhất là thành thực thương xót, không nên loè loẹt quá, chú trọng quá tới hình thức.
Mặc chê phép để tang của Nho là vô lí. Theo thiên Phi Nho, ông có lần bảo rằng:
“Theo lễ [của nhà Nho] thì: Để tang của cha mẹ ba năm; vợ và con trưởng ba năm; bác chú anh em, con thứ một năm; người trong họ năm tháng”. Nếu lấy tình thân sơ để định số năm, tháng thì người thân phải nhiều, người sơ phải ít. Như họ thì coi vợ và con trưởng thân cũng như cha vậy. Nếu lấy thứ tự trên dưới mà định số năm, tháng thì họ tôn vợ và con trưởng cũng như cha vậy […] còn gì trái lẽ hơn nữa”.
(Kì Lễ viết: Tang phụ mẫu: tam niên; thê, hậu tử: tam niên; bá phụ, thúc phụ, đệ huynh, thứ tử: cơ[17], thích tộc nhân: ngũ nguyệt. “Nhược dĩ thân sơ vi tuế nguyệt chi số, tắc thân giả đa nhi sơ giả thiểu, thị thê, hậu tử dữ phụ đồng […] Nghịch thục đại yên”)[18].
Rốt cuộc Mặc tử khuyên:
Về việc chôn cất: “Quan tài dầy ba tấc đủ để xương nát ra, áo ba bộ đủ để thịt nát ra; đào huyệt đủ sâu sao cho dưới không nứt, lộ ra, trên không xông hôi thối nữa, đắp nấm sao cho đủ nhận ra được mộ thế thôi. Khóc khi đưa ma và khi về, rồi mưu tính sự ăn mặc trong nhà, còn dư nhiều hay ít mà lo việc tế tự sao cho tiện lợi, như vậy là rất có hiếu với cha mẹ”.
(Quan tam thốn[19], túc dĩ hủ cốt, y tam lãnh, túc dĩ hủ nhục, quật địa chi thâm, hạ vô trư lâu, khí vô phát tiết ư thượng, lũng túc dĩ kì kì sở, tắc chi hĩ. Khốc vãng khốc lai, phản tòng sự hồ y thực chi tài, nại hồ tế tự, dĩ trí hiếu ư thân[20] – Tiết táng hạ).
Về việc để tang thì ba tháng như trên chúng tôi đã nói, và cũng không chế ra tang phục riêng. Mặc quá thực tiễn tới coi thường tình cảm mà hoá ra vô tình; ông cũng lại không hiểu nhân tình nữa; sự than khóc người thân đâu có thể hạn chế trong lúc đưa ma mà thôi
Chú thích:
[1] Bào hữu phì nhục, cứu hữu phì mã, dân hữu cơ sắc, dã hữu ngã biễu. [ngã biễu: bản nguồn chép là: “nga biếu”; ebook Mạnh tử chép là: “ngã biểu” và chép chữ Hán là 我荸 (Thiều Chửu đọc là “ngã bột”); trang http://zhidao.baidu.com/question/7392093 chép là: 庖有肥肉,廄有肥馬,民有飢色,野有餓殍, tức hai chữ đang xét là: 餓殍 (Thiều Chửu đọc là “ngã biễu”). (Goldfish)].
[2] Đương kim chi chủ… bạo đoạt dân y thực chi tài. [當今之主...暴奪民衣食之財 (theo http://www.hudong.com/wiki/%E3%80%8A%E5%A2%A8%E5%AD%90%C2%B7%E8%BE%9E%E8%BF%87%E3%80%8B). (Goldfish)].
[3] 子適衛,冉有僕。子曰:庶矣哉。冉有曰:既庶矣,又何加焉?曰:富之。
[4] Năm 1983 có tin họ quyết liệt rồi: mỗi cặp vợ chồng chỉ được một con thôi (?).
[5] Tỉ: Nguyên văn chữ Hán, bản nguồn chép là: 闢 (tịch) (xem chú thích ở dưới); các bản chữ Hán trên mạng chép là: 辟 (thí); trang http://www.eywedu.com/classic/mzbh023.htm bảo 辟 (thí) cùng nghĩa với 譬 (thí: nghĩa là ví dụ, ví như). (Goldfish).
[6]仁者之為天下度也,闢之無以異乎孝子之為親度也。今孝子之為親度也,將奈何哉?曰:親貧則從事乎富之,人民寡則從事乎眾之(...)雖仁者之為天下度,亦猶此也。曰:天下貧則從事乎富之,人民寡則從事乎眾之...
[7] Đắc: nguyên văn chữ Hán, bản nguồn chép là “đức” 德. Theo trang http://www.eywedu.com/classic/mzbh021.htm thì 德 được dùng như 得 (đắc). (Goldfish)
[8]聖人為政一國,一國可倍也;大之為政天下,天下可倍也。其倍之,非外取地也,因其國家去其無用之費,足以倍之。聖王為政,其髮令、興事、使民、用財也,無不加用而為者。是故用財不費,民德不勞,其興利多矣!
[9]凡天下群百工,輪車、韗鞄、陶、冶、梓匠,使各从事其所能’,曰:凡足以奉給民用則止。諸加費不加於民利者,聖王弗為…
飲食之法,曰:足以充虛,繼氣,強股肱,耳目聰明則止。不極五味之調,芬香之和,不致遠國珍怪異物。
衣服之法,曰:冬服紺緅之衣,輕且暖,夏服絺綌之衣,輕且凊則止。諸加費,不加於民利者,聖王弗為。
帶劍為刺則入,擊則斷,旁擊而不折,此劍之利也。甲為衣,則輕且利,動則兵且从,此甲之利也。 車為服重致遠,乘之則安,引之則利,安以不傷人,利以速至,此車之利也。 古者聖王為大川廣谷之不可濟,於是利為舟楫,足以將之則止。雖上者三公諸侯至,舟楫不易,津人不飾,此舟之利也。
宮室之法...曰:其旁可以圉風寒,上可以圉雪霜雨露,其中蠲潔,可以祭祀,宮墻足以為男女之別則止,諸加費不加民利者,聖王弗為。
[10] Biến: nguyên văn là “binh” 兵. Trang http://www.eywedu.com/classic/mzbh022.htm ngờ là chữ 弁 (Thiều Chửu đọc là “biện”) viết lầm. (Goldfish).
[11] Đoạn “tuy thượng giả… chu tiếp bất dịch” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[12] Một thứ đồ dùng không biết ra sao và dùng làm gì.
[13] Bản Thương vụ ấn thư quán in là , và chú là .
[14] Khố: các bản trên mạng chép là “xa” 車. (Goldfish).
[15] Thanh ích: các bản trên mạng chép là “thanh ông” 声翁. (Goldfish)
[16] Chiếp Mộc: có bản chép là: 輆沐 (Khợi Mộc), có bản chép là: 輆沭 (Khợi Thuật), có bản chép là 核沐 (Hoạch Mộc).
Đạm: các bản trên mạng chép là: 炎 (Viêm).
Nghi Cừ: các bản trên mạng cũng chép là: 儀渠 (Nghi Cừ).
Tương ứng với ba nước trong Mặc tử - thiên Tiết táng hạ đó, trong cuốn Liệt tử và Dương tử, bài Phong tục xứ lạ, cụ Nguyễn Hiến Lê viết là: Vĩnh Mộc, Viêm, Nghi Cừ; nhưng các bản Liệt tử - thiên Thang vấn trên mạng chép là: 輒沐 (Triếp Mộc), 炎 (Viêm), 儀渠 (Nghi Cừ). (Goldfish).
[17] Cơ: chữ Hán là 其. Theo trang http://ewenyan.com/articles/mozi/33.html thì 其 được dùng như chữ 期 (đọc là: cơ, ki), có nghĩa là một năm. (Goldfish).
[18]其禮曰:喪父母:三年;妻、後子:三年;伯父、叔父、弟兄、庶子:其;戚族人:五月。若以親疏為歲月之數,則親者多而疏者少矣,是妻、後子與父同也[…]逆孰大焉?
[19] Theo thiên Thiên hạ trong Trang tử thì Mặc gia không dùng quách.
[20]棺三寸,足以朽骨;衣三領,足以朽肉;掘地之深,下無菹漏,氣無發洩於上,壟足以期其所,則止矣。哭往哭來,反從事乎衣食之財,佴乎祭祀,以致孝於親。