← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X BỎ MĨ THUẬT MÀ SỐNG KHẮC KHỔ VÀ ĐẺ NHIỀU

Tác giả thiên Phi nhạc thượng bảo:

“Thầy Mặc tử sở dĩ chê nhạc không phải là vì cho những tiếng chuông lớn, trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, tiếng sáo dọc sáo ngang là không vui; không phải là cho những đồ chạm khắc, văn vẻ, màu mè là không đẹp; không phải là cho những những món thịt bò, thịt dê, thịt heo xào nướng là không ngon; không phải là cho các đài cao, tạ (nhà nhỏ không có tường để nghỉ mát, hứng gió) lớn, nhà sâu là không yên.Tuy thân thể biết là yên đấy; nhưng trên đem ra khảo sát thì thấy không hợp với việc làm của thánh vương; dưới đem ra suy tính thì không hợp với cái lợi của dân. Vì vậy mà thầy Mặc tử bảo âm nhạc là đáng chê”.

Chữ nhạc trong đoạn đó không trỏ riêng môn đờn ca múa hát mà còn tiêu biểu cho tất cả các mĩ thuật tạo khoái lạc cho con người. Phi nhạc tức là phi mĩ thuật nói chung.

Ông “phi nhạc” vì ba lẽ: vô ích, tốn của tốn sức, mất thì giờ làm ăn.

1. Vô ích.

“Dân có ba điều lo: đói không có gì ăn, lạnh không có gì mặc, mệt không được nghỉ. Ba cái đó là những điều lo lớn của dân. Thử gõ cái chuông lớn, đập cái trống kêu, gảy cây đờn cầm, đờn sắt, thổi ống sáo dọc, sáo ngang, cầm cái rìu, cái mộc mà múa xem, như vậy có sinh ra được cái ăn cái mặc cho dân không? Tôi cho là không được.

“Hãy bỏ việc đó đi, không bàn, mà xét việc này: nay một nước lớn đánh nước nhỏ, một nhà lớn đánh nhà nhỏ, kẻ mạnh cướp người yếu, số đông hiếp đáp số ít, kẻ xảo trá lừa gạt kẻ ngu, kẻ sang ngạo mạn người hèn, giặc cướp trong ngoài đều dấy lên, không ngăn cấm được. Thử gõ cái chuông lớn, đập cái trống kêu, gảy cây đờn cầm đờn sắt, thổi ông sáo dọc sáo ngang, cầm cái rìu cái mộc mà múa xem, như vậy có làm cho thiên hạ đương loạn hoá trị được không? Tôi cho là không.

“Cho nên thầy Mặc tử bảo: Bắt dân chúng đóng góp nhiều để tạo ra những tiếng chuông lớn, tiếng trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, tiếng sáo dọc sáo ngang, mà mong dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì thật là vô ích. Vì vậy thầy Mặc tử bảo âm nhạc là đáng chê”.

(Dân hữu tam hoạn: cơ giả bất đắc thực, hàn giả bất đắc y, lao giả bất đắc tức, tam giả, dân chi cư hoạn dã. Nhiên tức[1] đương[2] vi chi tràng cự chung, kích minh cổ, đàn cầm sắt, xuy vu sanh, nhi dương can thích, dân y thực chi tài, tương an khả đắc hồ? Tức ngã dĩ vi vị tất nhiên dã.

Úc xả thử. Kim hữu đại quốc tức công tiểu quốc, hữu đại gia tức phạt tiểu gia, cưỡng kiếp nhược, chúng bạo quả, trá khi ngu, quí ngạo tiện, khấu loạn đạo tặc tịnh hưng, bất khả cấm chỉ dã; nhiên tức đương vi chi tràng cự chung, kích minh cổ, đàn cầm sắt, xuy vu sanh, nhi dương càn thích, thiên hạ chi loạn dã, tương an khả đắc nhi trị dư? Tức ngã dĩ vi vị tất nhiên dã[3] – Phi nhạc thượng).

2. Đã vô ích mà còn tốn sức, tốn của, cướp cái ăn, cái mặc của dân.

“Nay các vương công đại nhân chế tạo nhạc khí để dùng trong nước, đâu phải cứ việc vốc nước, moi đất lên mà làm nên được; tất phải nhờ sự đóng góp của vạn dân rồi mới có tiếng chuông lớn, trống kêu, tiếng đàn sắt đàn cầm, tiếng sáo dọc sáo ngang…”

(Kim vương công đại nhân tuy vô tạo vi nhạc khí, dĩ vi sự hồ quốc gia, phi trực bồi lạo thuỷ, thích[4] nhưỡng thản nhi vi chi dã; tương tất hậu thố liễm hồ vạn dân, dĩ vi đại chung, minh cổ, cầm sắt, vu sanh chi thanh…)[5].

Có nhạc khí rồi lại phải đặt ra “nhạc vũ” [điệu múa theo tiếng nhạc], có người múa, mà “Người múa không thể mặc áo vải cụt [khi làm lụng] để múa, không thể ăn cơm hẩm được, vì không ăn đồ ăn ngon thì mặt mày dung nhan coi sao được. Không mặc áo đẹp thì thân thể cử động (múa may) coi sao được. Cho nên ăn phải có gạo ngon, có thịt béo, mặc phải đồ thiêu đẹp đẽ; thế là không sản xuất cái ăn cái mặc mà còn bắt người ta nuôi. Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Các vương công đại nhân làm tổn hại, cướp mất cái ăn, cái mặc của dân để tấu nhạc, như vậy nhiều lắm”.

(Vạn nhân[6] bất khả ý đoản hạt, bất khả thực khang tao. Viết: Thực ẩm bất mĩ, diện mục nhan sắc bất túc thị dã; y phục bất mĩ thân thể thung dung sửu luy bất túc quan dã. Thị dĩ thực tất lương nhục, y tức văn tú. Thử chưởng bất tòng sự hồ y thực chi tài, nhi chưởng thực hồ nhân giả dã. Cố Mặc tử viết: Kim vương công đại nhân duy vô vi nhạc, khuy đoạt dân y thực chi tài, dĩ phụ nhạc, như thử đa dã[7] – Phi nhạc thượng).

3. Mất thì giờ làm ăn của dân.

“Các vương công đại nhân ngồi trên đài cao tạ lớn mà nhìn cái chuông thì cũng không khác gì nhìn cái khuôn bằng đất để đúc vạc, không gõ đánh lên làm sao mà vui được? Cho nên phải gõ, đánh; mà gõ đánh thì không thể sai người già và con nít được vì người già và con nít tai mắt không sáng, chân tay không mạnh, thanh âm không hoà điệu, mặt mày không lanh lợi. Cho nên tất phải sai bọn tráng niên […] Nếu sai đàn ông làm việc ấy thì họ tất phải bỏ việc cày cấy trồng trọt, sai đàn bà làm việc ấy thì họ tất phải bỏ bê[8] việc đánh sợi dệt vải. [Thế là] các vương công đại nhân vì vui mà làm tổn hại, cướp mất cái ăn cái mặc của dân để tấu nhạc; như vậy nhiều lắm […].

“Đã có đủ tiếng chuông lớn, trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, sáo dọc sáo ngang, mà vương công đại nhân vò võ nghe một mình thì còn thú gì nữa? Tất phải có hoặc kẻ tiện nhân hoặc người quân tử cùng nghe với mình. Nếu bắt người quân tử [người trị dân] cùng nghe thì người đó phải bỏ công việc xử án, trị nước; bắt kẻ tiện nhân [thường dân] nghe thì người đó bỏ công việc làm ăn. [Thế là] các vương công đại nhân vì vui mà làm tổn hại, cướp mất cái ăn cái mặc của dân để tấu nhạc, như vậy nhiều lắm”.

(Kim vương công đại nhân duy vô xử cao đài, hậu tạ chi thượng nhi thị chi, chung do thị diên đỉnh dã, phất tràng kích tương hà lạc đắc yên tai? Kì thuyết tương tràng kích chi. Duy vật tràng kích, tương tất bất sử lão dĩ trì[9] giả. Lão dữ trì giả, nhĩ mục bất thông minh, cổ quăng bất tất cường, thanh bất hoà điệu, minh bất chuyển lợi[10]. Tương tất sử đương niên […] Sử trượng phu vi chi, phế trượng phu canh giá, thụ nghệ chi thời, sử phụ nhân vi chi, phế phụ nhân phưởng tích chức nhân chi sự. Kim vương công đại nhân duy vô vi nhạc, khuy đoạt dân y thực chi tài, dĩ phụ nhạc, như thử đa dã.

Kim đại chung, minh… như thử đa dã[11]. - Phi nhạc thượng).

Sau cùng Mặc tử dùng phép “khảo” dẫn sách của tiên vương, thiên Quan hình của vua Thang, và thiên Vu Quang đời Hạ để chứng tỏ rằng tiên vương ghét nhạc. Nhưng hai thiên đó chê thói “hay múa ở cung” (hằng vũ ư cung) và thói “dâm dật vui chơi ăn uống ở ngoài đồng”, mê nhạc, mê rượu, “múa may phóng túng” (Phi nhạc thượng), chứ không phải chê nhạc.

Mê nhạc phóng túng và bỏ bê việc nước thì chính trị gia, triết gia nào cũng chê. Khi vua Tề dâng vua Lỗ 80 người con gái đẹp múa hát giỏi, Lỗ hầu say mê, ba ngày không ra triều, Khổng tử chán nản, bỏ đi. Mà chính Khổng tử là người thích nhạc, biết đàn hát, mấy lần khen rằng nhạc “Thiều” của vua Thuấn là cực hay, cực thiện; nhạc “Võ” của Võ vương tuy cực hay nhưng không cực thiện (Bát dật – 25); và một lần ở Tề, ông mãi mê nghe và nghiên cứu nhạc Thiều đến nỗi ba tháng không biết mùi thịt (tam nguyệt bất tri nhục vị – Thuật nhi - 13).

Vả lại chính vua Thang đặt ra điệu Đại Hồ, vua Vũ (nhà Hạ) đặt ra điệu Đại Hạ (coi Trang tử - thiên Thiên hạ), như vậy hai đời đó đâu có ghét nhạc.

Lưu Hướng đời Hán, trong sách Thuyết Uyển chép rằng: “Cầm Hoạt Li – một môn đệ của Mặc tử - hỏi thầy: “Đồ gấm, đồ thêu, các thứ “trữ, hi” [vải mỏng, tốt] có dùng vào việc gì không?”.

Mặc tử đáp: “…Nay gặp năm mất mùa, có người muốn cho anh ngọc Tuỳ hầu, bán không được, tuy là trân bảo mà chỉ để trang sức thôi; lại muốn cho anh một chung (6 hộc 4 đấu) lúa; nhưng anh chỉ được lựa một thứ thôi, hoặc ngọc hoặc lúa, thì anh lựa thứ nào?”

Cầm tử đáp: “Con lựa lúa, cứu đói được”.

Mặc tử bảo: “Phải vậy, chứ dùng cái xa xỉ làm gì!... Ăn phải cho no đã rồi hãy cầu ngon; mặc phải được ấm đã rồi hãy cầu đẹp; ở cho được yên rồi hãy cầu vui thích… lo cái “chất” [tức cái căn bản, cần thiết] đã rồi mới nghĩ tới cái “văn” [đẹp đẽ]. Đó là việc gấp của thánh nhân.

Có người căn cứ vào đoạn đó mà bảo Mặc tử không phải cho sự xa xỉ, trang sức là không tốt, nhưng ở thời ông, dân tình khổ quá, ông khuyên dân siêng năng, chịu khổ, bớt tiêu đi, bỏ hết xa xỉ đi để khỏi đói, khỏi rét đã.

Chúng tôi nghĩ Thuyết Uyển không đáng tin[12], vì thiên Công Mạnh, bài 9, Mặc tử chủ trương ngược lại: nước giàu mạnh rồi vẫn không nên dùng lễ nhạc.

Lần đó Công Mạnh tử bảo ông:

- Nước loạn thì lo việc sửa trị, nước trị thì lo việc lễ nhạc. Nước nghèo thì lo làm ăn, nước giàu thì lo việc lễ nhạc.

Ông đáp:

- Nước trị rồi thì vẫn lo việc sửa trị, nhờ vậy mới được trị; bỏ việc sửa trị thì nước cũng hết trị. Nước giàu thì vẫn làm ăn, nhờ vậy mới giàu, bỏ việc làm ăn thì nước cũng hết giàu. Cho nên việc trị nước cũng gắng lo hoài không ngừng như vậy mới được. Nay ông bảo: “Nước trị thì lo lễ nhạc, nước loạn thì lo sửa trị”. Như vậy thì không khác gì nghẹn[13] rồi mới đào giếng, chết rồi mới mời thầy thuốc. Xưa ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ ham mê tiếng ca nhạc, không đoái tới dân đến nỗi thân bị giết, nước mất, dòng dõi tuyệt tự, đều do chính sách đó cả”.

(Quốc chi trị dã, trị chi, cố trị dã; trị chi phế, tắc quốc chi trị diệc phế. Quốc chi phú dã, tòng sự cố phú dã; tòng sự phế, tắc quốc chi phú diệc phế. Cố tuy trị quốc, khuyến chi vô hưởng[14], nhiên hậu khả dã. Kim tử viết: “Quốc trị tắc vị lễ nhạc, loạn tắc trị chi”. Thị tỉ do chi ế nhi xuyên tỉnh dã, tử nhi cầu y dã. Cổ dã tam đại bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ, nhĩ[15] vi thanh nhạc, bất cố kì dân, thị dĩ thân vi hình lục, quốc vi lệ hư dã, giai tòng thử đạo dã)[16].

Rõ ràng Mặc tử bắt mọi người phải khắc khổ như ông, mạc sát nhạc và mọi mĩ nghệ, không hiểu rằng nhạc, nếu tốt, có công dịch tục, mà có mĩ nghệ thì kinh tế mới phát triển được. Ông bảo nhu cầu của dân mệt thì được nghỉ ngơi, mà ông quên rằng nghe nhạc là một cách nghỉ ngơi rất tốt; ông chỉ lo tận lực làm việc, sản xuất cho thật nhiều, nhưng ca nhạc có thể giúp cho năng suất tăng lên mà quên mệt, tức như các điệu dân ca khi đi cấy, các điệu hò chèo thuyền v.v… Ngày nay tại các xí nghiệp lớn, người ta còn cho thợ vừa làm việc vừa nghe những bản nhạc êm đềm nữa.

Thái độ của Mặc gia đối với nhạc không hợp lí bằng Nho gia, Nho chê những ông vua mê thanh sắc mà mất nước, nhưng vẫn trọng thứ nhạc “thiện, mĩ”. Mạnh tử còn muốn cho Tề Tuyên vương cứ cho tấu nhạc, miễn là dân chúng được cùng nghe với vua thì dân sẽ vui vẻ và quí vua (Lương Huệ vương hạ, bài 1). Chỉ cần “dữ dân đồng lạc”, chứ không cần “phi nhạc”.

Trong thiên Thượng hiền, Mặc tử đòi huỷ các quyền của giai cấp quí tộc: quyền thế tập về tước lộc, quyền điều khiển guồng máy chính trị, và tranh đấu cho giai cấp tiện dân ngang hàng với giai cấp quí tộc.

Trong ba thiên Tiết dụng, Tiết táng, đoản tang và Phi nhạc, Mặc muốn hạ giai cấp quí tộc xuống ngang hàng với giai cấp bình dân về sự làm việc và lối sống: buộc họ phải lao động cần cù như dân, không được bắt dân phục vụ mà phải dữ dân đồng khổ.

Khổng tử cũng thượng hiền, muốn người “quân tử” phải yêu dân, muốn có cuộc sống công bằng trong xã hội, nhưng tinh thần tôn ti của Nho vẫn hơn của Mặc, chỉ mong quí tộc biết đồng lạc với dân thôi.

Một bên là quí tộc ở trên cao kêu dân lại cùng vui với mình, một bên là quí tộc sống với bình dân, cùng làm lụng, chịu cực với dân. Nho và Mặc khác nhau ở điểm đó; nguyên nhân phần lớn do Nho là tư tưởng của giai cấp quí tộc đã suy vi, tức một giai cấp ở giữa giai cấp quí tộc và giai cấp bình dân, còn Mặc làm tư tưởng của giai cấp bình dân bắt đầu nhận định được khả năng, sức mạnh và thân phận của mình.

Nhiệt tình của Mặc, từ xưa đến nay, không ai không phục; nhưng cũng vì nhiệt tình quá mà ông mắc khuyết điểm “kiểu uổng quá chi li”.

- Chủ trương của ông về tiết dụng và phi nhạc có điểm không hợp tình người: ông bắt dân làm việc cực nhọc suốt ngày, quanh năm, tuy cho dân được nghỉ ngơi khi mệt, nhưng không cho dân du hí, ca hát, chơi nhạc; ông cũng không hiểu rằng khi đã đủ ăn đủ mặc rồi thì tự nhiên dân muốn ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, nghĩa là muốn hưởng thụ, có như vậy công nghệ, mĩ nghệ mới tiến bộ, trình độ văn minh mới lần lần cao được, mà quốc gia mới giàu được.

- Tuân Tử chê Mặc là “phi nhạc thì dân loạn, tiết dụng thì dân nghèo”; là “bị cái thiết thực che lấp mà không biết cái văn vẻ” (tế ư dụng nhi bất tri văn), nghĩa là chỉ nghĩ tới cái lợi vật chất mà không biết quí tình cảm, mĩ thuật. Lời chê đó đúng. Âm nhạc, mĩ thuật là do tình cảm mà phát, lại bồi dưỡng tình cảm. Mặc muốn bỏ hết tình cảm, coi là vô dụng, có hại cho đời sống, cho công việc làm, thì quả là “cực bạc bẽo”. Chúng ta không sao tưởng tượng nổi một xã hội như một ổ kiến vĩ đại, mọi người lăng xăng[17] làm lụng suốt ngày, chỉ ăn cơm rau, mặc vải thô, không có tiếng ca tiếng đờn, nhà cửa thì toàn là mái tranh, vách đất, không có cả một bông hoa trong vườn nữa. Tác giả thiên Thiên hạ trong Trang tử bảo chính sách đó “trái hẳn nhân tâm, không ai chịu nổi; tuy Mặc tử một mình theo nổi, nhưng còn thiên hạ thì sao?” (phản thiên hạ chi tâm, thiên hạ bất kham; Mặc tử tuy độc năng nhiệm, nại thiên hạ hà?).

Đã trái nhân tâm thì sao lại trị dân được? Mặc học tuy được dân chúng hưởng ứng một thời, nhưng không một ông vua nào dùng cả và từ cuối thời Chiến Quốc trở đi, gần như bị quên hẳn, nguyên nhân chính tại đó chăng?

Lại vì nhiệt tâm quá, Mặc mâu thuẫn với chính mình. Ông khen vua Nghiêu sống đạm bạc, ở nhà tồi tàn, ăn mỗi bữa chỉ một món (thiên Tiết dụng), nhưng ông lại chủ trương đã dùng người hiền thì phải cho họ tước cao bổng lộc hậu (thiên Thượng hiền), như vậy thì họ dùng bổng lộc hậu để làm gì?

Ông muốn nhà cầm quyền lựa trong số người có tài đức – dù là quí tộc hay bình dân, bình đẳng với dân, thế thì sao cho họ tước cao lộc hậu. Giới bình dân được tước cao lộc hậu sẽ sống xa hoa – thành một giai cấp mới - tuy không thế tập, nhưng đặc quyền vẫn còn nhiều, thì còn đâu là bình đẳng?

Chúng tôi còn ngờ rằng, môn sinh ông, không sống đạm bạc đúng như lời ông dạy. Cho nên trong thiên Canh Trụ, bài 5, khi một môn sinh của ông lại ở một nhà bạn đồng môn là Canh Trụ tử, lúc đó đương làm quan ở Sở, không được Canh Trụ tử cho ăn uống sung sướng, về phàn nàn với ông rằng “ảnh chỉ cấp cho chúng con ba thăng lúa, tiếp đãi không lấy gì làm hậu”, ông không hề rầy họ, bảo: “Chưa biết được, hãy đợi xem”. Ít lâu sau, Canh Trụ tử đem dâng ông mười dật vàng (mỗi dật 20 lạng), ông mừng. Đành rằng số vàng đó ông không dùng riêng mà để chi tiêu cho đoàn thể, nhưng chuyện đó cũng cho chúng ta thấy rằng, thầy trò ông vẫn còn để ý nhiều tới sự ăn uống, đâu phải là sống khắc khổ hẳn.

Tới đây chúng ta thấy được đại cương chính sách kinh tế của Mặc tử. Làm cho nước giàu (phú chi) theo ông không phải là chế tạo được nhiều vàng bạc châu báu, mà làm cho dân được ăn no, mặc ấm, có đủ đồ dùng cần thiết, ai nấy được sống yên ổn, không phải lo lắng (tài dụng túc, bách tính giai đắc noãn y, bão thực, tiện ninh vô ưu – Thiên chí trung).

Muốn vậy thì phải:

- Chú trọng đến cày cấy, trồng gai, nuôi tằm.

- Phân công: người hiền lo trị dân, dân thường lo sản xuất, đàn ông lo việc ngoài đồng, đàn bà canh cửi trong nhà.

- Giới nào cũng phải tận lực làm việc.

- Không phí sức lực, của cải vào mĩ thuật, vào những việc xa xỉ, công nghệ giảm tới mức tối thiểu,

- Không bỏ phí thì giờ (như để tang lâu, chơi nhạc, nghe nhạc…). Vì thời giờ sinh ra của cải (thời sinh tài): người trên mà bắt dân bỏ công ăn việc làm để phục vụ mình trong việc du hí, xây cất cung điện là cướp thì giờ, cướp cái ăn cái mặc của dân. Mặc tử là Trung Hoa đầu tiên coi trọng giá trị của lao động, của thì giờ.

Bây giờ chúng ta xét tới chính sách “chúng chi” – làm cho dân đông – của ông.

Hình như ông nhận thấy dân số thời ông giảm đi. Cuối thiên Tiết dụng thượng, ông bảo:

“Các chính trị gia trong thiên hạ ngày nay có nhiều cách làm cho số người ít đi. Họ bắt dân làm mệt sức, thu thuế lại nặng; dân nghèo chết đói chết rét không biết bao nhiêu mà kể. Vả lại các bậc đại nhân dấy binh để đánh chiếm nước láng giềng, lâu thì trọn năm, chóng thì vài tháng, vợ chồng lâu không gặp nhau, do đó số người ít đi. [Binh sĩ vì] ăn ở không yên, ăn uống thất thường, sinh ra ốm đau mà chết.. và trong khi phá thành, chiến đấu ngoài đồng, chết không biết bao nhiêu mà kể”.

Ông chủ trương làm sao để cho dân số tăng lên gắp đôi, muốn vậy phải bắt dân sớm lấy vợ:

“Xưa, thánh vương ra lệnh: “Con trai hai mươi tuổi không ai dám không lấy vợ, con gái mười lăm tuổi không ai dám không lấy chồng”. Đó là phép của thánh vương. Thánh vương mất rồi, dân sinh ra phóng túng. Có kẻ muốn lấy vợ sớm, hai mươi đã lấy vợ; có kẻ muốn lấy vợ muộn, bốn mươi mới lấy vợ. Sớm bù muộn, thì số trung bình vẫn là trễ hơn tuổi thánh vương qui định là mười năm[18]. Nếu cứ ba năm đẻ một lần thì trong mười năm trễ đó, hụt mất hai ba đứa con rồi. Như vậy chẳng phải là bắt dân sớm lấy vợ thì số dân có thể tăng lên gấp hai đấy ư?”

(Tích thánh vương[19] vi pháp viết: “Trượng phu niên nhị thập, vô cảm bất xử gia; nữ tử niên thập ngũ, vô cảm bất sự nhân”. Thử thánh vương chi pháp dã. Thánh vương kí một, ư dân thứ dã, kì dục tảo xử gia giả, hữu sở nhị thập niên xử gia; kì dục vãn xử gia giả, hữu sở tứ thập niên xử gia. Dĩ kì tảo dữ kì vãn tương tiễn, hậu thánh vương chi pháp thập niên. Nhược thuần tam niên nhi tự, tử sinh khả dĩ nhi tam kế[20] hĩ. Thử bất duy sử dân tảo xử gia nhi khả dĩ bội dư?[21] - Tiết dụng thượng).

Đầu thời Chiến Quốc chỉ có một mình Mặc tử, rồi mãi tới cuối thời Chiến Quốc mới có thêm Hàn Phi là quan tâm đặc biệt tới vấn đề nhân số, mà cả hai đều có tinh thần toán học cả, đáng khen là có kiến thức mới mẻ. Họ sống cách nhau hai trăm năm, mà một người ngại nhân số suy giảm, một người lo dân số tăng quá mau. Như vậy có đủ cho chúng ta kết luận rằng trong hai trăm năm chiến tranh liên miên, tàn khốc đó, dân số Trung Hoa vẫn tăng mạnh, nhờ kĩ thuật canh tác tiến bộ và nhờ công nghệ phát triển không? Mà hai nhà đó sao mà giống nhau thế, đều nhiệt tâm cứu đời, đều cho rằng bản tính con người ham lợi; đều chủ trương thống nhất tư tưởng và đều đưa ra những cách thực tiễn để tuyển và dùng người. Chúng tôi nghĩ Hàn Phi tuy học Tuân Tử mà thực sự là môn sinh xa của Mặc tử.

Chú thích:

[1] Chữ tức này với chữ tức dùng ngang nhau. [Theo trang http://zh.wikisource.org/wiki/%E7%B6%93%E5%82%B3%E9%87%8B%E8%A9%9E thì chữ “tức” 即 dùng như chữ “tắc” 則. (Goldfish).

[2] Chữ đương /當/ này dùng như chữ thường /嘗/, có nghĩa thí /試/.

[3]民有三患:飢者不得食,寒者不得衣,勞者不得息,三者民之巨患也。然即當為之撞巨鍾,擊鳴鼓,彈琴瑟,吹竽笙而揚干戚,民衣食之財,將安可得乎?即我以為未必然也。

意舍此。今有大國即攻小國,有大家即伐小家,強劫弱,眾暴寡,詐欺愚,貴傲賤,寇亂盜賊並興,不可禁止也。然即當為之撞巨鍾,擊鳴鼓,彈琴瑟,吹竽笙而揚干戚,天下之亂也,將安可得而治與?即我以為未必然也。(Theo http://ctext.org/mozi/condemnation-of-music-i/zh). (Goldfish).

[4] Chữ này đọc là chữ (thích). [Bản nguồn và các bản chữ Hán trên mạng chép là: 折 (chiết), có bản chú là chữ 拆 (sách) viết lầm. (Goldfish)].

[5]今王公大人,雖無造為樂器,以為事乎國家,非直掊潦水,折壤坦而為之也,將必厚措斂乎萬民,以為大鍾、鳴鼓、琴瑟、竽笙之聲。

[6] Vạn nhân ở đây nghĩa là người múa điệu “vạn vũ”, và chỉ chung cho các người múa.

[7]萬人不可衣短褐,不可食糠糟,曰:食飲不美,面目顏色,不足視也;衣服不美,身體从容醜羸不足觀也。是以食必梁肉,衣必文綉。此掌不从事乎衣食之財,而掌食乎人者也。故子墨子曰:今王公大人,惟毋為樂,虧奪民衣食之財,以拊樂,如此多也。(Theo http://ewenyan.com/articles/mozi/29.html. (Goldfish).

[8] Đoạn: “cày cấy trồng trọt, sai đàn bà làm việc ấy thì họ tất phải bỏ bê” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[9] Chữ trì /遅/ ở đây dùng cũng như chữ trĩ /稚/.

[10] Lợi: Bản trên trang http://ewenyan.com/articles/mozi/29.html chép là: 樸 (phát) và chú là: 樸 ngờ là 行 (hành) chép sai. (Goldfish).

[11]今王公大人,唯毋處高台厚榭之上而視之,鍾猶是延鼎也,弗撞擊,將何樂得焉哉?其說將必撞擊之。惟勿撞擊,將必不使老與遲者。老與遲者,耳目不聰明,股肱不畢強,聲不和調,明不轉樸。將必使當年[...]使丈夫為之,廢丈夫耕稼樹藝之時;使婦人為之,廢婦人紡績織紝之事。今王公大人,唯毋為樂,虧奪民衣食之財,以拊樂如此多也。

今大鍾、鳴…如此多也。(Theo http://ewenyan.com/articles/mozi/29.html). (Goldfish).

[12] Có lẽ khi viết cuốn Tuân tử (trước cuốn Mặc học), hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê “tin” vào sách Thuyết Uyển nên đã viết: “Sở dĩ Mặc “phi nhạc” là vì dân chúng đương thời cùng khổ quá mà đối với trăm họ đói rét thì cơm áo cấp thiết hơn âm nhạc, ca vũ và các bộ môn nghệ thuật khác nhiều. Có lẽ chỉ giản dị như thế thôi!”. (Goldfish).

[13] Nghẹn thì muốn uống nước cho hết nghẹn.

[14] Hưởng: bản nguồn và các bản chữ Hán trên mạng chép là: 饜 (Thiều Chửu đọc là “yếm”). (Goldfish).

[15] Từ Nguyên và Từ Hải không có chữ này.

[16]國之治也,治之,故治也。治之廢,則國之治亦廢。國之富也,從事,故富也。從事廢,則國之富亦廢。故雖治國,勸之無饜,然後可也。今子曰:“國治則為禮樂,亂則治之。”是譬猶噎而穿井也,死而求醫也。古者三代暴王桀紂幽厲,薾為聲樂,不顧其民,是以身為刑僇,國為戾虛者,皆從此道也。

[17] Bản nguồn chép là: “lăng nhăng”. (Goldfish).

[18] Sớm nhất là 20 tuổi, trễ nhất là 40 tuổi, trung bình là (20 + 40): 2 = 30 tuổi. So với thời trước (20 tuổi) là trễ mất 10 năm.

[19] Tích thánh vương: các bản trên mạng chép là: “Tích giả thánh vương” 昔者聖王. Trang http://ctext.org/mozi/economy-of-expenditures-i/zh chú: Bản cũ thoát lậu chữ “giả” 者). (Goldfish).

[20] Kế: các bản trên mạng chép là “niên” 年. (Goldfish).

[21]昔者聖王為法曰:“丈夫年二十,毋敢不處家。女子年十五,毋敢不事人。”此聖王之法也。聖王既沒,於民次也,其欲蚤處家者,有所二十年處家;其欲晚處家者,有所四十年處家。以其蚤與其晚相踐,後聖王之法十年。若純三年而字,子生可以二三年矣。此不惟使民蚤處家而可以倍與?(Theo http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90/%E7%AF%80%E7%94%A8%E4%B8%8A) Goldfish)