CHƯƠNG XI KẾT
A. GIÁO CHỦ HAY ĐẢNG TRƯỞNG?
Khổng tử là người đầu tiên mở tư thục cho bình dân. Ông dạy họ Thi, Thư, Lễ, Nhạc… cốt đào tạo một bọn “sĩ” có đức hạnh, trí sáng suốt, biết tu thân để tề gia, rồi trị quốc, làm chính trị. Về nội trị có Nhan Uyên chẳng may chết sớm, Nhiễm Cung; về ngoại giao có Tể Ngã, Tử Cống; về lễ có Tử Du, Tử Hạ… Khi tiếp xúc với các nhà cầm quyền ông thường cho họ theo mình, có khi thay mình nữa. Một số ra làm quan như Tể Du, Tử Cống, Tử Lộ, Tử Du, Nhiễm Cầu… Và trong khi làm quan, họ có điều gì lầm lẫn, trái với đạo thì ông vẫn trách mắng họ.
Đoàn thể chính trị của Mặc tử có tổ chức chặt chẽ hơn của Khổng nhiều, ảnh hưởng rất lớn trong thời Chiến Quốc, khiến Mạnh tử và Hàn Phi đều phải nhận rằng Mặc tranh bá quyền tư tưởng với với Nho. Mà chẳng phải giai cấp bình dân mới trọng Mặc gia mà họ coi như những hiệp sĩ bênh vực kẻ yếu thế cô độc. Theo Lữ Thị Xuân Thu (thiên Dương Nhiễm) thì bọn hậu học của Mặc cũng được trọng ở các triều đình ngang hàng với bọn hậu học của Khổng, nhiều vô kể (Khổng Mặc chi hậu học, hiển vinh ư thiên hạ giả chúng hĩ, bất khả thăng số).
Trong thiên Công Thâu, Mặc tử bảo vua Sở: “Đệ tử của thần là bọn Cầm Hoạt Li gồm ba trăm người… đương ở trên thành nước Tống mà đợi giặc Sở”. Sách Hoài Nam tử cũng chép: “Có một trăm tám chục người phục dịch cho Mặc tử, Mặc tử có thể biến họ nhảy vào lửa, đạp vào mũi dao, chịu chết chứ không quay gót”. Vậy số đệ tử của Mặc khá đông và tận tâm với thầy có phần hơn đệ tử của Khổng nữa.
Bộ Mặc tử chỉ còn nhắc tới khoảng 13-14 người, nổi danh nhất là Cầm Hoạt Li, người cầm đầu ba trăm bạn đồng môn để giữ thành cho Tống; Cao Thạch tử, làm quan ở Vệ, rồi bỏ đi vì vua Vệ không chịu nghe lời mình; Canh Trụ tử làm quan ở Sở, dâng Mặc tử 10 dật vàng; Công Thượng Quá làm quan ở Việt, được Mặc tử khen là biết được cốt yếu của đạo, nên không cần đọc sách…
Đó là những đệ tử trong thế hệ đầu. Các thế hệ sau, theo Phương Thụ Sở (sách đã dẫn, trang 139-142), còn được khoảng ba chục người nữa; nổi danh có Điền Cưu, viết bộ Điền Cưu tử, Tương Li Cần, Tương Phu Thị, Đặng Lăng tử, ba nhà này mỗi nhà lập một phái riêng; Mạnh Thắng, Điền Tương tử, Phúc Thôn đều là “cự tử”, mà trong một đoạn sau chúng tôi sẽ nhắc tới.
Mặc tử chắc không dạy đệ tử về lễ, nhạc; Thi, Thư nếu có thì cũng dạy rất ít; ông đem học thuyết của mình ra truyền cho họ, mà chú trọng đến việc đào tạo họ thành những người có nghị lực, hễ tri thì hành liền, trọng nghĩa, khinh tài, sẵn sàng hi sinh cho kẻ nghèo khổ, sống giản dị, khắc khổ, chỉ nghĩ đến lợi chung, tin ở sự thưởng phạt của trời và quỉ thần.
Chính ông không làm quan, nhưng giới thiệu đệ tử giúp việc vua chúa đương thời, như:
- Cho Canh Trụ tử làm quan ở Sở (Canh Trụ)
- Sai Quản Kiềm Ngao giới thiệu Cao Thạch tử làm quan ở Vệ (Canh Trụ)
- Cho Công Thượng Quá làm quan ở Việt (Lỗ vấn)
- Cho Tào Công tử làm quan ở Tống (Lỗ vấn)
- Sai Thắng Xước thờ Hạng tử Ngưu (Lỗ vấn)
- Cho một đệ tử (không biết tên) làm quan ở Vệ (Quí Nghĩa)
Đệ tử phải tuyệt đối phục tòng ông.
Họ làm quan, lộc cao bổng hậu thì cũng phải sống đạm bạc, để dành tiền nộp cho ông chi tiêu cho đoàn thể. Tức như trường hợp Canh Trụ tử làm quan ở Sở; khi ông và các đệ tử khác tới Sở, Canh Trụ tử đem tặng ông mười dật vàng, thưa: “Con không dám mang tội chết xin dâng thầy mười dật vàng để thầy tiêu”. Chúng tôi nhấn mạnh vào những chữ: “Con không dám mang tội chết”. Kỉ luật của đoàn thể nghiêm như vậy đấy.
Việc dùng bổng lộc để giúp đoàn thể chỉ là phụ. Quan trọng nhất là họ phải thuyết phục các vua chúa thi hành đạo kiêm ái, giao lợi, phi công của tôn sư, không thi hành được thì họ nên từ chức như Cao Thạch tử trong bài 13, thiên Canh Trụ.
Cao do Quản Kiềm Ngao giới thiệu và đề cao, được vua Vệ cho làm quan khanh, đãi lộc rất hậu. Cao ba lần vào chầu, nói hết những điều mình muốn nói, nhưng không điều nào được thi hành cả, bèn bỏ đi, về thưa với Mặc tử:
“Xưa thầy dạy cho con: “Thiên hạ vô đạo thì kẻ sĩ có đức nhân không ở địa vị có lộc hậu”. Nay vua Vệ vô đạo mà con tham tước lộc của ông ta thì là cẩu thả ăn lúa gạo của người”.
Mặc tử mừng, gọi Tử Cầm tử lại bảo: “Nghe lời anh ấy nói không? Bỏ nghĩa để hưởng lộc, ta thường nghe có hạng người ấy; bỏ lộc mà theo nghĩa thì ta mới thấy có anh Cao Thạch tử”.
Câu “Thiên hạ vô đạo, nhân sĩ bất xử hậu yên”[1] nghĩa cũng như câu “Bang vô đạo, cốc, sỉ dã” của Khổng tử (Hiến vấn, bài 1) (nước vô đạo mà làm quan để ăn lương, là điều xấu hổ).
Nếu họ không tự ý từ chức thì Mặc tử có thể yêu cầu chủ của họ không dùng nữa, tức trường hợp của Thắng Xước.
Mặc tử sai Thắng Xước thờ Hạng tử Ngưu, Hạng tử Ngưu ba lần xâm chiếm Lỗ mà Thắng Xước đều theo giúp. Hay chuyện đó, Mặc tử sai Cao Tôn tử xin Hạng Tử Ngưu đuổi Thắng Xước về. Vì ông sở dĩ sai Thắng Xước thờ Hạng tử Ngưu là muốn Thắng Xước ngăn tính kiêu ngạo, và sửa những sai lầm của Hạng tử Ngưu làm bậy, như vậy là coi bổng lộc hơn điều nghĩa (Lỗ vấn – 20).
So sánh bài đó với bài 16 thiên Tiên Tiến (Luận ngữ), chúng ta thầy cách trừng phạt đệ của Mặc và Khổng khác nhau:
Nhiễm Hữu làm gia thần, thâu thuế cho họ Quí, một đại phu giàu có của nước Lỗ, mà bóp chẹn dân, như vậy là bất nhân, làm giàu thêm cho kẻ giàu, Khổng tử ra lệnh cho đệ tử: “Nó không phải là môn đệ của ta, các con nên đánh trống và công kích nó đi”. Chắc Nhiễm Hữu xấu hổ và sợ thầy hơn Thắng Xước.
Nghiêm khắc nhất là Mặc tử bắt môn đồ phải hi sinh cho lí tưởng, và theo Hoài Nam tử thì đa số sẵn sàng vì ông mà nhảy vào lửa, đạp lên mũi dao, chịu chết chứ không lùi bước. Điều đó có thể tin được, vì ba trăm đệ tử của Mặc do Cầm Hoạt Li cầm đầu, chắc chắn có tinh thần đó khi bảo vệ thành trì cho Tống, chống với quân đội hùng cường của Sở và khí giới tối tân của Công Thâu Ban.
Mà Mặc tử cũng không hề thương tiếc những môn đồ hi sinh vì lí tưởng đó, như bài 11 thiên Lỗ vấn (coi chương III, phần I). Đó là thái độ của một chính trị gia, một đảng trưởng chứ không phải một giáo chủ.
Không hiểu trước khi mất, Mặc tử có chỉ định một môn đệ nào thay mình làm lãnh tụ đoàn thể không. Nếu có thì có lẽ là Cầm Hoạt Li. Theo sách Trang tử (thiên Thiên hạ) thì các đời sau, Mặc gia gọi thủ lãnh của họ là “cự tử”, coi cự tử như bậc thánh, nguyện thờ cự tử, “mong kế thừa được truyền thống của đạo Mặc”. Sách Lữ Thị Xuân Thu kể tên ba cự tử: Mạnh Thắng, Phúc Thôn và Điền Tương tử.
Mạnh Thắng thờ Dương Thành Quân. Sau khi Ngô Khởi chết, Dương Thành Quân phải tội, trốn đi. Nước Sở đem quân tới đánh chiếm nước của Dương Thành Quân. Mạnh Thắng giữ không nổi, xấu hổ với lòng tin cậy của chủ, muốn tự tử. Một môn đệ của Mạnh Thắng tên là Từ Nhược can: “Chết mà có ích cho Dương Thành Quân thì nên chết; vô ích thì không nên vì như vậy làm cho đạo Mặc tuyệt mất”. Mạnh Thắng đáp: “Không phải vậy. Ta với Dương Thành Quân nếu không phải là tình thầy trò thì là tình bằng hữu, không phải là tình bằng hữu thì là tình vua tôi. Nếu ta không chết thì từ đây về sau, ai muốn tìm nguyên sư, tất không tìm người trong đạo Mặc, ai muốn tìm bằng hữu tất cũng không tìm người trong đạo Mặc, ai muốn tìm bề tôi hiền tất cũng không tìm người trong đạo Mặc. Ta chết đi là để thi hành điều nghĩa của họ Mặc mà nối nghiệp của người trước. Ta định để Điền Tương tử ở nước Tống thay ta làm cự tử. Điền Tương tử là người hiền, lo gì đạo Mặc bị tuyệt ở đời.
Từ Nhược thưa: “Thầy đã nói vậy thì tôi xin được chết trước”, rồi đập đầu ngay trước mặt Mạnh Thắng. Mạnh Thắng sai hai người đen chức cự tử truyền cho Điền Tương tử, rồi chết. Một trăm tám mươi ba người chết theo. Hai người truyền lệnh cho Điền Tương tử rồi, muốn về Sở để chết cùng Mạnh Thắng. Điền Tương tử ngăn: “Thầy Mạnh đã truyền chức cự tử cho ta rồi, hai anh phải nghe lời ta”.
Ngô Khởi chết năm -381. Vậy việc đó xảy ra ít nhất là vài ba chục năm sau khi Mặc tử mất.
Phúc Thôn sống ở Tần, có một người con giết người. Tần Huệ vương bảo Phúc Thôn: “Ông nay đã già mà không có người con nào khác. Quả nhân đã ra lệnh tha tội cho nó. Ông nên nghe lời quả nhân”. Phúc Thôn đáp: “Theo phép của đạo Mặc giết người thì phải tội chết, đả thương người thì bị tội hình, như vậy để cấm giết người và đả thương người. Cấm giết người và đả thương người là đại nghĩa của thiên hạ. Mặc dù nhà vua tha tội, không giết nó, nhưng Phúc Thôn không thể không thi hành phép của đạo Mặc”. Rồi người cha đó giết con. Trong lịch sử Trung Hoa chưa từng thấy lần nào sự mâu thuẫn giữa gia đình và đoàn thể đưa tới một bi kịch ghê gớm như vậy, cũng chưa bao giờ có một đoàn thể kỉ luật nghiêm đến như vậy.
Tần Huệ vương lên ngôi năm -338, tự xưng vương năm -325, việc kể trên phải xảy ra sớm nhất là năm -325, vậy bảy, tám chục năm sau khi Mặc tử mất, đoàn thể Mặc gia vẫn còn chặt chẽ, giữ được kỉ luật.
Về Điền Tương tử, chúng tôi chưa kiếm được tài liệu gì cả.
Ngô Tất Tố (sách đã dẫn – trang 216-217) bảo Mặc giáo rõ ràng là một tôn giáo vì hai lẽ:
“- Mặc tử tôn trời và thượng quỉ, cho trời, quỉ là thiêng liêng, sáng suốt, thưởng người thiện, phạt người ác; hơn nữa lại bảo người ta phải làm ra xôi, rượu để cùng trời, quỉ.
- Mặc tử có tư cách một vị giáo chủ như Thích Ca, Ki Tô, sốt sắng cứu đời, “mòn trán, lỏng gót”, cái gì lợi cho thiên hạ thì làm”.
Nhưng trang 215, Ngô Tất Tố lại bảo Mặc tử “lợi dụng lòng sợ trời, quỉ của loài người, mà bảo “kiêm ái là việc trời, quỉ vẫn muốn” để cho người dễ theo”.
Như vậy là ông cũng nhận như Phương Thụ Sở rằng: “Mặc tử bắt trời thay mình hành đạo”, mà lòng tin trời và tinh thần tôn giáo của Mặc thì không hơn gì của Voltaire, triết gia Pháp (thế kỉ XVIII) đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu không có Thượng Đế thì chúng ta phải tạo ra Thượng Đế”, “Một Thượng Đế ban hành thưởng phạt để vừa kìm hãm, vừa an ủi chúng ta”.
Chúng ta khó tưởng tượng được một “giáo chủ” mà lại có tinh thần duy lí, hoài nghi như vậy. Không rõ Mặc cùng môn đệ có tụng niệm không, chỉ biết ông không hề khấn vái để cầu phúc cho mình.
Ông không đặt ra lễ nghi, như các tôn giáo khác (như Kitô giáo, Hồi giáo); Khổng giáo ít nhất cũng có đàn Nam Giao để thờ trời. Các đệ tử của ông không có vẻ gì là một đoàn tăng lữ, mà chỉ là những quan lại, chiến sĩ lo việc đời, việc tục, hơn là việc tu hành, mà viên cự tử là một đoàn trưởng, đảng trưởng hơn là một giáo chủ. Cũng không có tín điều, huyền thoại (như thiên khải). Không có một khái niệm về thiên đường, địa ngục, không hề bàn về kiếp lai sinh, mà cũng không hề làm thoả mãn nhu cầu thần bí (mysticisme) của con người.
Hơn nữa, ngay các đệ tử vài ba thế hệ sau, cũng không tin trời và quỉ nữa, nên phái Biệt Mặc không bàn gì về thần quyền cả. Thế là nếu có giáo hội thì giáo hội cũng đã tan rã.
Vậy chỉ có thể gọi Mặc giáo là một tôn giáo theo cái nghĩa “giáo lí” của phương Đông thời xưa, chứ không thể theo cái nghĩa “réligion” ngày nay, vì một réligion thì phải có đủ một hệ thống tín điều, huyền thoại, một giáo hội với các lễ nghi và một hệ thống đạo đức. Mặc học cũng như Khổng học chỉ mới có một hệ thống đạo đức thôi.
André Malraux trong cuốn Antimémoire (Gallimard – 1967) bảo dân tộc Trung Hoa rất ít có tinh thần tôn giáo. Lời đó có phần đúng. Ba đạo lớn của họ đều không phải tôn giáo, mà chỉ là những triết học chú trọng tới nhân sinh và chính trị.
Đạo Khổng từ đời Hán được coi là quốc giáo mà suốt mấy ngàn năm không thành một tôn giáo. Ở Sơn Đông còn đền thờ ông; ở nước ta, ở các kinh đô, mỗi tỉnh, mỗi phủ cũng có văn miếu hay văn chỉ thờ ông, nhưng chỉ những người có khoa bảng mới được dự việc tế và mỗi năm cũng chỉ tế hai kì vào mùa xuân và mùa thu. Vậy người ta thờ ông là thờ vị “vạn thế sư biểu”, chứ không phải thờ một vị giáo chủ, một vị thần linh.
Lão tử không nói đến Thượng Đế, mà chỉ nói tới Đạo, tức một cái gì đó “vừa lớn vừa trống không, đứng một mình mà không biến đổi, trôi đi khắp nơi mà không ngừng”, cái đó mới là nguyên thuỷ của trời đất, vạn vật. Lão, Trang không hề thờ trời.
Tới cuối thời Chiến Quốc, Lão giáo hợp với Âm dương gia, biến tái đi, không còn là một triết học mà thiên về dị đoan, tin rằng có phép trường sinh, tìm cách điều hoà âm dương, lấy trộm cái huyền vi của trời đất chế ra cách luyện đan, cách luyện tinh, khí, thần để được bất tử. Từ đó, Lão giáo biến thành Đạo giáo, một thứ tu tiên. Phái đó thờ Hoàng đế, sau tôn Lão tử làm Thái Thượng Lão Quân chỉ vì họ hiểu sai câu này trong Đạo Đức kinh: “Tử nhi bất vong giả thọ”, tin rằng Lão tử có thể trường sinh bất tử được. Vậy cũng không thể coi Đạo giáo như Ki Tô giáo, Hồi giáo, Bà La Môn, Phật giáo được.
Mặc giáo chủ trương thờ trời, thần linh, thương yêu mọi người, có thể thành một tôn giáo như Ki Tô giáo được; nhưng Mặc tử và đệ tử quá lo về mặt chính trị, suốt đời bôn ba thuyết phục các nhà cầm quyền mọi nước, dắt nhau đi giữ thành nước Tống; lại có tinh thần thực tiễn quá, cho nên không tạo nổi một tôn giáo, mà sau khi ông chết, các đệ tử càng ngày càng thiên về triết học hơn, bỏ phần tín ngưỡng cần thiết cho một tôn giáo để chú trọng về tri thức luận, biện học, khoa học.
Tóm lại, kẻ “sĩ” Trung Hoa có tinh thần duy lí, thực tiễn mà giữ cho Khổng giáo không thành một tôn giáo; còn hạng bình dân của Trung Hoa cũng như của mọi dân tộc khác, bao giờ cũng thiên về dị đoan, biến Lão giáo thành Đạo giáo; và khi Phật giáo ở Ấn Độ truyền qua, dân chúng thấy nó làm thoả mãn được nhu cầu thần bí của mình, chấp nhận nó ngay, nhưng giới “sĩ” ngược lại muốn giữ tinh thần triết học của Phật giáo, phát huy phần đại thừa (cũng gọi là đại thặng) hơn là phần tiểu thừa.
Muốn tìm một tín ngưỡng chung cho dân tộc Trung Hoa, đặc biệt của dân tộc Trung Hoa thì chúng ta chỉ có thể nói như Glasenapp trong Les cinq grandes réligions (Payot – 1954) rằng tôn giáo của họ là Vũ trụ giáo (Universisme) vì cả đạo Khổng, Lão, Mặc, cả kẻ sĩ lẫn bình dân của họ đều tin rằng vũ trụ gồm ba thành phần trời, đất và người – mà họ gọi là “tam tài” – ba thành phần hoàn toàn là một, vì hỗ tương ảnh hưởng tới nhau, và đều theo một luật chung, một trật tự chung, tuy biến đổi mà không hỗn độn, rốt cuộc vẫn giữ được sự điều hoà cần cho sự tồn tại.
Vậy Mặc tử không phải là một giáo chủ, mà là một triết gia. Học thuyết của ông là một triết thuyết chính trị có hệ thống mặc dầu không chặt chẽ, đôi chỗ mâu thuẫn.
Chúng ta có thể tưởng tượng được quốc gia lí tưởng của ông.
Trong quốc gia đó:
- Ai cũng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, làm lợi cho nhau như cho chính mình, thực hiện đúng ý muốn của trời là kiêm ái; do đó không có trộm cướp, không ai hà hiếp ai, nước thật là trị, mà cũng không gây chiến với nước khác.
- Rất có trật tự, kẻ dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên: cá nhân phải thống nhất với gia đình; gia đình với hàng xóm; làng xóm với huyện, tỉnh; huyện tỉnh với triều đình tức vua; và sau cùng vua với trời và quỉ thần (ai cũng thờ trời và quỉ thần).
- Người thiện được khen thưởng, kẻ ác thì bị trừng trị; cứ từ dưới báo cáo lên trên. Có sự chế tài bằng chính trị, tức của nhà cầm quyền; ở trên cùng có sự chế tài của tôn giáo, tức của trời và thần linh. Như vậy Mặc rất coi trọng sự thưởng phạt; không dùng sự giáo hoá bằng lễ nhạc.
Mặc dầu xã hội rất có tôn ti, nhưng không có giai cấp nào được có đặc quyền; mọi người được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ. Ai có tài đức thì dù là bình dân cũng được giao cho trọng trách, không có tài đức thì dù là quí tộc cũng thành bình dân; từ vua tới dân thường, ai cũng phải siêng năng, làm việc hết sức mình theo một sự phân công tuỳ khả năng của mỗi người; ai cũng phải tiết kiệm, sống đạm bạc, không ai có thể bắt người khác phụ vụ mình, thoả mãn những nhu cầu xa hoa của mình, vì như vậy là cướp thì giờ, cái ăn cái mặc của người khác.
- Ai cũng đủ ăn, đủ mặc, mệt nhọc thì được nghỉ ngơi, chỉ có ba nhu cầu đó là căn bản thôi.
- Bỏ hết mĩ thuật, những tốn phí không làm lợi cho dân, ma chay, tang lễ giảm tới mức tối thiểu, như người thượng cổ, thời còn bộ lạc; không cả đàn ca múa hát nữa.
Trai thì 20 tuổi, gái thì 15 tuổi, phải có vợ có chồng để sinh sản cho nhiều mà dân số tăng mau lên.
B. CÔNG CỦA MẶC TỬ
Rất nhiệt tâm cứu đời, Mặc tử có tinh thần cách mạng cao. Khi Công Mạnh tử bảo: “Người quân tử không sáng tác [đưa ra thuyết mới], chỉ thuật lại [đạo của người xưa] thôi”, ông đáp:
- Không phải vậy […] Tôi cho rằng đời xưa có gì hay thì thuật lại, mà mình có gì hay cũng đưa ra, như vậy là muốn cho cái hay càng nhiều lên.
(Công Mạnh tử viết: “Quân tử bất tác, thuật nhi dĩ”. Tử Mặc tử viết: “Bất nhiên… Ngô dĩ vi cổ chi, dục thiện chi ích đa dã. - Canh Trụ, 17).
Ông lại biết tuỳ hoàn cảnh mà sửa đổi xã hội. Bài 15 thiên Lỗ vấn, ông khuyên một môn sinh là Nguỵ Việt:
“Vô một nước nào thì lựa việc mà làm. Một nước loạn thì giảng về đạo trọng người hiền, tán đồng với người trên; một nước nghèo thì giảng về phép bớt tiêu xài, tiết giảm việc ma chay; một nước thích âm nhạc, chìm đắm trong rượu thì khuyên bỏ nhanh đi, đừng tin có số mạng; một nước chỉ lo việc xâm chiếm nước khác thì giảng về đạo kiêm ái, không đánh nước người, cho nên bảo: “Phải lựa việc mà làm [tuỳ mỗi nước]” (Trách vụ nhi tòng sự).
Vì vậy ta không bảo ông là phục cổ được, mặc dầu rất nhiều lần ông dẫn hành vi của ba đời thánh vương (Nghiêu, Thuấn, Thang, Văn vương, Võ vương) để làm gương, và xã hội lí tưởng của ông có nhiều điểm giống thời bộ lạc,
Ông thấy xã hội đương thời có nhiều xấu xa, một phần do Khổng giáo gây ra, nên ông muốn sửa đạo Khổng. Ông đả đảo lễ, nhạc của Khổng tử mà dùng thưởng phạt; đả đảo tục ma chay hậu hĩ và để tang lâu của Khổng; cho đạo nhân là tốt, nên ông chỉ sửa nó[2], khuyết trương nó thành đạo kiêm ái; biết nhận thuyết thượng hiền của Khổng là đúng, nhưng ông cũng sửa lại cho công bằng hơn, bỏ đặc quyền thế tập của giai cấp quí tộc để cho giai cấp bình dân của ông khỏi bị thiệt thòi.
Vì vậy chúng ta có thể nói một mặt ông bình dân hoá đạo Khổng, một mặt đưa ra những chủ trương mới mẻ, táo bạo mở đường cho các Pháp gia như Thương Ưởng, Hàn Phi sau này; như bắt dân phải tuyệt đối phục tòng bề trên, phải tố cáo những kẻ ác lên cấp trên, nếu không thì phải chịu tội như chính mình làm điều ác; trọng cách thưởng phạt hơn là cách giáo hoá bằng lễ nhạc; trọng cách xét ngôn ngữ và hành vi của người dưới trước khi giao việc; nhất là huỷ bỏ quyền thế tập của giai cấp quí tộc.
Trong ba phái chủ trương “hữu vi” ở thời Xuân Thu và Chiến Quốc – hữu vi hiểu theo nghĩa can thiệp vào đời sống của dân – chúng ta thấy Mặc tử đứng ở giữa, làm gạch nối cho Nho và Pháp; và triết học chính trị thời đó, càng ngày càng tăng phần hữu vi lên; còn chủ trương “vô vi” của Lão, Trang, Liệt tử chỉ bừng lên không lâu và không ảnh hưởng gì nhiều tới nhà cầm quyền[3].
Ưu điểm của Mặc học khá nhiều: thực tâm yêu dân, lo cho dân; đả đảo chiến tranh xâm lăng; muốn tạo một xã hội công bằng, bình đẳng, đề cao tính cương cường, sự cần lao, và tiết kiệm… Ngoài ra về tri thức luận, Mặc tử đã nêu ra ba tiêu chuẩn để lí luận (tức tam biểu, hay tam pháp) mặc dầu khi áp dụng, ông quá dễ dãi, chủ quan, ngây thơ nữa.
Mà khuyết điểm cũng không ít. Trong các chương trên chúng tôi đã nói ở thời đại ông, mà ngay cả thời đại chúng ta ngày nay nữa, thuyết kiêm ái lí tưởng quá, không hợp tình người, vì phải tổ chức ra sao, để thi hành kiêm ái ở khắp nơi rồi cá nhân mới thi hành được; nếu không vậy, cá nhân nào muốn kiêm ái thì phải đừng có gia đình. Mặc gia đời sau hiểu vậy nên đã sửa lại thuyết đó, thành thuyết “luân liệt”, nghĩa là yêu mọi người ngang nhau nhưng phân biệt theo thứ tự, yêu người thân của mình trước.
Mặc bắt dân khắc khổ quá, cũng không hợp tình người. Ông không trọng tình cảm mà chê lễ nhạc, không hiểu công dụng lớn của lễ nhạc trong sự giáo hoá.
Bỏ hết xa xỉ, mĩ thuật, chỉ trọng nông và một vài công nghiệp căn bản – tức là làm cho nước nghèo. Một xã hội như vậy sẽ vĩnh viễn ở vào giai đoạn đầu của văn minh nông nghiệp, không sao tiến lên được.
Hữu thần luận của ông làm cho dân quá mê tín, trở về tôn giáo thời ăn lông ở lỗ.
Ngoài ra, ông lại mâu thuẫn với ông như chúng tôi đã trình bày ở chương trên: không ai được hưởng thụ, dù vua quan cũng phải sống cực khổ như dân, mà lại cho bậc hiền nhân được tước cao, lộc hậu, họ sẽ dùng cái lộc hậu để làm gì?
Dưới đây chúng tôi xin trích thêm một đoạn trong sách Trang tử phê bình Mặc tử:
“Mặc Địch và Cầm Hoạt Li, tỏ ra thái quá trong việc họ làm và dễ dàng quá trong việc họ cấm. Họ cấm nhạc lấy lẽ rằng để tiết kiệm; bảo sống không nên ca hát, người thân chết thì không nên bận đồ tang. Mặc tử chủ trương kiêm ái, mưu cái lợi chung cho mọi người, phản đối chiến tranh. Đạo của ông là không oán giận, ông hiếu học, biết rộng nhưng không chấp nhận những ý kiến khác mình. Ông không đồng ý với thánh vương đời xưa, bỏ hết lễ nhạc. Về cổ nhạc thì Hoàng Đế đặt ra điệu Hàm Trì, vua Nghiêu có điệu Đại Chương, vua Thuấn có điệu Đại Thiều, vua Vũ có điệu Đại Hạ, vua Thang có điệu Đại Hộ, Văn vương có điệu Tịch Ung, vua Võ vương và ông Chu Công có điệu Vũ. Tang lễ thời xưa, sang hèn đều có nghi lễ[4] nhất định, phân biệt đẳng cấp trên dưới, như thiên tử có bảy lớp quan quách, chư hầu có năm lớp, đại phu ba, kẻ sĩ hai. Riêng Mặc tử thì khi sống cấm ca hát, khi người thân chết thì cấm mặc đồ tang, áo quan bằng gỗ vông chỉ dày ba tấc, mà không có quách, đó là phép chung cho mọi người.
“Đem đạo đó dạy người, đâu phải là yêu người, chính mình theo đạo đó thì cũng không phải là yêu mình. Tôi không công kích đạo Mặc tử; nhưng người ta ca hát mà ông ấy cấm; người ta khóc [người chết] mà ông ấy cấm; người ta chơi âm nhạc mà ông ấy cấm, như vậy có hợp nhân tình không? Sống thì lao khổ, chết thì bị chôn cất bạc bẽo, cái đạo ấy khắc nghiệt quá, khiến người ta ưu uất, buồn rầu, khó thi hành được. Tôi còn ngại rằng nó không phải là đạo của thánh nhân, trái với lòng người, không ai chấp nhận nó. Tuy một mình Mặc tử theo được, nhưng còn những người khác thì sao? Ông ấy cách biệt với thiên hạ như vậy, thật là xa đạo của thánh vương quá…
“Dụng tâm của Mặc tử và Cầm Hoạt Li tốt, nhưng thực hành sai... Mặc tử quả là người tốt trong thiên hạ, không tìm được người nào khác như ông ấy, chịu cực khổ, dù cho thân thể khô đét, ông ấy cũng không bỏ việc giúp đời. Thật là bậc sĩ có tài năng [nhiệt tâm]”.
(Mặc tử chân thiên hạ chi hảo dã, tương cầu chi bất đắc dã. Tuy khô cảo, bất xả dã. Tài sĩ dã phù).
Phùng Hữu Lan nhận lời phê bình đó là đúng và bảo: “Phải chăng đó là một lí do khiến cho đạo Mặc không được dùng ở đời sau?”. Theo chúng tôi đó là lí do chính.
Nó không thời nào được dùng nhưng khoảng năm chục năm trước đây, nó được một số nhà cách mạng Trung Hoa đề cao vì nó có nhiều điểm giống lí thuyết cộng sản: nó bình dân, thuyết kiêm ái của nó tựa như thuyết cộng sản ngày nay gọi là “làm chủ tập thể”; chủ trương thượng đồng của nó không khác thuyết kẻ dưới phải tuyệt đối phục tùng bề trên và tố cáo kẻ nào chống lại chính quyền. Đáng tiếc cho Mặc Địch sinh trước Lénine và Mao Trạch Đông non hai ngàn rưỡi năm.
Chú thích:
[1] 天下無道,仁士不處厚焉 (Theo http://zhidao.baidu.com/question/32433918). (Goldfish).
[2] Bản nguồn chép là: “để tang lâu của Khổng là tốt, nên ông chỉ sửa nó”, tôi tạm sửa lại thành: “để tang lâu của Khổng; cho đạo nhân là tốt, nên ông chỉ sửa nó”. (Goldfish).
[3] Như vậy thì chúng ta phải thay đổi lối viết sử thời Xuân Thu và Chiến Quốc, không nên chỉ chép các chiến tranh thôn tính lẫn nhau của ngũ bá, mà nên nhấn vào chính sách trị dân của Quản Trọng tới Thương Ưởng, Lí Tư để làm nổi bật tính cách mỗi ngày một tăng của chủ trương hữu vi đó.
[4] Đoạn “có điệu Vũ… đều có nghi lễ” là do tôi ghi thêm theo cuốn Trang Tữ - Nam Hoa kinh (thiên Thiên hạ, bài 3) của Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).