PHẦN BA - BIỆT MẶC VÀ MẶC KINH CHƯƠNG I SAU KHI MẶC TỬ MẤT
A. CÁC PHÁI
Mặc tử mất rồi, Mặc học chia thành những giáo phái nào? Về điểm đó chúng ta chỉ có hai tài liệu: một trong thiên Thiên hạ, sách Trang tử, một trong thiên Hiển học của Hàn Phi.
Thiên Thiên hạ chép:
“Đệ tử của Tương Lí Cần, môn sinh của Ngũ Hầu và những Mặc gia ở phương Nam như Khổ Hoạch, Dĩ (hay Kỉ) Xỉ, Đặng Lăng tử… đều tụng Mặc kinh mà càng có những tư tưởng quái dị, chống đối nhau, tự xưng là Biệt Mặc, công kích nhau bằng những lí luận “kiên bạch” (cứng và trắng), “đồng dị” (giống nhau và khác nhau); “lẻ và chẵn giống nhau”[1]; nhưng hết thảy đều coi các cự tử là thánh nhân, nguyện thờ cự tử, mong kế thừa được truyền thống của đạo Mặc”[2].
Thiên Hiển học chép:
“Sau khi Mặc tử chết, có phái Mặc của họ Tương Lí, có phái Mặc của Tương Phu, có phái Mặc của Đặng Lăng. Như vậy… Mặc tách ra làm ba phái, chủ trương khác nhau, mà đều là chân truyền của Mặc… Mặc tử đã không sống lại thì ai là người quyết định được học phái nào chân chính cho đời?”.
Theo hai tài liệu đó thì:
- Ở thời tác giả thiên Thiện hạ, Mặc gia chia làm hai phái:
Bắc: có Tương Lí Cần và Ngũ Hầu.
Nam: có Khổ Hoạch, Đặng Lăng tử và Dĩ Xí.
- Mà ở thời Hàn Phi, Mặc gia chia làm ba phái, ngoài hai phái kể trên, thêm phái Tương Phu nữa.
Chúng ta không thể tra khảo ở đâu để biết được Tương Lí Cần, Tương Phu, Đặng Lăng sống ở thời nào và chủ trương của họ khác nhau ra sao. Trong thiên Thiên hạ, chúng ta để ý đến hai danh từ Mặc Kinh và Biệt Mặc. Biệt Mặc gồm những ai? và Mặc Kinh do ai viết? Cho tới nay ý kiến vẫn còn phân vân.
Hồ Thích trong Trung Quốc triết học sử đại cương và Lương Khải Siêu trong Mặc gia cập Mặc học biệt phái đều cho rằng Huệ Thi, Công Tôn Long và một số biện giả khác đều ở trong phái Biệt Mặc. Họ ít chú trọng đến chính trị, đến thuyết kiêm ái, phi công, ít ai tin trời và quỉ thần mà chuyên về môn biện luận, nên họ tách rời ra. Họ tự xưng là Biệt Mặc hay người đương thời gọi họ là Biệt Mặc, chúng ta cũng không biết.
Nhưng Phùng Hữu Lan và Phương Thụ Sở đều bác thuyết đó. Đại khái Phùng bảo (tr.307-8): Nho và Mặc đều chú trọng vào thực dụng, căn cứ vào thường thức, vào cảm giác mà giải thích vũ trụ, còn bọn biện giả, trái lại chỉ dùng lí trí suy luận mà giải thích vũ trụ. Vì vậy cuối thời Chiến Quốc cả Nho lẫn Mặc đều đả phái Biện giả: Tuân (Nho) viết thiên Chính danh và Biệt Mặc viết Mặc Kinh trong đó họ phản đối lí luận của Huệ Thi và Công Tôn Long (như bác câu: Núi với chằm cao bằng nhau của Huệ Thi). Vậy thì sao có thể sắp Huệ Thi và Công Tôn Long vào phái Biệt Mặc được.
Phương Thụ Sở còn đưa thêm lí do này nữa: Huệ Thi thờ Lương Huệ vương, một ông vua mà Mạnh tử chê là bất nhân, vì hiếu chiến, mà Huệ Thi lại được Lương Huệ vương tin cậy, tôn kính, gọi là “trọng phụ” thì đâu phải là theo Mặc tử, kiêm ái và phi công. Huệ không phải là “chân Mặc” hay “Biệt Mặc”[3], chỉ là một nhà nguỵ biện trong phái Danh gia.
Sở dĩ Hồ Thích cho Huệ Thi là Biệt Mặc chỉ vì câu: “Phiếm ái vạn vật, thiên địa nhất thể dã” (yêu khắp muôn vật, trời đất là một), Nhưng nếu chỉ vì vậy thì chúng ta cũng có thể nói Trang tử là Mặc gia vì trong thiên Tề vật luận, Trang cũng chủ trương “thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất”[4].
B. TÁC PHẨM MẶC KINH
Ở phần I, chương IV, chúng tôi đã nói bộ Mặc tử gồm 5 “tổ”, mà tổ thứ ba gồm sáu thiên: Kinh thượng, Kinh thuyết thượng, Kinh hạ, Kinh thuyết hạ, Đại thủ, Tiểu thủ. Sáu thiên đó gọi là Mặc Kinh (có người gọi là Biện Kinh).
Cao Hanh trong Mặc Kinh hiệu thuyên (Thái Bình thư cục – 1966) tr.1, căn cứ vào câu trong thiên Thiện hạ chúng tôi đã dẫn ở trên: “Đệ tử của Tương Lí Cần, môn sinh của Ngũ Hầu và những Mặc gia ở phương Nam như Khổ Hoạch, Dĩ Xỉ, Đặng Lăng tử đều tụng Mặc kinh…” mà cho rằng Mặc Kinh “mới đầu do Mặc tử viết, cho nên môn đồ của Mặc tử mối đều đọc và gọi là Mặc Kinh”; nhưng hai thiên Kinh cũng có Mặc gia đời sau viết thêm vào, còn hai thiên Kinh thuyết thì đại khái đều do ngọn bút của đời sau cả.
Phùng Hữu Lan – tr.110-111, theo thuyết của Cố Hiệt Cương trong Cổ sử biện bảo thời Mặc tử trở về trước, chưa có thể loại “kinh”, cũng chưa có thể loại “tư luận” (bàn về một vấn đề như phần lớn các thiên trong Tuân Tử), chỉ mới có thể loại “kí ngôn” (ghi lại lời nói) như trong Luận ngữ; mãi sau nửa thời Chiến Quốc, nhân phong trào du học cực thịnh, người ta mới ghi chép thật vắn tắt cho dễ nhớ, do đó mới có thể loại “kinh”, như Mặc kinh, Đạo kinh trong Tuân tử, Ngoại trừ thuyết kinh trong Hàn Phi tử. Còn hai thiên Đại thủ, Tiểu thủ dùng thể loại “tư luận” lại biện luận về những vấn đề “cứng trắng”, “bò ngựa không phải là bò” (ngưu mã phi ngưu), tức là những vấn đề ngay thời Mặc tử cũng chưa ai nêu ra. Vậy cả sáu thiên trong tổ ba đó, đều không phải của Mặc tử viết, và sở dĩ người ta sắp Đại thủ, Tiểu thủ vào bốn thiên kia rồi gọi chung là Mặc Kinh, mặc dầu Đại thủ, Tiểu thủ không phải là kinh, chỉ vì nội dung hai thiên đó với bốn thiên kia có nhiều điểm giống nhau.
Chúng tôi nghĩ nếu Mặc tử muốn viết sách và có thì giờ để viết thì tất ông trình bày những thuyết kiêm ái, thượng đồng, thiên chí, tiết dụng… để cứu đời trước đã, rồi mới bàn về tri thức luận, biện luận, khoa học như trong Mặc Kinh, mà trong phần I chúng tôi đã nói, trọn hai mươi bốn thiên trong tổ hai: Thượng hiền, Thượng đồng, Kiêm ái, Phi công v.v… đều do môn sinh viết cả. Vả lại Mặc Kinh từ nội dung đến bút pháp, đều khác xa các thiên trong tổ hai quá, khó có thể cho là của Mặc tử được.
Vậy thì là của ai? Chỉ có thể đoán rằng của nhiều Mặc gia viết: họ sống đồng thời hoặc sau Huệ Thi, Công Tôn Long. Phương Thụ Sở (tr.156) còn ngờ Mặc Kinh là một công trình tập thể của các cự tử và học giả theo Mặc giáo.
Nội dung Mặc Kinh
Kể cả bốn thiên: hai Kinh thuyết[5] (thượng, hạ), để giải thích phần Kinh – không gồm quá sáu ngàn chữ, mà nội dung bao quát rất nhiều vấn đề, từ triết học (tri thức luận, vũ trụ luận…), đạo đức, chính trị, kinh tế tới khoa học: số học, hình học, vật lí…
Đại khái, các tác giả gặp đâu nói đấy, thấy các nhà khác đưa ra một thuyết nào thì bác hoặc giả thích thêm, hễ thấy đích là phóng mũi tên (hữu đích phóng thỉ), khi thì bắt bẻ các Danh gia (nhất là Huệ Thi), khi thì chê Lão tử, Trang tử, Trâu Diễn… Nội dung rất phức tạp, không sắp đặt, phân loại, không có hệ thống gì cả: như một cuốn sổ tay vậy thôi.
Theo Ngô Tất Tố thì Kinh thượng giải thích về giới thuyết, Kinh hạ giải thích về các định lí; Đại thủ bàn về nhiều học thuyết trọng yếu, còn Tiểu thủ thì nói về các phương pháp biện luận (tr.149). Lời đó chỉ đúng một phần thôi, thực ra không có ranh giới rõ rệt như vậy: trong Kinh thượng cũng đưa ra một số định lí hình học; mà trong Kinh hạ cũng phê phán học thuyết của Lão, Trang, Trâu Diễn…
Tóm tắt nội dung như Phương Thụ Sở (tr.157) có phần hợp lí hơn. Phương chia làm năm mục chính:
1- Tu chính là phát triển học thuyết của Mặc tử;
2- Xã hội học như đạo đức, chính trị, kinh tế (phần nhiều ở nửa đầu Kinh Thượng);
3- Ứng dụng khoa học như sử học, hình học, vật lí (nhiều nhất ở phần cuối Kinh Thượng), quang học (ở phần đầu Kinh hạ);
4- Tri thức luận và biện học (Kinh thượng và hạ đều có những Tiểu thủ chuyên bàn về “biện học”);
5- Bác học thuyết của các nhà khác.
Hình thức
Về hình thức, Mặc kinh cũng rất đặc biệt ở chỗ quá giản lược, sâu kín (nếu không muốn nói là bí hiểm) đến nổi suốt hai ngàn năm, từ khi Mặc học suy tàn ở đầu đời Hán, mãi tới đầu đời Thanh, không ai đọc nổi, hiểu nổi. Theo lối hồi xưa, người ta cứ chép một mạch từ đầu kinh tới cuối kinh, không cấm câu, không xuống hàng, Kinh và Kinh thuyết sắp đặt lộn xộn hết[6]. Lại thêm trong hai chục thế kỉ đó, sao đi chép lại không biết bao nhiêu lần, nên sai lầm thiếu sót không biết bao nhiêu mà kể.
Đời Tấn, Lỗ Tháng[7] ráng chú giải, chẳng may bản đó thất truyền. Phải đợi mãi đến đời Càn Long nhà Thanh, mới có một học giả tên là Tất Nguyên (có sách chép sai là ) ra công nghiên cứu, mò mẫm rất lâu rồi mới tìm ra được cách đọc. Ông tự là Thu Phàm, đậu tiến sĩ, làm quan đến chức tổng đốc Hồ Quảng, học rất rộng, từ kinh sử đến địa lí, địa chất, soạn các bộ Truyền kinh biểu, Kinh điển biện chính, Tục Tư trị thông giám… Có thể nói ông là người phát kiến được Mặc Kinh, nếu không thì Mặc Kinh tuy còn đó mà cũng như không vì không ai đọc nổi.
Từ Tất Nguyên đến nay, có hàng chục học giả nghiên cứu, hiệu đính, chú giải thêm; vậy mà Cao Hanh trong Mặc Kinh hiệu thuyên cũng phải thú rằng đã mất nhiều năm khảo đính, châm chước các thuyết cũ, mới đọc thông được, rồi chú giải, nhưng không dám tin rằng mình hoàn toàn đúng.
Để độc giả thấy đại khái hình thức kinh đó ra sao, chúng tôi xin chép lại dưới đây điều thứ nhất và thứ nhì trong số một trăm điều của Kinh thượng[8] sau khi được Cao Hanh sắp đặt lại, chấm câu, hiệu đính, chú giải.
Điều 1
Kinh: 故,所得而後成也。
Thuyết: 「故」小故有之不必然無之必不然體也若有端大故有之必無然若見之成見也。
「若有端」[9]
Nguyên văn điều 1 trong Kinh thượng và Kinh Thuyết thượng chỉ có bấy nhiêu. Phần Kinh không có gì sai, lầm, không hiệu đính. Nhưng phần Thuyết, Cao Hanh thấy sai, và đề nghị sửa lại như sau: [ ], ngờ là thiếu chữ, nên sửa lại là: (theo thuyết của Ngũ Phi Bách) [ ], ngờ là sai và thiếu bốn chữ, nên sửa lại là: (theo thuyết của Tôn Di Nhượng 孙诒诒)[10].
Sửa lại như vậy rồi thì thành:
Kinh: Cố: Sở đắc nhi hậu thành dã (y như cũ).
Thuyết: (Cố) Tiểu cố hữu chi bất tất nhiên, vô chi tất bất nhiên, thế dã, nhược xích hữu đoan. Đại cố hữu chi tất nhiên, vô chi tất bất nhiên, nhược kiến chi thành kiến dã.
Và Cao Hanh giảng như sau:
Kinh. Điều 1 này nói về “cố”, tức cái nhân (trong nhân quả). Việc gì cũng có nhân rồi mới có quả, đó là cái cốt yếu của luật nhân quả. Cho nên bảo: “Cố” là cái sở đắc (được rồi, có rồi) rồi sau mới thành.
Thuyết. Điều 1 này nói về luật nhân quả. Việc nào cũng vậy, có nhân thì có quả, không có nhân thì không có quả, đó là cái cốt yếu của luật nhân quả, nếu nguyên nhân là đơn thuần, nghĩa là có một nhân mà thành một quả thì ngày nay gọi là “đơn nhân”; nếu nguyên nhân này phức tạp, nghĩa là phải có nhiều nguyên nhân mới thành một quả, thì ngày nay gọi là “kiêm nhân”, mỗi cái nhân trong số kiêm nhân đó nay gọi là “thể nhân” (體因). Hai chữ “tiểu cố” trong đoạn này, tức trỏ “thể nhân”. Có thể nhân chưa nhất định là có quả nhưng không có thể nhân thì nhất định là không có quả. Cho nên bảo: “Tiểu cố, có nó thì chưa nhất định như vậy, không có nó thì nhất định không như vậy” (Tiểu cố, hữu chi bất tất nhiên, vô chi bất tất nhiên). Thí dụ: chết rét là do ba nguyên nhân: trời rét dữ, không có áo ấm, nhà không ấm. Ba nguyên đó gọi chung là kiêm nhân, tách ra từng nguyên nhân ra thì gọi là thể nhân. Nếu chỉ có một trong ba nguyên nhân đó thì chưa nhất định có cái quả là chết rét, cho nên bảo “chỉ có nó thì chưa nhất định[11] như vậy”. Nếu không có một trong ba nguyên nhân đó thì nhất định không có cái quả là chết rét, cho nên bảo “không có nó thì nhất định không như vậy”.
Theo điều 2 (coi ở sau), thì “thể” từ “kiêm” chia ra (thể phân ư kiêm dã). Thể nhân tức là một phần của kiêm nhân, vì vậy mà gọi là “thể” [cũng như ngày nay gọi là bộ phận]. Đường thẳng trong hình học, Mặc Kinh gọi là “xích” (thước). Cái chấm trong hình học, Mặc Kinh gọi là “đoan” (đầu mối). Hợp nhiều cái thể thành cái kiêm, cũng như hợp nhiều điểm thành một đường thẳng. “Kiêm nhân” gồm nhiều “thể nhân” cũng như đường thẳng gồm nhiều điểm. Cho nên bảo: Như cái “xích” có cái “đoan” (Nhược xích hữu đoan) 若尺有端.
“Đại cố” tức là “đơn nhân”. Hễ có đơn nhân thì tức có quả, không có đơn nhân thì không có quả. Cho nên bảo: “Đại cố, có nó thì nhất định như vậy, không có nó thì không nhất định như vậy” (Đại cố, hữu chi tất nhiên, vô chi tất bất nhiên). Thí dụ: Chết đói, nguyên nhân chỉ có một: Không ăn. Đó là “đơn nhân”. Hễ có cái nhân là “không ăn” thì nhất định có kết quả là “chết đói”, cho nên bảo: “Có nó thì nhất định như vậy” (hữu chi tất nhiên); không có cái nhân “không ăn” thì nhất định không có cái quả “chết đói”, cho nên bảo: “Không có nó thì nhất định không như vậy”. Thì dụ: Mắt nhìn một vật gì[12] tất phải thấy vật đó, dù trong đêm tối thì cũng thấy mờ mờ. Cho nên bảo: Như: “Cái mình nhìn thành ra cái mình thấy” (Nhược kiến chi thành kiến dã)[13].
Tóm lại: Luật nhân quả trong điều 1 này là: “Một việc nào do nhiều nguyên nhân mà thành, nếu có một nguyên nhân thì chưa nhất định là có kết quả, nếu thiếu một nguyên nhân nhất định không có kế quả. Một việc nào chỉ do một nguyên nhân mà thành, có nguyên nhân đó thì nhất định có kết quả, không có nguyên nhân đó thì nhất định không có kết quả”.
Vậy “tiểu cố”, tức “thể nhân” trong điều 1 này, tức như toán học này nay gọi là điều kiện ắc có mà không đủ (condition nécessaire et non suffisante); còn “đại cố”, tức “đơn nhân”, toán học ngày nay gọi là điều kiện ắt có và đủ (condition nécessaire et suffisante).
Điều 2
Kinh: 體,分於兼也。
Thuyết:「體」罢若二之一,尺之端也。[14]
(Tất cả phần kinh và phần thuyết, nguyên văn đều đúng, không phải hiệu chỉnh). Cao Hanh giảng như sau:
Kinh: Tổng thể của vật, Mặc Kinh gọi là “kiêm”; một bộ phận của vật, Mặc Kinh gọi là “thể”. Bộ phận do tổng thể (toàn thể) chia ra, cho nên bảo: “Thể, từ kiêm mà chia ra” (Thể phân ư kiêm).
Thuyết: Điều này đưa ra một “lệ” (một định nghĩa) để giải thích Kinh. Họp một cái, một cái nữa mà thành hai cái, cho nên “hai” là “kiêm”, mà một là “thể”. Đường thẳng trong hình học, Mặc Kinh gọi là “xích”; cái chấm trong hình học, Mặc Kinh gọi là “đoan”. Họp nhiều “đoan” lại thành “xích”, cho nên “xích” là “kiêm” mà “đoan” là “thể”. Cho nên bảo: “Thể: Như một của hai, đoan của xích” (Nhược nhi chi nhất, xích chi đoan dã).
Đọc điều 1 và điều 2 dẫn ở trên, chúng ta thấy Kinh rất vắn tất, chỉ như một thứ “aide mémoire) cho nên phải có “thuyết” để giảng; nhưng chính thuyết cũng chưa đủ sáng sủa, người sau lại phải giảng thêm nữa.
*
* *
Chúng tôi chỉ có mỗi một bản hiệu đính và chú giải của Cao Hanh, do Thái Bình thư cục ở Hương Cảng xuất bản năm 1966, không sao kiếm được một bản khác. Có lẽ bản đó là bản mới nhất, công phu nhất, tiếc rằng chỉ có hai thiên Kinh, hai thiên Kinh thuyết mà không có hai thiên Đại thủ, Tiểu thủ.
Chắc chắn còn một số bản ở các nhà khác, và không nhà nào hoàn toàn đồng ý với nhà nào cả, có khi trái ngược nhau nữa.
Chứng cớ là bản Ngô Tất Tố dùng để viết cuốn Mặc tử (mà ông không cho biết là của ai) có nhiều chỗ giải thích khác với Cao Hanh quá xa. Chúng tôi xin dẫn một thí dụ:
Nguyên văn điều 76 như sau: 為,窮知而於欲也[15]
Ngô Tất Tố dịch là: “Sự “làm” cùng tận ở cái biết, mà lại treo buộc ở cái muốn”.
Rồi ông giảng thêm:
“Chữ “làm” tức là hành vi. Ý nói hành vi tức là một nơi dừng đậu của tri thức, nhưng nó lại phải tựa theo dục vọng của người ta nữa (tr.162-63).
Cao Hanh ngờ chữ 為[16] đó là chữ [17] vì theo Thuyết văn, hai chữ đó đọc như nhau, cho nên dùng thay nhau được, mà nghĩa là lầm lẫn. Chữ tức là chữ nghĩa là buộc, treo. Và Cao giảng là: Người ta sở dĩ lầm lẫn trong việc làm là do cái trí khôn không biết được [lợi, hại] mà lại bị lòng dục (muốn) lôi kéo, trói buộc; tức như lòng muốn làm một việc nào đó mà trí khôn không biết rằng việc đó không nên làm, nên mới tới nỗi lầm lẫn.
Cũng điều 76 đó, nguyên văn Kinh thuyết như sau:
欲其指,智不知其害,是智之罪也。若智之慎文也無遺,於其害也,而猶欲之,則離之是猶食脯也。騷之利害,未可知也,欲而騷,是不可以所疑止所欲也。廧外之利害,未可知也,趨之而得,則弗趨也,是以所疑止所欲也。觀“為,窮知而於欲”之理,脯而非{知心}也,指而非愚也,所為與不所與為相疑也,非謀也。[18]
Ngô Tất Tố bảo chữ [19] trong tự điển Trung Hoa không có. Tất Nguyên cho là chữ 難 (nan) viết khác; Tôn Di Nhượng, Hồ Thích cho là chữ 新 (tân) lầm ra. Dùng hai thuyết đó mà giải nghĩa đều không trôi. Ông đành tạm đánh dấu hỏi và dịch là “nghiêm”.
Còn chữ 離/li/, ông theo Tôn Di Nhượng, cho là cũng như Li /罹/ là mắc phải – Và chữ 騷 /tao/ ông theo Tất Nguyên, cho là cũng như 臊 /tao/ tức là tanh. Sau cùng ông dịch là:
“Làm là muốn nghiệm ý mình. Trí khôn không biết cái hại của nó, ấy là tội của trí khôn. Nếu trí khôn cẩn thận, không sót sự hại, mà còn muốn nghiệm, thì vẫn còn mắc phải cái hại. Vì như ăn gỏi, mùi tanh là lợi hay hại chưa biết. Muốn ăn mà nó lại tanh. Đó là không vì cái ngờ mà thôi cái muốn”.
.
Và ông giải nghĩa đoạn đó đại khái như sau[20]:
Lầm lẫn là do hai điều kiện: một là do trí khôn không biết được, hai là do trí khôn biết là hại mà lòng cứ muốn. Như có rượu ngâm lông cánh con cưu, cái trí khôn của mình không biết có độc nên mình uống, đó là cái lỗi của trí; nếu cái trí của mình đã biết là độc mà mình muốn tự sát, cứ uống, như vậy là cái trí bị buộc vào cái muốn (dục); vậy là mình cho uống rượu lông cánh chim cưu cũng như ăn món khô thịt, đều là do mình muốn cả; trong trường hợp đó không gọi là lầm lẫn được. Phải có hai điều kiện: vừa không biết rằng rượu đó độc, vừa muốn uống thì mới gọi là lầm lẫn được.
Một thí dụ nữa: xoa con ngựa, mình chưa biết là lợi hại, (tức không biết nó có kinh động rồi đá mình không) mà mình muốn xoa và vẫn cứ xoa, như vậy là không vì còn nghi ngờ mà ngưng lòng ham muốn của mình lại (…).
Chúng tôi đã tóm tắt như trên, chứ Cao Hanh giảng giải rất dài dòng, dẫn nhiều sách cổ từ Thi Kinh, đến Quốc ngữ - Lỗ ngữ, Quảng nhã v.v… Cách giải thích của ông xuôi hơn của Ngô Tất Tố, nhưng toi vẫn thấy nó “thông thái” quá, khó nhọc quá; mà chính ông cũng nhận rằng ông có thể lầm được. Hiện nay chưa ai dám nói rằng mình hiểu đúng Mặc Kinh. Mười người thì có mười cách hiểu. Phần đông thì phải nghiên cứu hoài, mà tác giả Mặc Kinh đã chết thì không ai có thể quả quyết rằng thuyết nào đúng hẳn.
Tìm hiểu Mặc học – nói chung là triết học thời Tiên Tần – chúng tôi chú trọng tới nhân sinh quan hơn (đạo đức và chính trị) vì các triết gia thời đó đều muốn cứu đời; còn phần tri thức luận của họ thì không có gì đặc sắc lắm, kém xa Ấn Độ, Hi Lạp cũng thời đó. Cho nên trong các chương sau, chúng tôi chỉ giới thiệu ít vấn đề chính trong Mặc Kinh như sửa lại Mặc học, bác các triết gia khác, nhất là các nhà nguỵ biện; dĩ nhiên chúng tôi không thể bỏ hẳn những tìm tòi, suy luận của Biệt Mặc về tri thức, về khoa học, nhưng chúng tôi chỉ lựa ít điều thôi mà bỏ những điều bí hiểm quá, khiến cho mỗi học giả mỗi người giải thích một khác như điều 76 Kinh thượng chúng tôi mới dẫn ở trên.
Chú thích:
[1] Nguyên văn: cơ ngẫu bất ngỗ /觭偶不仵/: có người giảng là lẻ và chẳng không gặp nhau, có người lại dịch là lẻ và chẵn không có thứ tự.
[2] Nguyên văn: giai nguyện vị chi thi, kí đắc vi kì hậu thế /皆願為之屍,冀得為其後世/: nguyện ủng hộ làm cự tử (lãnh tụ) hi vọng sau sẽ được lên thay; Ngô Tất Tố (sách đã dẫn – tr.146) lại dịch là: đều muốn được làm thần “thi” cho họ, mong làm đời sau của họ (Thần thi là người ngồi trên bàn thờ, khi tế tự, để thần nương tựa, cũng như hoạ tượng của đời sau – N.T.Tố).
[3] Xin nói thêm là tác giả thiên Thiên hạ, sách Trang tử, cũng đả Công Tôn Long và Huệ Thi nhưng không bảo hai ông này thuộc phái Biệt Mặc. (Goldfish).
[4] Trong Trang tử - Nam Hoa kinh, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Trời đất cùng sinh ra với tôi; vạn vật và tôi hợp nhất, chỉ là một”. (Goldfish),
[5] Kinh thuyết: Bản nguồn chép là “Kinh”, tôi sửa lại thành “Kinh thuyết”. Mặc Kinh gồm 6 thiên, nhưng vì Kinh thuyết thượng để giải thích Kinh thượng và Kinh thuyết hạ để giải thích Kinh hạ cho nên ở đầu câu, cụ Nguyễn Hiến Lê viết là: “Kể cả bốn thiên”. (Goldfish).
[6] Coi phụ lục ở cuối chương.
[7] Trong chương IV ở dưới chép là Lỗ Thắng. (Goldfish).
[8] Kinh hạ có 82 điều. [Theo trang http://www.china001.com/show_hdr.php?xname=PPDDMV0&dname=JOHQD61&xpos=23, Kinh hạ có 83 điều, từ 101 đến 183. (Goldfish)].
[9] Đoạn này tôi chép theo bản nguồn, nhưng tôi thấy nó không mấy phù hợp với lời giải thích bên dưới. (Goldfish).
[10] Theo trang http://blog.sina.com.cn/s/blog_6bef90aa0100oqcz.html thì câu sau đây, Tôn Di Nhượng bổ sung bốn chữ (tôi đặt trong dấu ngoặc đứng): Đại cố, hữu chi tất [nhiên], vô [chi tất bất] nhiên 大故,有之必[然],無[之必不]然. (Goldfish).
[11] Mấy chữ “có cái quả là chết rét, cho nên bảo “chỉ có nó thì chưa nhất định” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[12] Bản của chúng tôi in thiếu mấy chữ, chúng tôi đoán nghĩa như vậy.
[13] Câu này Cao Hanh giảng vẫn còn lúng túng.
[14] Đoạn này, bản nguồn chép thừa chữ 罢 (bì). (Goldfish).
[15] Bản nguồn bỏ trống, tôi tạm chép trang http://www.sidneyluo.net/h/h03/32.htm. Chữ thứ năm, trang http://gj.zdic.net/archive.php?aid-14135.html chép là: “huyền” 懸 (nghĩa là treo, buộc); trang http://www.ziyexing.com/files-5/zzbj-mz-10.htm chép là “huyền” 悬 (nghĩa là treo); trang http://ctext.org/mozi/canon-i/zh?searchu=%E7%82%BA%EF%BC%8C%E7%AA%AE%E7%9F%A5%E8%80%8C%F0%A0%90%B4%E6%96%BC%E6%AC%B2%E4%B9%9F%E3%80%82 chép là: (Từ điển Thiều Chửu không có chữ này). (Goldfish).
[16]為:欲■其指,智不知其害,是智之罪也。若智之慎文也,無遺於其害也,而猶欲養之,則離之。是猶食脯也,騷之利害,未可知也,欲而騷,是不以所疑止所欲也。墻外之利害,未可知也,趨之而得力,則弗趨也,是以所疑止所欲也。
[17] Bản nguồn chép là [言為], tức gồm chữ “ngôn” và chữ “vi” ghép lại, chép như vậy cũng được. (Goldfish).
[18] Bản nguồn bỏ trống, để tiện tham khảo, tôi tạm chép theo trang http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90/%E7%B6%93%E8%AA%AA%E4%B8%8A. Đoạn này không có chữ 鹌 (am) như lời Cao Hanh. Chữ ? (font HAN NOM B) được thay bằng ảnh của chính nó. (Goldfish).
[19] Chữ này (http://www.sidneyluo.net/imgs/29065.gif), bản nguồn chép là 離 (li). (Goldfish).
[20] Câu: “Chữ 離 cũng là chữ 離 chép lầm vì hai chữ này giống nhau, 鹌 đọc là am, là một loài chim thuần 鹌 (như con cút). Nhưng ở đây dùng thay chữ 鹌…” ở trên, có phần chắc là một trong hai chữ 離 (li) và hai trong ba chữ 鹌 (am) là bản nguồn chép sai. Chữ 鹌 (am) thứ hai có lẽ là chữ 鶉 (thuần) chép sai mà thành. (Goldfish).
Chúng tôi chép lại dưới đây hai đoạn ngắn trong bản Mặc tử in đời Gia Tĩnh nhà Minh (năm 1553) trong bộ Tứ bộ tùng san, do Phương Thụ Sở dẫn ở trang 157-58.
Chúng ta phải phục dân tộc Trung Hoa. Cả bộ Kinh không ai hiểu nổi như vậy, mà trên một ngàn rưỡi năm họ kiên nhẫn chép, khắc, in không biết bao nhiêu lần để lại đời sau. Họ quí di sản tinh thần của tổ tiên thật.
Nhờ vậy mà Mặc Kinh mới còn tới ngày nay, và đời Càn Long, khoảng hai năm sau khi bộ Tứ bộ tùng san được in ra, Tất Nguyên mới có để mà nghiên cứu và tìm ra được ý nghĩa, mà ngày nay chúng ta mới biết rằng:
Là điều 1 trong Kinh Thượng.
Là điều 51 trong Kinh Thượng.
Là điều 2 trong Kinh Thượng.
Là điều 52 trong Kinh Thượng.
Là điều 3 trong Kinh Thượng.
Là điều 53 trong Kinh Thượng.
Là Kinh thuyết 1 để giải thích điều 1 ở trên;
Là Kinh thuyết 2 để giải thích điều 2 ở trên;
Là Kinh thuyết 3 để giải thích điều 3 ở trên;
故,所得而後成也。止,以久也。體,分於兼也。必,不已也。知,材也。平,同高也。
經說上第四十
故,小故,有之不必然,無之必不然,體也,若有端。大故,有之必然,無之必不然,若見之成見也。
體,若二之一,尺之端也。
知材,知也者。所以知也,而不必知,若明。
故,所得而後成也。
止,以久也。
體,分於兼也。
必,不已也。
知,材也。
平,同高也。
故,小故,有之不必然,無之必不然,體也,若有端。大故,有之必然,無之必不然,若見之成見也。體,若二之一,尺之端也。
知材,知也者。所以知也,而不必知,若明。[1]
[1] Đoạn chữ Hán ở trên tôi chép theo bản nguồn (các chữ dạng giản thể tôi sửa lại thành dạng phồn thể). Dưới đây tôi thử trình bày lại, ghi thêm phiên âm và bổ sung điều 51, 52 trong Kinh thuyết. Riêng điều 53 trong Kinh thượng (平,同高也), tôi không tìm thấy điều tương ứng trong Kinh thuyết).
經上 (Kinh thượng):
1. 故,所得而後成也 (Cố, sở đắc nhi hậu thành dã)
51. 止,以久也 (Chỉ, dĩ cửu dã)
2. 體,分於兼也 (Thể, phân ư kiêm dã)
52. 必,不已也 (Tất, bất dĩ dã)
3. 知,材也 (Tri, tài dã)
53. 平,同高也 (Bình, đồng cao dã)
經說上 (Kinh thuyết thượng):
1.故,小故,有之不必然,無之必不然,體也,若有端。大故,有之必然,無之必不然,若見之成見也 (Cố, tiểu cố, hữu chi bất tất nhiên, vô chi tất bất nhiên, thể dã, nhược hữu đoan. Đại cố, hữu chi tất nhiên, vô chi tất bất nhiên, nhược kiến chi thành kiến dã). - Nhược hữu đoan 若有端: Trong tiết Nội dung phần Kinh ở trên, ghi là: Nhược xích hữu đoan 若尺有端.
2. 體,若二之一,尺之端也 (Thể, nhược nhị chi nhất, xích chi đoan dã).
3. 知材,知也者。所以知也,而不必知,若明 (Tri tài, tri dã giả. Sở dĩ tri dã, nhi bất tất tri, nhược minh).
51. 止:無久之不止,當牛非馬,若矢過楹。有久之不止,當馬非馬,若人過梁 (Chỉ, vô cửu chi bất chỉ, đương ngưu phi mã, nhược thỉ quá doanh. Hữu cửu chi bất chỉ, đương mã phi mã, nhược nhân quá lương).
52. 必:謂臺執者也。若弟兄一然者一不然者,必不必也,是非必也 (Tất, vị thai chấp giả dã. Nhược đệ huynh nhất nhiên giả nhất bất nhiên giả, tất bất tất dã, thị phi tất dã).
53. (Không có).
Theo trang http://www.sidneyluo.net/h/h03/32.htm thì Kinh thuyết chỉ có 91 điều, thiếu 9 điều: 47, 53, 57, 58, 73, 91, 92, 93, 94. (Goldfish).