← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II SỬA LẠI MẶC HỌC

Định nghĩa lại chữ lợi

Mặc tử bảo “nghĩa” là “lợi” và chủ trương mọi người phải yêu nhau như yêu chính mình, làm lợi lẫn cho nhau; giúp đỡ lẫn nhau, chia cơm xẻ áo cho nhau… nhưng ông không định nghĩa thế nào là lợi, thế nào là hại.

Mặc Kinh bổ túc.

Điều 26 và 27: “Lợi là cái gì ta được mà thích”, “Hại là cái gì ta được mà ghét”.

(Lợi, sở đắc nhi hỉ dã 利,所得而喜也 - Hại, sở đắc nhi ố dã 害,所得而惡也)

Ý đó giống của triết gia Anh Bentham: mục đích của triết học là tìm khoái lạc, tránh đau khổ; cái gì tạo được khoái lạc là tốt, cái gì gây đau khổ là xấu.

Nhưng Kinh thuyết 26 và 27 giải thích thêm: “Được cái đó mà thích là cái đó là lợi. Đã là lợi thì không là hại. Nếu là hại thì không phải là cái đó”. – “Được cái đó mà ghét thì cái đó là hại. Nếu là lợi thì không phải là cái đó”.

Cao Hanh bảo như vậy là “trong cái lợi tất không có cái hại”, “trong cái hại tất không có cái lợi”. (tr.46).

Nhưng trong đời sống chúng ta vẫn thấy trong cái lợi thường có cái hại: lợi về mặt này mà hại về mặt kia, lợi lúc này mà hại lúc khác; và trong cái hại thường có cái lợi: hại về mặt này mà lợi về mất khác, hại lúc này mà lợi lúc khác. Ai mà không nhớ truyện “Tái ông thất mã?”.

Cho nên Kinh 85 sửa lại:

欲正權利,且惡正權害 (Dục chính quyền lợi, thả ố chính quyền hại)[1]

Kinh thuyết: [仗] 權者兩而勿偏 (Quyền giả lưỡng nhi vật thiên)

Chữ , Cao Hanh sửa lại là chữ , Phương Thụ Sở để nguyên chữ [2]; nhưng cả hai đều hiểu điều 85 đó như sau: mình thích cái gì thì cân nhắc cái lợi, ghét cái gì thì cân nhắc cái hại, điều đó phải rồi. Nhưng lợi hại đều lẫn với nhau, liên quan tới nhau, cho nên khi muốn một việc gì mà cân nhắc cái lợi của nó thì cũng nên cân nhắc cái hại nữa; khi ghét một việc gì mà cân nhắc một lúc phải cân nhắc cả lợi lẫn hại thì mới khỏi sai lầm.

Thiên Đại thủ nói rõ hơn nữa, khuyên ta phân biệt cái lợi nhỏ và cái lợi lớn, phải hi sinh cái lợi nhỏ để giữ cái lợi lớn, bỏ cái hại lớn mà nhận cái lợi nhỏ. Chặt ngón tay để giữ cánh tay, tức là trong cái lợi thì giữ cái lợi lớn, trong cái hại thì giữ cái hại nhỏ. Lựa cái hại nhỏ không phải là lấy cái hại mà là lấy cái lợi đấy, cái mà mình lấy là cái người ta giữ. Gặp kẻ cướp mà chặt ngón tay để thoát thân, là lợi [vì] sự gặp kẻ cướp [mới] là hại. Chặt ngón tay và chặt cánh tay mà lợi cho thiên hạ bằng nhau thì không phải kén chọn nữa… Hai cái lợi, lựa cái lớn, không phải là bất đắc dĩ, hai cái hại, lựa cái nhỏ là bất đắc dĩ; cái mình đã có rồi mà bỏ đi, là trong cái hại lựa cái nhỏ đấy.

(Đoạn chi dĩ tồn uyển, lợi chi trung thủ đại, hại chi trung thủ tiểu dã. Hại chi trung thủ tiểu dã, phi thủ hại dã, thủ lợi dã; kì sở thủ giả, nhân chi sở chấp dã. Ngộ đạo nhân nhi đoạn chỉ dĩ miễn thân, lợi dã; kì ngộ đạo nhân, hại dã. Đoạn chi dữ đoạn uyển, lợi ư thiên hạ tương nhược, vô trạch dã. Tử sinh lợi nhược, phi vô trạch dã… Lợi chi trung thủ đại, phi bất đắc dĩ dã. Hại chi trung thủ tiểu, bất đắc dĩ dã. Sở vị hữu nhi thủ yên, thị lợi chi trung thủ đại dã. Ư sở kí hữu nhi khí yên, thị hại chi trung thủ tiểu dã)[3].

Lẽ đó dễ hiểu. Nhưng Mặc Kinh chưa xét lợi trước mắt hay lợi về sau, lợi vật chất hay lợi tinh thần.

Theo quan niệm ấy, lợi thành ra yếu tố của đạo đức.

Điều 8 Kinh thượng bảo: “nghĩa là lợi” (義利也).

Kinh thuyết giảng: [義] 志以天下為芬,而能能利之,不必用。

(Nghĩa: chí dĩ thiên hạ vi phận, nhi năng lợi chi, bất tất dụng).

Lời giảng đó, mỗi nhà hiểu một khác: Cao Hanh bảo /芬/ đọc là phận /分/, như chức phận, Phùng Hữu Lan và Phương Thụ Sở bảo nên sửa là ái /爱/; hai chữ /能/, Cao cho chữ thứ nhất là danh từ, chữ thứ nhì là động từ; Phùng cho chữ thứ nhất là động từ, chữ thứ nhì nghĩa là thiện 善 (khéo); Phùng ngược lại cho chữ thứ nhất mới là thiện. Chúng ta chỉ cần nhớ: nghĩa là lợi cho thiên hạ, chứ không phải cho riêng mình; hễ mình thấy lợi cho thiên hạ thì cứ làm, chẳng cần biết người ta dùng hay không (nghĩa là một việc mình thấy có lợi cho thiên hạ thì là việc nghĩa rồi, không đợi thấy người đời dùng rồi, có lợi rồi, mới gọi là việc nghĩa).

Kinh thượng bảo “trung là làm lợi cho vua” (điều 12), “hiếu là làm lợi cho cha mẹ” (điều 13), mà không cần phải được vua chấp nhận, được cha mẹ đồng ý.

Trung, lợi quân… bất tất dụng 忠,不利弱子亥,足將入止容。

Hiếu, lợi thân… bất tất đắc 孝,以親為芬,而能能利親,不必得。[4]

Sau cùng, điều 35: “công – tức công lao, sự nghiệp – là làm lợi cho dân, mà không phải đợi lâm thời rồi mới làm như may áo mỏng, áo lông”

功,利民也…不待時,若衣裘。

(Công, lợi dân dã… bất đãi thời, nhược y cừu)[5].

May áo, chúng ta phải may trước, chứ không đợi lúc hết mặc rồi mới may; thì việc làm lợi cho dân cũng vậy, phải lo tính trước cho dân, không đợi dân “nghẹn rồi mới đào giếng”, “chết rồi mới tìm thầy thuốc” (Thiên Công Mạnh, 9).

Vậy, dù vua, cha, hay dân có không hiểu mình, bất bình, hay phản kháng, thì mình cũng cứ làm, nếu mình nghĩ là có lợi cho vua, cha, cho thiên hạ. Mặc gia tự tin thật, có thể coi thường dư luận.

*

* *

Trọng tình cảm

Mặc tử vì quá nhiệt tâm mưu cái lợi cho thiên hạ nên nhiều khi thiên về lí trí mà mạt sát tình cảm, như bài 6 thiên Quí Nghĩa, ông bảo phải từ bỏ “6 cái thiên lệch” đi, tức mừng, giận, vui, buồn, yêu, ghét. Bài 13 thiên Công Mạnh, ông còn chê Nho gia là ngu như con nít: chúng nhớ cha mẹ ba năm, Nho gia cũng bắt chước chúng, để tang ba năm. Cha mẹ chết, ông chỉ cho con khóc lúc đưa ra huyệt và lúc ở huyệt về. Đó là một khuyết điểm lớn của Mặc.

Mặc Kinh sửa lại, nhận rằng tình cảm là một động lực mạnh, lôi kéo, trói buộc người ta, như trong điều 76 chúng tôi dẫn ở chương trên.

Điều 144, Kinh hạ dẫn một cách gián tiếp thuyết không yêu ghét của Mặc. Nguyên văn như sau:

Kinh:

無,欲惡之爲益損也,說在宜。

(Vô dục ố chi vi ích tổn dã, thuyết tại nghi)

Thuyết:

無:欲惡傷生損壽,說以少連。是誰愛也,嘗多粟。或者欲不有能傷也,若酒之於人也。且智[人]利人,愛也。則唯智弗治也。[6]

(chữ /nhân/ 人 ở trên đưa xuống sau chữ ái /愛/)

則唯恐 (nguyên văn là: 智 sai)弗治也[7]

(Vô, dục ố thương sinh tổn thọ, thuyết dĩ Thiếu Liên. Thị thuỳ ái dã, thường đa túc. Hoặc giai dục bất hữu năng thượng dã. Nhược tửu chi ư nhân dã. Thả trí[8] lợi nhân, ái nhân dã. Tắc duy khủng[9] phất trị dã).

Cao Hanh giảng (chúng tôi tóm tắt): Thiếu Liên là tên người. Sách Luận ngữ, thiên Vi tử, bài 8, nhắc tới bảy nhà ẩn dật thời xưa: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ và Thiếu Liên. Khổng tử bảo Liễu Hạ Huệ và Thiếu Liên không bằng Bá Di, Thúc Tề vì phải khuất chí mình, phải nhục thân mình, nhưng lời nói của họ hợp luân lí, việc làm của họ hợp lòng mong nghĩ của dân.

Thiên Tạp kí sách Lễ kí cho biết thêm rằng Thiếu Liên được Khổng tử khen là “khéo để tang cha mẹ”. Vậy Thiếu Liên là một ẩn sĩ đời Chu như Liễu Hạ Huệ. Chắc Thiếu Liên cho rằng thích và ghét là hai tình cảm làm tổn thọ, cho nên điều 144 này mới bảo “dục ố thương sinh tổn thọ, thuyết dĩ Thiếu Liên”.

Tác giả điều 144 bác thuyết đó. Thích, muốn có khi có ích như có thích ăn lúa gạo, có ăn lúa gạo thì mới sống được; hoặc như uống rượu có khi cũng có lợi. Lại như có yêu người thì mới muốn làm lợi cho người, mới sợ xã hội, nhân quần không trị được trị.

Tư tưởng của Thiếu Liên cũng giống của Lão, Trang. Lão tử quí sự không thích, không ghét. Trang tử quí sự vô tình, cho nên trong thiên Đức sung phù, khi Huệ Thi hỏi Trang tử:

“- Con người vốn vô tình sao?

Trang tử đáp:

- Phải.

- Người mà vô tình sao gọi là người được?

- “Đạo” cho nó dung mạo ấy, trời cho nó hình thể ấy thì sao không gọi là người được?

Huệ Thi lại hỏi:

- Nhưng đã là người thì làm sao không có tình cho được?

Trang tử đáp:

- Cái mà ông gọi là tình đó, tôi không gọi nó là tình. Tôi bảo vô tình là thế này: không để cho cái yêu, cái ghét làm thương tổn thiên tính, cứ theo luật tự nhiên, đừng làm gì thêm cho đời sống cả”.

Vậy là Mặc Kinh sửa tư tưởng của Mặc tử đồng thời cũng đả luôn Lão, Trang nữa.

Biện hộ và sửa thuyết kiêm ái.

Thời Mặc tử, thuyết kiêm ái của ông đã bị một số người công kích như trong chương III phần II chúng tôi đã trình bày; tới giữa thời Chiến Quốc, “trăm nhà” đua nhau tranh biện, và người ta lại đem thuyết đó ra để mổ xẻ. Theo Mặc Kinh, người ta nhằm vào ba điểm:

1- Người trong thiên hạ đã vô cùng thì làm sao yêu gồm cho hết được?

Điều 173 đáp:

無窮不害兼,說在盈否[10]

(Vô cùng bất kiêm hại, thuyết tại doanh phủ): Đất đai trong thiên hạ vô cùng, điều đó không hại gì cho kiêm ái, dù đất đai đó đầy người hay không.

Kinh thuyết giảng [người bác lẽ đó, đưa thí dụ[11]]: phương Nam, nếu hữu cùng thì người ta có thể ở đầy khu vực đó; nếu vô cùng thì người ta không thể ở đầy được. Hữu cùng hay vô cùng, đã chưa biết được, thì cũng chưa biết được người ta có thể ở đầy hay không phương đó. Đã không biết được người ta có thể ở đầy hay không phương đó thì cũng chưa biết được chúng ta có thể yêu hết được người ở phương đó. Như vậy mà khẳng định rằng có thể yêu gồm hết người trong thiên hạ là nói bậy.

(Nam phương hữu cùng tắc khả tận, vô cùng tắc khả bất tận. Hữu cùng, vô cùng vị khả tri, tắc khả tận, bất khả tận vị khả tri. Nhân chi doanh chi phủ, vị khả tri; nhi tất nhân chi khả tận bất khả tận, diệc vị khả tri. Nhi tất nhân chi khả tận ái dã, bội)[12].

Mặc gia đáp: Nếu người ta ở không đầy phương Nam thì là số người đã hữu cùng trước rồi, dù phương Nam vô cùng, Như vậy là số người hữu cùng, và chúng ta có thể gồm yêu hết họ được. Nếu người ở đầy phương Nam vô cùng, nghĩa là chỗ nào có đất là có người, thì đất đai tuy vô cùng, mà con người cũng ở đầy nó được; con người đã ở đầy nó được thì phương Nam cũng lại là hữu cùng rồi; đất đai hữu cùng, số người hữu cùng, thì gồm yêu hết người phương Nam là việc không khó.

(Nhân nhược bất doanh, tiên cùng, tắc nhân hữu cùng dã: tận hữu cùng, vô nan. Doanh vô cùng, tắc “vô cùng” tận dã: tận hữu cùng, vô nan)[13].

Có người lại bẻ: không biết số người ít nhiều ra sao thì làm sao mà yêu hết cho được?

Điều 174 đáp: 不知其數而知其盡也。說在問

(Bất tri kì số nhi tri tận dã, thuyết tại vấn[14])

Kinh thuyết giảng: Chúng ta biết những người nào thì yêu hết những người đó, nếu còn sót người nào thì xin người bắt bẻ ta cứ chỉ cho, chúng ta cũng sẽ yêu thêm cho hết; nếu họ không chỉ được thì tức là chúng ta đã yêu hết rồi.

Người ta lại hỏi: Không biết người khác ở đâu thì làm sao yêu cho hết được?

Điều 175 đáp: 不知其所處,不害愛之,說在喪子者。

(Bất tri kì sở xử, bất hại ái chi, thuyết tại táng tử giả)

Kinh thuyết giảng: Không biết người ta ở đâu, thì cũng vẫn yêu được, cũng như cha mẹ có đứa con thất lạc, không biết nó ở đâu, mà vẫn yêu nó vậy.

Để kết luận, Mặc gia cho rằng, có yêu khắp mọi người thì mới gọi là yêu được; sở dĩ không yêu khắp là vì không yêu người đấy thôi (Chu ái nhân, nhi hậu vi ái nhân…; bất chu ái, nhân vi bất ái nhân hĩ[15] – Tiểu thủ).

2- Mặc tử mâu thuẫn với chính ông vì đã chủ trương kiêm ái, phi công, mà còn giết, trừng phạt kẻ có tội.

Thiên Tiểu thủ trả lời:

“Cha mẹ của Hoạch là người, Hoạch thờ cha mẹ không phải là thờ người; em của Hoạch là người đẹp trai, Hoạch yêu em không phải là yêu người đẹp trai. Xe là [làm bằng] gỗ, ngồi xe không phải là ngồi gỗ; thuyền là [làm bằng] gỗ, vào trong thuyền không phải là vào trong gỗ; kẻ trộm là người, nhiều kẻ trộm không phải là nhiều người; không có kẻ trộm không phải là không có người. Làm sao chứng minh được điều đó? Chứng cứ là người đời đều cho câu này là đúng: “Ghét có nhiều kẻ trộm không phải là ghét có nhiều người; muốn không có kẻ trộm, không phải là muốn không có người; yêu kẻ trộm không phải là yêu người, ghét kẻ trộm không phải là ghét người[16], và giết kẻ trộm không phải là giết người”.

(Hoạch chi thân, nhân dã. Hoạch sự kì thân, phi sự nhân dã. Kì đệ, mĩ nhân dã, ái đệ, phi ái mĩ nhân dã. Xa, mộc dã, thừa xa, phi thừa mộc dã. Thuyền, mộc dã, thừa thuyền phi nhân mộc dã[17]. Đạo nhân, nhân dạ; đa đạo, phi đa nhân dã; vô đạo, phi vô nhân dã. Hề dĩ minh chi? Ố đa đạo, phi ố đa nhân dã; dục vô đạo, phi dục vô nhân dã. Thế tương dữ cộng thị chi. Nhược nhược thị, tắc tuy đạo nhân, nhân dã, ái đạo phi ái nhân dã; bất ái đạo phi bất ái nhân dã; sát đạo nhân, phi sát nhân dã. Vô nạn đạo vô nạn hĩ)[18].

Phái Biệt Mặc lí luận như thế đó. Hợp lô gích lắm: kẻ trộm là người, nhưng yêu hay ghét kẻ trộm không phải là yêu hay ghét người, vậy thì giết kẻ trộm không phải là giết người. Vậy chúng ta có thể “kiêm ái” mà vẫn giết kẻ trộm, có thể “phi công” mà vẫn giết địch khi chúng tấn công ta.

Nhưng ngay ở trên đoạn chúng tôi dẫn đó, Mặc gia còn viết mấy hàng này nữa:

“Con ngựa trắng là con ngựa; cưỡi ngựa trắng là cưỡi ngựa. Con ngựa ô là con ngựa, cưỡi ngựa ô là cưỡi ngựa. Hoạch là người, yêu Hoạch là yêu người. Tang là người người, yêu Tang là yêu người. Như vậy đúng, sự thực là thế”.

(Bạch mã, mã dã. Thừa bạch mã, thừa mã dã. Lí mã, mã dã. Thừa lí mã, thừa mã dã. Hoạch, nhân dã, ái Hoạch, ái nhân dã. Tang, nhân dã, ái Tang, ái nhân dã. Thử nãi thị nhi nhiên giả dã)[19].

Đã cho như vậy là đúng, thì đổi chữ “yêu” ra chữ “giết”, cũng vẫn đúng: “kẻ trộm là người, yêu kẻ trộm là yêu người, giết kẻ trộm là giết người”. Thế thì tại sao mấy hàng sau lại bảo: “Giết kẻ trộm không phải là giết người”? Rõ ràng là mâu thuẫn, là nguỵ biện.

3- Sau cùng, như trong chương Thuyết kiêm ái, chúng tôi đã nói, Mặc gia bị Mạnh tử chê là cầm thú vì không phân biệt cha mẹ mình với cha mẹ người, không có tình cha con, nên Di Chi, một Mặc gia, sửa lại thuyết kiêm ái, bảo kiêm ái không phân biệt đẳng cấp, nhưng bắt đầu từ người thân.

Rồi đời sau, Mặc gia đưa ra thuyết “luân liệt”, chép trong thiên Đại thủ. Luân liệt tức là “nghĩa đáng dày thì cho dày, đáng mỏng thì cho mỏng”, nhưng lòng yêu thì không có dày, mỏng. Ai cũng yêu như nhau cả. Cho nên trong sự giúp đỡ mới phân biệt kẻ trước người sau (Giúp người thân trước, người sơ sau), giúp người có đức trước, người kém đức sau, như vậy chỉ là phương tiện không đủ thôi. Thuyết đó chúng tôi trình bày rồi, nên ở đây không chép lại.

Phản cổ

Cuối thời Xuân Thu, chủ trương phục cổ (mà cũng sửa cổ) còn mạnh, càng gần tới thời Chiến Quốc, chủ trương đó càng suy, và người ta thấy cần xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Người phản cổ mạnh nhất là Hàn Phi.

Mặc tử sinh ở đầu thời Chiến Quốc, có nhiều sáng kiến, đã muốn lập một trật tự mới, như thuyết Thượng hiền, Thượng đồng…, như vậy là ông đã có điểm phản cổ rồi; nhưng mặt khác cũng nhận rằng các thánh vương như Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ có điều đáng khen (yêu dân, sống giản dị, cần, kiệm…) và nhiều lần ông đã nêu những thánh vương đó làm gương, như trong Canh trụ 8, ông bảo Vu Mã tử: “Thiên hạ nhờ đạo giáo của thánh vương đời xưa mà sống; khen các vị đó, tức là quí cái khiến cho thiên hạ sống. Đáng khen mà không khen, như vậy có phải là người nhân không?”

Hơn nữa, trong Quí nghĩa 4, ông còn bảo: “Nói năng, hành động, hễ hợp với ba đời thánh vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ thì làm; hợp với ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ thì đứng làm”.

Vì vậy Hàn Phi trong thiên Hiển học chê Mặc tử là “pháp tiên vương, xưng Nghiêu, Thuấn”, cũng có phần đúng. Và phái Biệt Mặc, sửa lại học thuyết của Mặc tử, phản đối việc đề cao Nghiêu, Thuấn.

Điều 117 bảo:

“Nghiêu thiện trị, tự kim tại chư cổ dã. Tự cổ tại chi kim, tác Nghiêu bất năng trị dã”[20].

Bảo vua Nghiêu giỏi trị dân là ở chỗ thời này mà xét thời xưa, xét việc đã xảy ra rồi thì thấy như vậy, Nhưng thời xưa và thời nay không giống nhau. Người giỏi trị dân thời xưa vị tất đã giỏi trị dân thời nay. Không thể bảo Nghiêu sinh vào thời nay cũng giỏi trị dân thời nay được vì tình thế đã khác.

Điều 153 còn hoài nghi hơn nữa:

“Nghiêu chi nghĩa dã, sanh ư kim nhi xử ư cổ, nhi dị thời, thuyết tại sở nghĩa nhị”[21].

Cao Hanh giảng là: Muốn chỉ một sự vật cho ai thì có hai cách: hoặc gọi tên nó, (tức dùng cái danh), hoặc chỉ thẳng sự vật đó (tức dùng cái thực). Lòng trọng nghĩa của vua Nghiêu truyền đến nay, chỉ là truyền cái tên (cái danh) mà thôi, còn cái thực của nó ở vào thời cổ kia. Chỉ người thời vua Nghiêu mới thấy cái thực của nó thôi.

Vậy tác giả điều 153 đó cũng đồng ý với Hàn Phi trong thiên Hiển học:

“Khổng tử và Mặc tử đều xưng tụng Nghiêu, Thuấn. Nghiêu, Thuấn đã không thể sống lại, thì ai là người quyết định được học thuyết nào mới thực là của Nghiêu, Thuấn? Đời Ngu và đời Hạ dài trên 700 năm, đời Ân và đời Chu dài trên 2.000 năm, mà còn không quyết định được Nho hay Mặc là chân chính; nay muốn khảo sát đạo cách đây 3.000 năm của Nghiêu, Thuấn thì cơ hồ không sao xác định được mà dùng làm chứng cứ thì là lừa gạt người ta. Vậy căn cứ vào các tiên vương mà theo đạo Nghiêu, Thuấn, nếu không phải là ngu, cũng là lừa gạt thiên hạ”[22].

Nhưng điều 153 này không phải chỉ nhắm riêng Mặc tử mà nhắm chung vô một số nhà khác nữa: Nghiêu, Thuấn là thần tượng của hầu hết các chính trị gia hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc, nhất là của Nho gia.

Chú thích:

[1] Nguyên văn chữ Hán, nhiều trang trên mạng chép như trên. Cả hai chữ 正 (chính), có trang đặt trong dấu { }; trang http://open.shouji.baidu.com/?page=g...Ak-KfqU/9.html chép là ; còn trang http://www.china001.com/show_hdr.php?xname=PPDDMV0&dname=JOHQD61&xpos=24 thì chép là 正 và chú là: nguyên tác chép lầm thành chữ 缶 (phữu). Bản nguồn chép là: 於O權利,日惡O權害 (Dục chi quyền lợi, thả ố chi quyền hại). (Goldfish).

[2] Tôi chép thêm ba chữ Hán đó (đặt trong dấu / /) là vì các bản trên mạng chép là: 仗者,兩而勿偏 (Trượng giả lưỡng nhi vật thiên), tức không có chữ 權 (quyền). Có lẽ Cao Hanh sửa chữ 仗 (trượng) thành chữ 權 (quyền), còn Phương Thụ Sở thì giữ nguyên chữ 仗 (trượng). (Goldfish).

[3]斷指以存腕,利之中取大,害之中取小也。害之中取小也,非取害也,取利也。其所取者,人之所執也。遇盜人,而斷指以免身,利也;其遇盜人,害也。斷指與斷腕,利於天下相若,無擇也。死生利若,非無擇也…利之中取大,非不得已也。害之中取小,不得已也。所未有而取焉,是利之中取大也。於所既有而棄焉,是害之中取小也。

[4] Hai câu trên là lời Thuyết. Tạm phiên âm: “Trung, bất lợi nhược tử hợi, túc tương nhập chỉ dung” (Điều 12); “Hiếu, dĩ thân vi phân, nhi năng năng lợi thân, bất tất đắc” (Điều 13). Còn lời Kinh thì như sau: 忠,以為利而強低也 (Trung, dĩ vi lợi nhi cưỡng đê dã – Điều 12); 孝,利親也 (Hiếu, lợi thân dã – Điều 13). (Goldfish).

[5] Điều 35: Kinh: 功,利民也 (Công, lợi dân dã); Thuyết: 功,不待時,若衣裘 (Công, bất đãi thời, nhược y cừu). (Goldfish).

[6] Đoạn này tôi chép theo trang http://ctext.org/mozi/exposition-of-canon-ii/zh?searchu=%E7%84%A1%EF%BC%9A%E6%AC%B2%E6%83%A1%E5%82%B7%E7%94%9F%E6%90%8D%E5%A3%BD%EF%BC%8C%E8%AA%AA%E4%BB%A5%E5%B0%91%E9%80%A3%E3%80%82 vì thấy nó phù hợp với phiên âm. Bản nguồn chép như thế này:

無,欲惡傷生損壽,說以少連。是誰愛也?嘗多粟,或者欲不有能傷也。且O [人]利人,愛也,則唯智,弗治也。

無窮不害兼,說在盈否知。

Tức thiếu câu: 若酒之於人也 (Nhược tửu chi ư nhân dã), và thừa câu: 無窮不害兼,說在盈否知 (Vô cùng bất hại kiêm, thuyết tại doanh phủ tri). (Goldfish).

[7] Ý nói câu: 則唯智弗治也 (tắc duy trí phất trị dã) phải sửa lại thành: 則唯恐弗治也 (tắc duy khủng phất trị dã). (Goldfish).

[8] Chữ này, từ điển không có. Điều 6 giảng là (sáng), lấy tri thức mà luận. Chúng tôi tạm đọc là “trí”.

[Chữ 智 (trí), trang http://ctext.org/dictionary.pl?if=gb&char=%F0%A2%9C%94 chép là: . Điều 6, Kinh thượng: 智:明也 (Trí: Minh dã), Kinh thuyết thượng: 也者,以其知論物,而其知之也著。若明。(Goldfish)].

[9] Khủng: bản nguồn chép là “củng”. (Goldfish).

[10] Nguyên văn câu này, bản nguồn chép là 無窮不害兼,說在盈否知, tức có chữ 知 (tri) ở cuối câu, và đặt lầm vào cuối điều 144 (xem lại tiết Trọng tình cảm ở trên), còn ở đây thì bỏ trống! Nhiều bản trên mạng cũng có chữ 知 (tri) ở cuối câu. (Goldfish).

[11] Bản nguồn chép là: “người bác kẻ đưa thí dụ”. (Goldfish).

[12]南方有窮則可盡,無窮則不可盡。有窮,無窮,未可知;則可盡,不可盡未可知。人之盈之否,未可知;而必人之可盡不可盡,亦未可知。而必人之可盡愛也,悖。

[13]人若不盈先窮,則人有窮也,盡有窮無難。盈無窮,則無窮盡也,盡有窮無難 (theo http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A2%A8%E5%AD%90/%E7%B6%93%E8%AA%AA%E4%B8%8B). (Goldfish).

[14] Vấn: các bản trên mạng chép là 明 (minh). Trang http://books.google.com.vn/books?id=aQyRZ1g6ZK4C&pg=PA527&lpg=PA527&dq=%E8%AF%B4%E5%9C%A8%E6%98%8E%E8%80%85%E3%80%82&source=bl&ots=2DXP1kWuI4&sig=iiUb4qqyIPiRxTPnxwysvnLLlgQ&hl=vi&ei=n6FETov9DsnKrAflgMn4Aw&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=7&ved=0CEoQ6AEwBg#v=onepage&q=%E8%AF%B4%E5%9C%A8%E6%98%8E%E8%80%85%E3%80%82&f=false bảo: chữ 明 (minh) được dùng như chữ chữ 問 (vấn). (Goldfish).

[15]周愛人,而後為愛人... 不周愛,因為不愛人矣。

[16] Câu “yêu kẻ trộm không phải là yêu người, ghét kẻ trộm không phải là ghét người” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[17] Câu: “Thuyền, mộc dã, thừa thuyền phi nhân mộc dã”. Là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[18]獲之親,人也。獲事其親,非事人也。其弟,美人也。愛弟,非愛美人也。車,木也。乘車,非乘木也。船,木也。乘船,非人木也。盜人,人也。多盜,非多人也。無盜,非無人也。奚以明之?惡多盜,非惡多人也。欲無盜,非欲無人也。世相與共是之。若若是,則雖盜人人也,愛盜非愛人也,不愛盜非不愛人也,殺盜人,非殺人也。無難盜無難矣。

[19]白馬,馬也,乘白馬,乘馬也。驪馬,馬也,乘驪馬,乘馬也。獲,人也,愛獲,愛人也。臧,人也,愛臧,愛人也。此乃是而然者也。

[20]堯善治,自今在諸古也。自古在之今,則堯不能治也。

[21]堯之義也,生於今而處於古。而異時。說在所義二。

[22] Coi Hàn Phi tử của chúng tôi.