← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III BÁC CÁC NHÀ KHÁC

Phái Biệt Mặc thường công kích các triết gia từ Lão, Trang tới Cáo tử, Trâu Diễn, nhất là phái nguỵ biện như Huệ Thi, Công Tôn Long… nhưng họ dùng lối biện luận vững vàng chứ không có giọng mạt sát.

Bác các triết gia

Lão tử - Đạo Đức kinh, chương 20 – bảo: “Đừng học thì không lo” (Tuyệt học vô ưu); chương 64 lại bảo: “Thánh nhân muốn không có lòng dục, không quí của khó được; mà học cái vô tri vô thức để cứu lỗi lầm của kẻ rồi bỏ đạo” (Thánh nhân dục bất dục; bất quí nan đắc chi hoá; học bất học, phục chúng nhân chi sở quá).

Trang tử cũng theo Lão, chủ trương đừng nên học. Thiên Dưỡng sinh chủ bảo: “Đời sống của ta có hạn mà tri thức thì vô hạn, bắt cái hữu hạn theo cái vô hạn thì nguy” (Ngô sinh dã hữu hạn, nhi tri dã vô hạn, dĩ hữu hạn tuỳ vô hạn, đãi dĩ)[1].

Vậy cả hai đều cho tri thức là vô ích, học do đó cũng vô ích.

Điều 117 bác ý kiến đó:

學之無益,說在誹者[2]

(Học chi vô ích, thuyết tại phỉ giả) – Nguyên văn không có chữ vô /無/. Cao Hanh cho là thiếu sót).

Kinh thuyết giảng là: Người đưa ra cái thuyết “học là vô ích” đã có ý dạy đời rồi, cho rằng người đời không hiểu nên mới cảnh cáo như vậy. Đã dạy đời mà bảo người ta đừng học, chẳng mâu thuẫn với chính mình ư?

Đạo đức kinh, chương 82, bảo: Người “thiện” không biện thuyết; người biện thuyết thì không “thiện” (Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện).

Trang tử, trong thiên Tề vật luận cũng cho rằng hễ biện luận thì không thấy được toàn diện [vì ai cũng chấp nhất, đứng về một khía cạnh, cho rằng chỉ mình mới đúng] (Biện dã giả hữu bất kiến dã). Hơn nữa, hễ biện luận thì không có người thắng kẻ bại (Biện vô thắng) vì ai cũng giữ ý kiến của mình, không ai thuyết phục được ai cả, mà ở đời thì không có gì hoàn toàn phải hay hoàn toàn trái, phải lúc này là trái lúc khác, ở hoàn cảnh này là phải, ở hoàn cảnh khác là trái, không có gì nhất định. (Trang chủ trương “tề thị phi” – phải trái ngang nhau); người thắng vị tất đã là phải, tức là vị tất đã thắng, mà người thua vị tất đã là trái, tức là vị tất đã thua.

Trang bảo: “Giả sử tôi tranh luận với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không? Nếu tôi thắng anh thì có nhất định là tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta, có một người phải, một người trái? Hay là cả hai chúng ta đều phải cả, hoặc đều trái cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi thì người này do lẽ cùng ý kiến với tôi, làm sao có thể phê phán được?[3] Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh, hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa không? (Tề vật luận).

Mặc kinh bác những ý đó của Lão, Trang.

Điều 171: 以言為盡誖,誖,說在其言

(Dĩ ngôn vi tận bội[4], bội. Thuyết tại kì ngôn)

Người nào đó bảo rằng lời nào cũng sai hết. Nếu lời đó sai thì là sai rồi. Mà nếu lời đó đúng thì trong thiên hạ vẫn còn có lời đúng, đâu phải là sai hết; như vậy lời người đó cũng sai nữa.

Vậy không thể bảo lời nào cũng sai hết được, mà không phải hễ biện thuyết là không “thiện”.

Điều 135, bác ý biện luận thì không có kẻ thắng người bại:

謂辯無勝,必不當,說在辯

(Vị biện vô thắng, tất bất đáng, thuyết tại biện)

Biệt Mặc phân biệt rõ rệt phải, trái, không hoài nghi, “tề thị phi” như Trang; và hai người tranh biện với nhau, lời người nào xác đáng là người đó thắng. Dĩ nhiên có nhiều trường hợp như vậy: con bò mà bảo là con ngựa là sai rồi; nhưng nếu tranh luận về điểm hai con vật con nào có ích hơn con nào, thì quả như Trang nói, không ai thắng ai được. Tư tưởng của Trang sâu sắc hơn, mặc dầu cũng cực đoan khi hoài nghi hết thảy.

Ngoài ra Mặc Kinh (điều 144) cũng bác chủ trương “vô dục ố” của Lão, Trang, như chương trên chúng tôi đã nói.

Thuyết “nhân nội, nghĩa ngoại” (điều nhân do nơi mình, điều nghĩa do nơi người) của Cáo tử được chép trong Mạnh tử (Cáo tử thượng, bài 4).

Cáo tử (425-339?) nói với Mạnh tử: “Em tôi thì tôi thương, mà em người nước Tần thì tôi không thương. Sự thương ấy là do lòng tôi yêu thích em tôi, cho nên tôi bảo điều nhân là do nơi mình. Tôi kính trọng người nước Sở lớn tuổi hơn tôi, tôi cũng trọng người nước tôi mà lớn tuổi hơn tôi. Sự kính trọng ấy là do tuổi những người ấy lớn, cho nên tôi bảo điều nghĩa là do nơi người”.

Mạnh tử đáp: “Tôi thích ăn món chả của người nước Tần cũng như thích ăn món chả của người nhà làm. Những món đó làm cho tôi thích, cũng như tuổi già của mấy ông lão đó làm cho tôi kính trọng. Vậy thì sự thích ăn món chả cũng là do nơi ngoài nữa ư?”

Vậy Mạnh cho rằng nhân, nghĩa đều do nơi mình, do lòng mình cả.

Kinh hạ (điều 176) cũng chủ trương như Mạnh:

仁義之為內外也,內。說在仵顏

(Nhân nghĩa chi vi nội ngoại dã, nội. Thuyết tại ngũ nhan)[5].

Theo Tôn Di Nhượng, chữ “ngữ” đó nghĩa là “nghịch”, mà chữ “nhan” là chữ loại chép lầm (hai chữ hơi giống nhau). Cao Hanh bảo chữ “nhan” chép đúng, mà chữ ngũ, theo Thuyết văn có nghĩa là mắt bên trái lòi ra, mắt bên phải thụt vô, và điều 176 muốn nói: Bảo nhân là nơi mình, nghĩa là do nơi người, cũng không khác gì bảo: mắt bên trái từ trong nhìn ra, mắt bên phải nhận hình ảnh của vật từ ngoài vô. Hai nhà đó giải thích khác nhau, nhưng đại ý cũng cho rằng thuyết Cáo tử nghịch lí.

Kinh thuyết, giảng theo Cao Hanh: Nhân là yêu người, nghĩa là làm lợi cho người. Yêu và làm lợi [cho người] đều do mình ở trong cả, đối tượng của lòng yêu và việc làm lợi đó là người khác, nghĩa là đều ở ngoài cả. Nay, bảo nhân do nơi mình, nghĩa do nơi người; như vậy là về nhân thì chỉ nói đến lòng yêu mà không nói đến người mình yêu; mà về nghĩa thì chỉ nói đến người mình kính là không nói đến lòng kính của mình; cả hai trường hợp đó đều bỏ sót một phương diện, cho nên bảo là bậy. Cũng như thị giác ở hai mắt đều ở nơi mình (ở trong); vật mà hai mắt thấy đều ở ngoài. Nay bảo mắt bên trái nhìn thấy vật là do thị thị giác, còn mắt bên phải nhìn thấy vật là do hình ảnh ở bên ngoài đập vào mắt. Đâu có lí như vậy?

Mặc tử tin quỉ thần mà không tin thuyết âm dương ngũ hành của Trâu Diễn (340-260?). Thiên Quí nghĩa, bài 18, chép rằng lần đó ông đi lên phía Bắc để tới nước Tề; một ông thầy bói bảo đừng nên đi vì “Thượng Đế dùng ngày hôm nay để giết con rồng đen ở phương Bắc, mà nước da tiên sinh đen”.

Ông không nghe, cứ đi, nửa đường, gặp nhiều bất như ý, phải về.

Thầy bói trách ông không nghe lời mình. Người khác chắc đã nhận rằng thầy bói có lí, nhưng ông thì vẫn không tin, đáp: “trong số những người ở Nam không lên được Bắc (…) có người da trắng, có người da đen, cớ sao đều bất như ý cả? Vả lại Thượng Đế dùng các ngày giáp, ất để giết con rồng xanh ở phương Đông; các ngày bính, đinh để giết con rồng đỏ ở phương Nam; các ngày canh, tân để giết con rồng trắng ở phương Tây; các ngày nhâm, quí để giết con rồng đen ở phương Bắc; theo lời bác, tức là cấm thiên hạ đi (…) khiến ngoài đường không có người đi lại. Lời thầy không dùng được”.

Mặc quả là cương cường. Hơn một thế kỉ sau, phái Biệt Mặc tiến bộ hơn Mặc, không hề nhắc tới quỉ thần nữa, và bác luôn thuyết âm dương của Trâu Diễn: hoả khắc kim; kim khắc mộc; mộc khắc thổ; thổ khắc thuỷ; thuỷ khắc hoả.

Điều 143: 五行無常胜,說在多

(Ngũ hành vô thường thắng, thuyết tại đa)

Kinh thuyết giảng: Lửa (hoả) làm chảy được kim là do nhiều lửa, nếu kim nhiều mà lửa ít thì kim làm tắt được lửa; như vậy lửa khắc (thắng) được kim mà kim cũng có thể khắc được lửa.

Kinh không nói gì đến thuyết ngũ hành tương sinh: kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim. Nhưng Kinh thuyết thêm hàng này, mà Cao Hanh hiệu đính lại là:

金之附水,火麗木熾,若麋與魚之數惟所利

(Kim chi phụ thuỷ, hoả lệ mộc sí, nhược mi dữ như chi số duy sở lợi)[6]

và giảng là: kim nhờ vào nước, lửa dựa vào cây để bùng lên, cũng như loài nai nhờ vào rừng núi, loài cá nhờ vào vực, đều là lẽ tự nhiên của vật, vì vậy mà bảo được là thuỷ sinh kim, mộc sinh hoả. Vậy Mặc Kinh nhận rằng có mục tương sinh trong trời đất. Nhưng theo Trâu Diễn, kim sinh thuỷ, mà Kinh thuyết lại giảng ngược lại là thuỷ sinh kim, (kim nhờ vào nước), muốn sửa lại thuyết của Trâu Diễn chăng?

Bác các nhà nguỵ biện

Các nhà nguỵ biện ở đây phải kể trước hết là Huệ Thi và Công Tôn Long.

Huệ Thi sinh khoảng 370, mất khoảng 300, làm tướng quốc cho Huệ vương nước Lương, giao du với Trang tử, học rộng, viết nhiều nhưng sách đều thất truyền.

Công Tôn Long, người nước Triệu, sinh sau Huệ Thi, khoảng 300, mất khoảng 242. Sách ông viết nay còn sáu thiên nhưng không đáng tin vì có nhiều chỗ thiết sót, nhầm lẫn, lại có nhiều chỗ người đời sau thêm vào.

Theo sách Trang tử (thiên Đức sung phù) thì Trang tử bảo Huệ Thi: “Nay bác làm tổn thương hình hài, lao khổ tinh lực của bác, ngồi dưới gốc cây mà đàm luận [mệt mỏi rồi] dựa vào cây ngô mà ngủ, như vậy là trời cho bác hình thể mà bác không biết thuận thiên, lại đem thuyết tách rời cứng và trắng (li kiên bạch) ra nguỵ biện, lấy làm đắc ý”.

Cũng sách đó, thiên Thu thuỷ, chép lời Công Tôn Long nói với Nguỵ Mâu: “Tôi hồi nhỏ học đạo tiên vương, lớn lên hiểu được hành vi nhân nghĩa; hỗn hợp chỗ giống nhau và khác nhau (hợp đồng dị), tách rời cứng và trắng (li kiên bạch), bảo cái sai là phải, cái không nên là nên, làm mê hoặc trí óc của trăm nhà, khuất phục lưỡi của mọi người, tôi tự cho là cực thông đạt rồi”.

Theo hai đoạn đó thì Huệ Thi và Công Tôn Long đều thích biện thuyết, thắng người và đều chủ trương “li kiên bạch”. Thực ra, thuyết “li kiên bạch” là của Công Tôn Long, mà thuyết “hợp đồng dị” do Huệ Thi đưa ra.

Thiên Thiên hạ (sách Trang tử) bảo Huệ Thi có mười điều xét về vạn vật như sau:

1- Cái cực lớn thì không có cái gì bao vây nó ở ngoài, gọi nó là cái “đại nhất”; cái cực nhỏ thì không có cái gì ở trong, gọi nó là “tiểu nhất”.

2- Cái không có chiều dày thì không chồng chất lên được, vậy mà nó lớn tới ngàn dặm.

3- Trời thấp bằng đất, núi phẳng bằng chằm.

4- Mặt trời vừa lên tới đỉnh đã bắt đầu xế rồi; vật vừa mới sinh ra thì đã bắt đầu tiến tới chỗ chết rồi.

5- Giống nhau tất cả khác với giống nhau một phần, khác như thế gọi là “tiểu đồng dị”; muôn vật giống nhau hết mà cũng khác nhau hết, giống nhau và khác nhau như vậy gọi là “đại đồng dị”.

6- Phương Nam vô cùng mà lại hữu cùng.

7- Hôm nay tôi tới nước Việt mà tôi đã tới từ hôm qua rồi.

8- Những vòng móc liền vào nhau có thể gỡ ra được.

9- Tôi biết trung tâm của thiên hạ, nó ở phía Bắc nước Yên [một nước ở phương Bắc] và phía Nam nước Việt [một nước ở phương Nam].

10- Phải yêu khắp vạn vật vì vũ trụ là một.

Mười điều đó, nguyên văn có chỗ tối nghĩa, y như những lời kinh, mà lại không có phần kinh thuyết, nên đời sau mỗi nhà hiểu một khác, giảng một khác.

Chẳng hạn điều 3, nguyên văn là: 天與地卑,山與泽平 (Thiên dữ địa ti, sơn dữ trạch bình), trong Đại cương triết học Trung Quốc I, tr.421[7], chúng tôi giảng là: “Nhân chỗ cao của một vật mà cho vật đó là cao thì không có vật nào không cao. Nhân chỗ thấp của một vật mà cho vật đó là thấp thì không có vật nào là không thấp, cho nên trời không cao mà đất không thấp. Núi Tản Viên rất cao so với đáy hồ Lãng Bạc, nhưng cái đáy chằm nào đó ở sườn Hi Mã Lạp Sơn thì bằng hoặc cao hơn đỉnh núi Tản Viên. Thế thì trời thấp như đất, núi phẳng bằng chằm: Sự thống nhất vẫn có giữa cao và thấp”.

Nhưng còn có thể hiểu như thế này nữa: “Xét về phương diện tương đối thì trời cao đất thấp, núi cao hơn chằm; nhưng so sánh với cái vô cùng thì trời đất, núi chằm đều không đáng kể gì, ngang nhau hết”.

Lại có người giải thích rằng Huệ Thi đã biết rằng trái đất tròn và quay, khi nó đã quay thì chiều nào trong không gian cũng không nhất định, biết đâu là trên, biết đâu là dưới; biết đâu là cao, biết đâu là thấp.

Ba điều 7, 8 và 9 cũng mỗi người hiểu một khác. Và tuỳ theo cách hiểu mà các học giả cho rằng Huệ Thi đưa ra mười điểm đó để chứng tỏ rằng có điểm tương đồng của những cái tương dị, có tính cách hợp nhất giữa những cái đối đãi; nghĩa là theo Huệ, trong vũ trụ cái gì cũng tương đối hết; có học giả lại bảo những điều 1, 2, 3, 4, 5 “nói về sự cắt xẻ, phân tích về không gian hết thảy không phải là sự thực có”; những điều 7, 8. 9 “nói về sự cắt xẻ phân biệt về thời gian, hết thảy không phải là sự thực có” (Ngô Tất Tố - Mặc tử tr.178-184).

Như vậy thì làm sao biết được ai đúng ai sai? Nhưng ai cũng nhận rằng, thuyết “hợp đồng dị” quả là của Huệ Thi; còn thuyết “li kiên bạch” mới thực là của Công Tôn Long.

Trong Đại cương triết học Trung Quốc I (tr.404-412)[8], chúng tôi đã phân tích thuyết “li kiên bạch” của Công Tôn Long, ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt lại thôi, vì Công Tôn Long cũng như Huệ Thi không phải ở trong phái Biệt Mặc.

Chúng ta đặt tên cho mỗi vật. Vật đó là cái “thực”, tên đó là cái “danh”. “Danh” để chỉ cái “thực”. Công Tôn Long cũng nhận như vậy, nhưng chia danh ra làm hai: danh cụ thể trỏ cái cụ thể của vật, và danh trừu tượng để trỏ cái cộng tướng của vật, mà ông gọi là “chỉ”. Thí dụ: Cái danh con ngựa vừa trỏ riêng một con ngựa nào đó, đó là cái danh cụ thể, là vừa trỏ chung tất cả những con ngựa cũng như con ngựa đó, tức cái cộng tướng của loài ngựa, đó là danh trừu tượng, tức cái “chỉ”, “chỉ” có tính cách phổ biến.

Một thí dụ: Cái danh “vật trắng” không phải chỉ trỏ riêng một vật trắng nào đó mà còn trỏ chung tất cả những vật trắng khác.

Vật nào cũng do một số “chỉ” hội lại mà thành. Ví dụ hòn đá do hai “chữ” chắc và trắng hội lại mà thành, nhưng chính hòn đá cũng không phải là “chỉ” mà “chỉ” cũng không phải nhờ vật mới thành được.

Hai “chỉ” chắc và trắng của hòn đá tách lìa nhau chứ không vấn vít lấy nhau, hợp lại với nhau. Vì chúng ta không nhìn thấy cái “chắc” mà chỉ nhìn thấy cái “trắng”, như thế là không có cái “chắc” trong cái “trắng”; vỗ không thấy được cái “trắng” mà thấy được cái “chắc”, như thế là không có cái “trắng” trong cái “chắc”. Lúc thì thấy cái “trắng”, lúc thì thấy cái “chắc”, thấy cái nọ không thấy cái kia, như vậy hai cái “chắc” và “trắng” tách lìa nhau (li kiên bạch).

Tách lìa cái “chắc” và cái “trắng” rồi, Công Tôn Long còn tách lìa con ngựa trắng ra làm con ngựa và cái trắng. Đây là thuyết “bạch mã phi mã” của ông. Ông bảo: Con ngựa trắng không phải là ngựa, vì ngựa là tên gọi hình, trắng là tên gọi sắc. Cái gọi tên sắc không phải là cái gọi tên hình. Cho nên cái trắng không phải là con ngựa. Ngựa trắng là con ngựa với màu trắng. Con ngựa cộng với màu trắng không phải là con ngựa (không cộng với màu trắng).

Ngoài thuyết “li kiên bạch” ra, Công Tôn Long còn đưa ra nhiều thuyết nữa:

1- Cái “củ” không làm được hình vương; cái “qui” không làm được hình tròn.

2- Con chó con (cẩu) không phải là con chó.

3- Lửa không nóng.

4- Con nghé mồ côi chưa từng có mẹ.

5- Cái gậy dài một thước, mỗi ngày chặt lấy một nửa, vạn đời không hết.

6- Khi con chim bay, cái bóng không hề nhúc nhích.

v.v…

Đại khái thuyết của hai nhà nguỵ biện lớn nhất thời Chiến Quốc: Huệ Thi và Công Tôn Long như vậy. Họ gây những cuộc tranh biện “suốt đời không hết” mà phái Biệt Mặc cũng dự vào. Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt tóm tắt những lời Mặc Kinh bác hai nhà đó ra sao.

Bác Huệ Thi

Huệ Thi chủ trương “hợp đồng dị”, “vạn vật tất đồng, tất dị” (mọi vật đều giống nhau và đều khác nhau). Mặc Kinh không bác hẳn thuyết đó mà đưa ra một thuyết ngược lại: “li đồng dị”.

Điều 87 phân biệt bốn thứ “đồng” (giống nhau):

同:重,體,合,類

(Đồng: Trùng, thể, hợp, loại).

Đồng có trùng đồng, thể đồng, hợp đồng, loại đồng.

Trùng đồng là hai tên chỉ một vật, tuy tên khác mà vật chỉ là một, như Khổng Khâu và Trọng Ni để chỉ Khổng tử.

Thể đồng: Thể là một bộ phận của kiêm, tức của toàn thể. Ví dụ râu với tóc, chân với tay đều là những bộ phận của một người; hoặc như ngựa trắng và ngựa đen đều là ngựa cả, như vậy là thể đồng.

Hợp đồng là ở cùng một nơi, như hai người ở chung một nhà, hoặc dê và bò ở chung một chuồng.

Loại đồng là có điểm gì giống nhau như con trâu và con bò cùng có sừng, cùng ăn cỏ.

Điều 88, cũng phân biệt bốn thứ dị (khác nhau) trái với bốn thứ đồng:

異:二,不體,不合,不類

(Dị: nhị, bất thể, bất hợp, bất loại)

Nhị trái với trùng, bất thể trái với thể, bất hợp trái với hợp, bất loại trái với loại.

Đại thủ tế toái hơn, phân biệt chín thứ đồng, đại khái cũng như Kinh thượng, chúng tôi đã dẫn trong Đại cương triết học Trung Quốc I[9], nên chúng tôi không chép lại.

Mặc Kinh còn xét mối quan hệ giữa đồng và dị:

Điều 89:

同異交得,放有無

(Đồng dị giao đắc, phỏng hữu vô)

Đại ý là cùng một sự vật có thể có hai tính chất khác nhau, hay hai tính chất khác nhau có thể cùng thuộc một sự vật, chẳng hạn như có và không: có cái này mà không có cái kia, thế là vừa có mà vừa không.

Điều 39 kể một trường hợp dị mà đồng nữa:

同異而俱放之一也

(Đồng dị nhi câu ư chi nhất dã)[10]

Đồng là khác nhau mà có chỗ giống nhau. Chẳng hạn hai người khác nhau mà cùng thấy một cái cột nhà hoặc thờ một vua (Nhị nhân nhi câu kiến thị doanh dã, nhược sự quân[11]).

Trong Đại cương triết học Trung Quốc I, sau khi trình bày thuyết đồng dị của Mặc Kinh như trên, chúng tôi kết luận:

“Huệ Thi nhận thấy muôn vật đều có chỗ giống nhau, đồng thời lại có những chỗ khác nhau. Có đúng như thế thật. Nhưng những điểm tương đồng tương dị đó chỉ là những điểm “loại đồng”, “loại dị” – Những điểm giống nhau vì chủng loại, khác nhau theo chủng loại thế thôi. Chứ nếu chỉ vì những điểm tương đồng vì “loại đồng”, tương dị vì “loại dị” ấy mà kết luận rằng hết thảy đều cùng giống nhau, mà đều cùng khác nhau thì quả là quá đáng, là gò ép”.

Ý kiến đó, nay chúng tôi vẫn giữ. Còn ý kiến dưới đây:

“Đến như chỉ vì sự vật có điểm giống nhau mà bảo rằng trời đất muôn vật là “đồng nhất thể” thì e rằng lạm dụng danh từ, lầm “loại” với “thể” mất rồi”, thì chúng tôi xin sửa lại:

Điều 10 của Huệ Thi: “Phải yêu khắp vạn vật vì vũ trụ là một”, nguyên văn trong thiên Thiên hạ là: “Phiếm ái[12] vạn vật thiên địa nhất thể dã”. 氾爱萬物天地一體也.

Chữ thể trong câu đó của Huệ Thi có cùng một nghĩa với chữ thể trong Mặc Kinh không? Chúng tôi ngờ rằng không. Thể trong Mặc Kinh trỏ một phần tử của cái “kiêm”, tức của cái toàn thể. (Điều 2: Thể: phân ư kiêm dã). Còn thể trong câu của Huệ Thi có thể có nghĩa là bản thể, và “vạn vật thiên địa nhất thể”[13] nghĩa là “trời đất, vạn vật cùng một bản thể”. Quan niệm này là quan niệm chung của dân tộc Trung Hoa. Họ cho trời, đất, người là một, và gọi ba cái đó là tam tài. Trang tử, Huệ Thi mở rộng ra, cho trời, đất, vạn vật là một. Nếu lời chúng tôi đoán mà đúng thì không thể bảo Huệ Thi “lạm dụng danh từ, lầm “loại” với “thể” được”.

Vả lại Huệ Thi chủ trương “vạn vật nhất thể” để khuyên người ta “phiếm ái”, nghĩa là yêu khắp cả; tức là mở rộng thuyết kiêm ái của Mặc tử, không trái với Mặc tử; phái Biệt Mặc không có lí gì lại bác bẻ. Trước kia nhiều nhà đặt lầm Huệ Thi vào phái Biệt Mặc, có lẽ chính vì Huệ Thi cũng theo chủ trương kiêm ái của Mặc gia, tức chính vì điểm 10 “phiếm ái vạn vật thiện địa nhất thể” đó chăng?

Mặc Kinh thực sự đả Huệ Thi chỉ ở hai điểm dưới đây.

Điều 53: 平,同高也[14]

(Bình, đồng cao dã).

Nghĩa là hai vật cao bằng nhau thì gọi là bằng.

Câu đó bác câu: “Sơn dữ trạch bình” (điều 3) của Huệ Thi. Núi và chằm không cao bằng nhau, nên không gọi là bằng được. Lời bác này không có gì đặc biệt.

Điều 164: 行修以久,說在先後

(Hành tu dĩ cửu, thuyết tại tiên hậu)

Kinh thuyết giảng là: Đi đường thì tới chỗ gần trước rồi tới chỗ xa sau. Gần xa, Kinh gọi là “tu” (dài); mà trước sau, Kinh gọi là “cửu” (lâu). Đi đường dài thì tất phải có một thời gian lâu chứ không thể ngày hôm nay đi qua nước Việt mà đã tới từ hôm qua rồi, như điều 7 của Huệ Thi.

Lời chê đó cũng không có gì đặc biệt, chỉ là dùng lương tri để chê Huệ Thi nguỵ biện thôi. Huệ Thi tất nhiên là hiểu lẽ thông thường đó; nhưng ông ta muốn diễn điều gì trong điều 7, thì tới nay cũng không ai biết được, mà mỗi người hiểu một khác.

Người thì hiểu rằng: Hôm nay mới tới nước Việt, nhưng từ hôm qua đã nghĩ tới việc nước Việt, cho nên bảo tới từ hôm qua.

Người thì giảng: hôm nay là hôm qua của ngày mai, nên đứng về ngày mai mà nói thì hôm nay tức ngày hôm qua.

Có người lại bảo: Đối với thời gian vô tận, dẫu trăm nghìn năm cũng không đáng kể chi, huống hồ hôm qua với ngày nay thì khác gì nhau. Còn Hồ Thích thì cho rằng Huệ Thi trong câu đó muốn chối bỏ lối cắt xén, phân khu thời gian, nó có tính cách giả tạo.

Bác Công Tôn Long

Mặc Kinh có năm điều bác thuyết “li kiên bạch” của Công Tôn Long.

Điều 67: 堅白不相外也 (Kiên bạch bất tương ngoại dã): cái chắc và cái trắng không ở ngoài nhau.

Vì hai cái đó ở cùng một chỗ - tức cùng ở trong một hòn đá – nên chúng không ở ngoài nhau được: có cái chắc đó thì mới có cái trắng đó; mà có cái trắng đó thì mới có cái chắc đó. Chỉ khi nào hai cái đó không cùng ở chung trong một hòn đá, không chứa nhau, mà bài trừ nhau (nghĩa là có cái này – chẳng hạn cái chắc của thỏi sắt – thì không có cái kia – chẳng hạn cái trắng của tờ giấy), thì mới là ở ngoài nhau được. (Kinh thuyết: Ư thạch vô sở vãng nhi bất đắc nhị. Dị xử bất tương doanh tương bài thị tương ngoại dã[15] – Cao Hanh chấm câu ở sau chữ 二; nguyên văn là 相非 /tương phi/, ông sửa lại là 相俳 /tương bài/).

Điều 68: 攖,相得也 (Anh, tương đắc dã).

Kinh thuyết: dùng hình học để giảng: “anh” là chạm nhau, giao nhau, như hai đường thẳng (Mặc Kinh gọi là xích 尺) giao nhau thì cả hai đều không hết, nghĩa là còn đi nữa; nếu là một điểm (Mặc Kinh gọi là đoan 端) với một đường thẳng chạm nhau thì điểm sẽ hết mà đường thẳng vẫn còn; nếu hai điểm chạm nhau thì cả hai đều hết.

Chắc và trắng “tương đắc” tức cũng như giao nhau, chỗ nào có chắc thì có trắng, ngược lại cũng vậy; thế là cùng “hết” cả (kiên bạch chi anh tương tận)[16].

Điều 116: 堅白,說在因 (Kiên bạch, thuyết tại nhân), nghĩa là chắc và trắng (ở cùng một hòn đá thì) cái nọ nhân cái kia mà có.

Điều 137: 於一有知焉,有不知焉,說在存

(Ư nhất hữu tri yên, hữu bất tri yên, thuyết tại tồn).

Kinh thuyết giảng: Đá là một vật, chắc và trắng là hai tính chất của nó. Vỗ vào nó thì thấy nó chắc mà không biết là nó trắng; nhìn nó thì thấy nó trắng mà không biết nó chắc; nhưng chắc và trắng vẫn đồng thời tồn tại cả.

Điều 105: 不可偏去而二,說在見與俱、一與二、廣與修

(Bất khả thiên khứ nhi nhị, thuyết tại kiến dữ câu, nhất dữ nhị, quảng dữ tu)

Nghĩa là một vật có hai tính chất thì không thể bỏ một tính chất này chỉ giữ tính chất kia được. Hòn đá chắc và trắng chẳng khác chi một vật rộng và dài, nếu thấy cái nọ mà không thấy cái kia mà bảo hai cái lìa nhau thì không khác gì bảo chiều dài và chiều rộng của một vật lìa nhau.

Thiên Tiểu thủ bác luôn thuyết “bạch mã phi mã” của Công Tôn Long nữa:

“Ngựa trắng là ngựa, cưỡi ngựa trắng là cưỡi ngựa. Ngựa đen là ngựa, cưỡi ngựa đen là cưỡi ngựa” (Bạch mã, mã dã, thừa bạch mã, thừa mã dã. Li mã, mã dã, thừa li mã, thừa mã dã).

Tóm lại, khi nói đá chắc và trắng, Công Tôn Long coi chắc và trắng là hai khái niệm phổ biến, trừu tượng, hai “chỉ” (coi lại đoạn trên) nên tách rời hai cái đó ra; còn Mặc gia, đừng về phương diện thực tế, chỉ coi chắc và trắng là cái chắc của hòn đá đó, cái trắng của hòn đá đó, (chứ không phải là cái chắc, cái trắng phổ biến), vậy chúng cũng là tính chất của chung một vật (hòn đá đó); như vậy không thể tách chúng ra được.

*

* *

Mặc gia còn bác nhiều thuyết nữa của Công Tôn Long.

Điều 59: 圜,一中,同長也 (Viên, nhất trung, đồng trường dã)

Kinh thuyết: 規,寫交也 (Qui, tả giao dã)

Câu trên định nghĩa vòng tròn (circonférence), có một điểm trung tâm ở trong, mỗi điểm trên vòng tròn đều cách trung tâm đó bằng nhau.

Câu dưới trỏ cái “qui” (compas), dùng nó để vẽ một đường kín thì thành vòng tròn.

Công Tôn Long bảo cái qui không làm được hình tròn, vì ông cho “tròn” là một cộng tướng, trừu tượng, tuyệt đối tròn kia; mà cái qui không thể vẽ được một vòng tuyệt đối tròn. Mặc gia chỉ xét cái cụ thể, bảo cái “qui” vẽ được một vòng tròn mà mỗi điểm đều cách một điểm trung tâm bằng nhau, như vậy là vẽ được vòng tròn rồi.

Điều 60: 方,柱隅四歡也 (Phương, trụ ngung tứ hoan dã)

Kinh thuyết: 矩,寫交也 (Củ, tả giao dã)

Câu trên cũng là một định nghĩa hình học: Hình vuông là một hình mà bốn cạnh (trụ) bằng nhau, và bốn góc (ngung) bằng nhau.

Câu dưới trỏ cái “củ” (thước vuông: équerre) để vẽ hình vuông.

Điều này bác thuyết cái “củ” không vẽ được hình vuông. Lí luận của Công Tôn Long và của Mặc gia cũng như trong điều trên.

*

Điều 147: 火熱,說在頓 (Hoả nhiệt, thuyết tại đốn)

Kinh thuyết: 謂火熱也,非以火之熱我有,若視日 (Vị hoả nhiệt dã, phi dĩ hoả chi nhiệt ngã hữu, nhược thị nhật)

Có nhà bảo 頓 /đốn/ phải sửa là 純 (thuần), chữ 我 /ngã/ phải sửa là 俄 (nga).

Công Tôn Long bảo lửa nóng là do ta cảm giác thấy nóng; vậy nóng là chủ quan, tại ta chứ không phải tại lửa.

Mặc gia đáp: nóng là tại lửa, chứ không phải là tại ta, cũng như chúng ta thấy màu trắng (日 /nhật/ nên sửa là 白 /bạch/), là tại vật trắng chứ không phải tại ta. Nếu để chữ 日, thì giảng là: cũng như ánh sách mặt trời, ánh sáng và sức nóng của mặt trời là do mặt trời chứ không do ta. (Cao Hanh còn một cách giảng nữa, chúng tôi bỏ).

Điều 154: 狗,犬也,而殺狗非殺犬也,不可,說在重

(Cẩu, khuyển dã, nhi sát cẩu phi sát khuyển dã, bất khả (chữ bất này Cao Hanh thêm vô, nguyên văn không có) thuyết tại trùng)

Công Tôn Long bảo con cún (cẩu) không phải là con chó, giết con cún không phải là giết con chó. Có thể ông cho rằng con cún chỉ là một phần tử của loài chó, giết con cún không phải là giết cả loài chó. Cũng có thể ông cho rằng con cún chưa thành con chó, cho nên giết con cún không phải là giết con chó.

Mặc gia bác: cún cũng là chó. Vậy cún và chó là hai tên để chỉ một vật (trùng đồng – coi điều 87 ở trên), vậy giết con cún là giết con chó.

Điều 161: 可無也,有之而不可去,說在嘗然 (Khả vô dã, hữu chi nhi bất khả khứ, thuyết tại thường nhiên)

Nghĩa là: mọi sự vật nếu từ trước tới nay chưa có thì có thể bảo là không có; nhưng nếu đã từng có một lần rồi thì không thể coi lần đó là không có.

Điều này gián tiếp bác thuyết: “Con nghé mồ côi chưa từng có mẹ” của Công Tôn Long. Con nghé nào cũng do bò mẹ sinh ra, vậy là phải có mẹ. Dù mẹ nó chết rồi cũng không thể bảo rằng nó chưa từng có mẹ được.

Điều 160: 非半,弗( https://lh4.googleusercontent.com/-r9PBvwYZFsA/Tke4YrTu2YI/AAAAAAAAA1E/7YZ_9UFXoXc/Ch%2525E1%2525BB%2525AF%252520T%2525C3%2525A2n.jpg),則不動,說在端

(Phi bán, phất (?), tắc bất động, thuyết tại đoan)[17]

Kinh thuyết: Không sách nào cho biết 著斤 đọc ra sao, chỉ đoán nghĩa là chặt, cắt. Chữ 非 Cao Hanh ngờ là chữ /箠/ (chuỷ), cái roi ngựa; chữ ngờ là chữ (kiệt), và giải thích như sau:

Một chiếc roi ngựa dài một thước, chặt ra, lấy một nửa; ngày đầu lấy nửa thứ nhất, ngày thứ nhì lấy nửa thứ nhì, thế là hết.

Mặc gia muốn bác thuyết “cái gậy dài một thước, mỗi ngày chặt lấy một nửa, vạn đời không hết” của Công Tôn Long. Nhưng họ hiểu lầm Công Tôn Long nên bẻ bậy. Nguyên văn của Công Tôn Long (theo thiên Thiên hạ) là: 一 尺 之 捶 , 日 取 其 半 , 萬 世 不 竭 (Nhất xích chi chuỷ, nhật thủ kì bán, vạn thế bất kiệt), có nghĩa là[18] cái roi dài một thước, ngày đầu lấy một nửa, ngày thứ nhì lấy một nửa của cái nửa còn lại, ngày thứ ba, lại lấy một nửa của cái nửa còn lại… như vậy vạn đời cũng không hết. Mà không hết được thật vì, trên lí thuyết, không bao giờ chia một vật, dù là cực nhỏ, thành hư không được cả.

Thuyết đó giống thuyết “lực sĩ Achille không bao giờ đuổi kịp được con rùa” của Zénon, triết gia Hi Lạp ở thế kỉ thứ V trước T.L, sinh trước Công Tôn Long khoảng trăm rưỡi năm. Ví dụ con rùa đi trước Achille 100 thước, muốn đuổi bắt được nó thì trước hết phải vượt một nửa quãng 100 thước (tức 50 thước) đó đã; rồi phải vượt một nửa quãng 50 thước còn lại (tức 25 thước)… cứ như vậy, rốt cuộc lúc nào cũng còn lại một nửa chỗ còn lại lần trước, không khi nào hết được cả. Trên lí thuyết thì như vậy, thực tế khác hẳn. Zénon dùng nguỵ biện để chứng minh rằng không thể có sự chuyển động được, không bao giờ có thể di chuyển từ nơi này tới nơi khác được.

Mặc gia đã hiểu lầm hai chữ “kì bán”[19] đó không phải là một nửa cái roi, mà một nửa chỗ còn lại của cái roi.

Nhưng cũng có điều Mặc gia đồng ý với Công Tôn Long như:

Điều 118: /景不徙,說在改爲/

(Ảnh bất tỉ, thuyết tại cải vi) nghĩa là: một vật di động thì bóng nó vẫn đứng yên, không rồi chỗ, vì khi vật tiến tới thì một cái bóng khác sẽ xuất hiện, bóng cũ đã biến mất ở sau rồi.

Công Tôn Long cũng nói: Khi con chim bay, cái bóng nó không hề nhúc nhích. Chúng ta sở dĩ thấy cái bóng của nó cũng di chuyển là vì nó bay lẹ quá, nhiều cái bóng liên tiếp liền nhau, ta tưởng chỉ có một cái bóng. Nếu quay phim con chim, rồi chiếu thật chậm lại trên màn bạc thì ta sẽ thấy cái bóng thứ nhì khác cái bóng thứ nhất một chút, cái bóng thứ ba khác cái bóng thứ nhì một chút… đến cái bóng thứ mười chẳng hạn thì đã khác cái bóng thứ nhất nhiều rồi, không nhận ra được nữa.

Mặc Kinh còn có nhiều điều bác các biện giả khác thời đó nữa, chúng tôi không chép lại.

Chú thích:

[1] Có lẽ bản nguồn chép lầm “nhai” thành chữ “hạn”. Các bạn trên mạng chép là: 吾生也有涯,而知也無涯。以有涯隨無涯,殆已 (Ngô sinh dã hữu nhai, nhi tri dã vô nhai. Dĩ hữu nhai tuỳ vô nhai, đãi dĩ). (Goldfish).

[2] Các bản trên mạng chép là: 學之益也,說在誹者 (Học chi ích dã, thuyết tại phỉ giả). (Goldfish).

[3] Câu: “Nếu là một người cùng ý kiến với tôi… phê phán được?” là do tôi ghi thêm, theo cuốn Trang tử - Nam Hoa kinh của Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).

[4] Nguyên văn là (nghi). Cao Hanh sửa lại là vì theo Thuyết văn, hồi xưa hai chữ đó viết giống nhau. [“bội” (bản nguồn chép là “bột”): trên mạng có bản chép là 誖, có bản chép là 悖. Thiều Chửu bảo: chữ 誖 dùng như chữ 悖. (Goldfish).

[5] Ngũ: chữ 仵 (Thiều Chửu đọc là “ngỗ”), ở dưới có chỗ chép là “ngữ”. Câu này, nhiều bản chép là: 仁義之為內外也,罔,說在仵顏 (Nhân nghĩa chi vi nội ngoại dã, võng, thuyết tại ngỗ nhan), có bản chú: 罔 (võng) tự nguyên là 內 (nội). (Goldfish).

[6] Bản nguồn chép là: 金之附水,火麗木,若麋與魚之數惟所利

(Kim chi phụ thủy, hỏa lệ mộc xí, nhược nữ dữ ngư cho số duy sở lợi).

Hai chữ 附 (phụ), 惟 (duy), trang http://www.360doc.com/content/11/0602/18/5578727_121254585.shtml chép là: 府 (phủ), 唯 (duy) và không có chữ 熾 (sí):

金之府水,火麗木,若麋與魚之數唯所利 (Kim chi phủ thủy, hỏa lệ mộc, nhược nữ dữ ngư cho số duy sở lợi). (Goldfish).

[7] Bản của Nxb Thanh Niên, tr.538. (Goldfish).

[8] Bản của Nxb Thanh niên, tr. 525-527. (Goldfish).

[9] Xin trích (bản của Nxb Thanh niên, cuốn 1, tr.545-546):

“Thiên Đại thủ nói:

“(Đồng có) “Trùng đồng”, “câu đồng”, “liên đồng”, “đồng loại chi đồng”, “đồng danh chi đồng”, “khâu đồng”, “phụ đồng”, “thị chi đồng”, “nhiên chi đồng”, “đồng căn chi đồng”. (Trùng đồng, câu đồng, liên đồng, đồng loại chi đồng, đồng danh chi đồng, khâu đồng, phụ đồng, thị chi đồng, nhiên chi đồng. 重同,俱同,連同,同類之同,同名之同,同根之同,丘同,鮒同,是之同,然之同)

“Trùng đồng” và “đồng danh chi đồng” là “đồng” vì cùng một danh (hai danh một thực), tức cũng như “trùng đồng” trong Kinh thượng.

“Câu đồng” và “khâu đồng” đều cùng nghĩa là “cùng ở một nơi”, tức cũng như “hợp đồng” trong Kinh thượng. (Chữ “khâu” ở đây đồng nghĩa với chữ khu là khu vực; “khâu đồng” là cùng ở trong khu vực).

“Liên đồng”, cũng như “phụ đồng”, có nghĩa là cùng liên thuộc, phụ vào một cái toàn thể, tức cũng như “thể đồng trong Kinh thượng.

“Đồng loại chi đồng”, tức là “loại đồng” của thiên Kinh thượng, nghĩa là “có điểm để giống nhau”. “Đồng loại chi đồng” lại chia làm ba là:

- “Thị chi đồng”: giống nhau vì cùng phải.

- “Nhiên chi đồng”: giống nhau vì cùng thế.

- “Đồng căn chi đồng”: giống nhau vì cùng nguồn gốc”.

(Goldfish).

[10] Kinh thuyết, điều 39, các bản trên mạng chép như sau: 同異而俱放之一也. (Bản nguồn chép phiên âm là: (Đồng dị như cân ư chi nhất dã), ở trên tôi đã sửa lại. (Goldfish).

[11] Kinh thuyết thượng, điều 39, các bản trên mạng chép là: 侗,二人而俱見是楹也,若事君 (Phiên âm ở trên, bản nguồn cũng chép sai vài chữ, tôi cũng đã sửa lại). Hai chữ “đồng” trong lời Kinh và lời Thuyết không giống nhau. Trang http://www.guoxue123.com/zhibu/0301/00mzjg/009.htm giảng: chữ 侗, ngày nay viết là 同. (Goldfish).

[12] Phiếm ái: trên mạng, có bản chép là: 氾爱, có bản chép là: 泛愛. (Goldfish).

[13] “vạn vật thiên địa nhất thể”: bản nguồn chép là: “vạn vật trong thiên thể”. (Goldfish).

[14] Câu này do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[15] Nguyên văn chữ Hán, bản nguồn chép là: 於石無所往而。不得,得二。異處不相盈,相非,是相外也; tức vẫn giữ nguyên hai chữ 相非 (tương phi). Nhiều bản trên mạng cũng chép như vậy. Tương ứng với hữ 異 (dị), có bản chép là 堅 (kiên), có bản chép là: 堅白 (kiên bạch). (Goldfish).

[16] Nguyên văn chữ Hán, các bản trên mạng chép là: 堅白之攖相盡. (Goldfish).

[17] Nguyên văn chữ Hán tôi chép theo trang http://www.chinamozi.net/news_view.asp?id=1620, vì thấy nó gần giống với phần phiên âm: “Phi bán bất… tắc bất động, thuyết tại đoan” (ở trên tôi tạm sửa “bất” thành “phất”), và phù hợp với câu: “Không sách nào cho biết 著斤 đọc ra sao”. Chữ “著斤” tức là chữ . Bản nguồn không chép lời Kinh mà chép lời Thuyết: 非:0半。进前取也;前则中无为半,犹端也。前后取:则端中也。0必半,毋与非半,不可也.

(Tạm phiên âm: Phi: 0 tiến tiền thủ dã; tiền tắc trung vô vi bán, do đoan dã. Tiền hậu thủ: tắc đoan trung dã. 0 tất bán, vô dữ phi bán, bất khả dã). Tương ứng với hai chữ “0”, trang http://www.xkcw.com.cn/bk/wl/gao2/web/zk10/text/zk10_139.htm chép là: (http://www.xkcw.com.cn/bk/wl/gao2/web/zk10/text/Image5621.gif ), tức cũng gần giống với chữ . (Goldfish).

[18] Bản nguồn chép là: “Nguyên văn, Công Tôn Long (theo thiên Thiên hạ) là: có nghĩa là”. Trong ĐCTHTQ cũng dẫn câu “Nhất xích chi chuỷ, nhật thủ kì bán, vạn thế bất kiệt” (sđd, tr.550), nhưng không chép chữ Hán. (Goldfish)

[19] Bản nguồn chép là: bốn chữ “kì bán”. (Goldfish).