CHƯƠNG IV TRI THỨC LUẬN
Pháp gia chỉ bàn về chính trị, không bàn về tri thức, lại coi thường cả sự giáo dục dân chúng, cho rằng dân càng ngu càng dễ trị. Danh gia chỉ dùng danh từ mà nguỵ biện, lấy sự thắng được mọi người làm một trò vui; nếu quả thật họ có phát kiến được ít điều về khoa học như một số học giả nghĩ thì cũng là ngoài ý muốn của họ: họ không dụng tâm tìm hiểu, suy nghiệm.
Lão, Trang đối với tri thức có phần khinh thị, hoài nghi. Chương III Đạo Đức kinh khuyên đừng nên cho dân biết ham muốn gì cả (Sử dân vô tri vô dục), miễn họ được no bụng, mạnh xương (thực kì phúc, cường kì cốt).
Còn Trang tử thì bảo: “Đang lúc mộng, không biết là mình mộng, trong mộng lại xem mình mộng. Tỉnh giấc rồi mới biết rằng đó chỉ là giấc mộng lớn. (Phương kì mộng, bất tri kì mộng dã, mộng chi trung hựu chiêm kì mộng yên. Giác nhi hậu tri kì mộng dã. Thả hữu đại giác nhi hậu tri thử kì đại mộng dã – Tề vật luận). Một lần ông nằm mộng thấy mình hoá bướm, tỉnh dậy thấy mình rõ ràng là người, đâm ra hoài nghi tự hỏi không biết bướm hoá ra ông hay ông đã hoá ra bướm.
Chỉ có Nho, Mặc trọng tri thức. Khổng tử hễ nói đến nhân (đạo nhân) thường cho trí kèm theo. Ông thường khuyên người ta nên tránh bốn lỗi: “vô ý”, nghĩa là khi xét việc gì, không nên đem ý riêng của mình vào, mà cứ theo lẽ phải; “vô tất”, nghĩa là không quyết rằng điều đó tất đúng, việc đó tất làm được; “vô cố”[1], nghĩa là không câu nệ, cố chấp; “vô ngã”, tức là phải quên mình đi, đừng để cho cái “ta” làm mờ ám. (Tử hãn 4). Thiên Vi chính, bài 17, ông bảo: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất vi, thị tri dã” (Biết thì nói là biết, không biết thì nhận không biết; như vậy là biết đấy).
Mặc tử thì như trong phần I chúng ta đã thấy, đầu thiên Phi mệnh hạ, ông đã nêu ra ba tiêu chuẩn để bàn, để biết đúng sai; ba tiêu chuẩn đó là: “khảo, nguyên, dụng” mà ông gọi là “tam pháp” hoặc “tam biểu”.
Nhưng nói đến tri (biết), tri (sáng suốt), Khổng tử và Mặc tử, nghĩ đến đạo lí trước hết. Phải tới giữa thời Chiến Quốc, Tuân Tử và phái Biệt Mặc mới bàn về tri thức, mới đặt cơ sở cho tri thức luận trong triết học Trung Hoa.
Những suy nghĩ của họ chép rời rạc trong Mặc Kinh, không sắp đặt thành hệ thống. Dưới đây chúng tôi dựa theo bố cục của Phùng Hữu Lan trong sách đã dẫn, mà sắp đặt lại những nét chính đã trình bày rải rác trong Đại cương triết học Trung Quốc I; chúng tôi cũng sửa đôi chỗ theo những hiệu đính mới nhất của Cao Hanh.
*
Mặc Kinh rất coi trọng tri giác, cho rằng người ta có biết (có tri giác) mới gọi là sống được.
Điều 22, định nghĩa thế nào là sống: /生:形與知處也/ (Sinh: hình dữ tri xử dã), nghĩa là hình thể và tri giác hợp lại là sống; nếu rời nhau thì chết[2].
Điều 23: /臥知無知也/ (Ngoạ tri vô tri dã). Ngủ thì tri giác không tiếp xúc với vật ở chung quanh.
Ngủ vẫn còn sống, vậy vẫn còn tri giác, nhưng tri giác lúc đó không tiếp xúc với vật, nên không biết gì cả.
Điều 24: /夢:臥而以為然也/ (Mộng: ngoạ nhi dĩ vi nhiên dã). Ngủ mà có tri giác, thì tri giác đó vốn không có thực mà cho là có thực, như vậy là mộng.
TRI THỨC
Điều kiện của tri thức
Theo Mặc Kinh, muốn có tri thức thì phải có bốn điều kiện, mà điều kiện cơ bản là bản năng của giác quan, mà điều 3 gọi là tài [材]知材也 (Tri, tài dã).
Chẳng hạn tai mắt phải sáng thì mới nghe thấy, trông thấy được: nếu điếc, đui, nghĩa là tai mắt mất bản năng của chúng rồi thì không nghe thấy, trông thấy, không biết gì nữa.
Các giác quan còn đủ bản năng, nhưng mình phải muốn biết, thì mới dùng tới chúng mà biết được. Chẳng hạn đi ngoài đường, mà mãi nghĩ về một việc gì đó chúng ta không để ý đến xe cộ thì xe hơi đăm thẳng tới ta, bóp còi, chúng ta cũng không biết. Lòng muốn biết đó, điều 4 gọi là “lự”: /慮,求也/ (Lự, cầu dã). Đó là điều kiện thứ nhì.
Điều kiện thứ ba là tiếp xúc với vật. Muốn biết rồi, ta mới cho giác quan tiếp xúc với vật. Cho nên điều 5 bảo: 知,接也 (Tri, tiếp dã). Giác quan tiếp xúc với vật, rồi trong óc mới có một ấn tượng về vật đó, và ta mới biết vật đó ra sao, (chẳng hạn biết chiếc xe hơi đương chạy tới).
Điều kiện cuối cùng là suy luận, nhận thức.
Điều 6 bảo: /,明也/ (Tri[3], minh dã). Tri là sáng.
Kinh thuyết giảng: 也者,以其知論物,而其知之也著。若明 /0 dã giả, dĩ kì tri luận vật, nhi kì tri chi dã trứ. Nhược minh/
Nghĩa là: Đem cái biết tức là cái ấn tượng của vật ở trong óc ra mà luận vật thì lúc đó mới biết được thấu đáo vật đó, như vậy là “tri”, sáng suốt; chẳng hạn mới biết chiếc xe đó đương chạy nhanh, sắp đụng vào ta, nếu ta không kịp tránh, thì sẽ bị tai nạn.
Tóm lại Mặc Kinh cho rằng quá trình về tri thức như sau:
- Giác quan phải còn đủ bản năng
- Phải muốn dùng chúng
- Phải cho chúng tiếp xúc với vật
- Phải suy luận.
*
Nhưng đó mới chỉ là một loại tri thức do giác quan cho ta; còn một loại nữa, không do giác quan.
Điều 146: 知而不以五路,說在久 (Tri nhi bất dĩ ngũ lộ, thuyết tại cửu). Biết mà không do “ngũ lộ” (năm đường) thì như lâu mau.
Chữ “ngũ lộ” ở đây trỏ “ngũ quan” (tai, mắt, mũi, miệng, da), mà Tuân Tử gọi là “thiên quan” (天官), Lão, Trang gọi là “thiên môn” (天門). Vì năm cái đó là chủ tể của cảm giác, cho nên gọi là “quan”; vì do năm cái đó mà vật ở ngoài tiếp xúc với ta, gây một ấn tượng trong óc ta, nên gọi là “lộ” (đường) hay “môn” (cửa). Chúng ta biết được thanh âm, màu sắc, vị, mùi (hương), biết được cứng mềm, nặng nhẹ, nóng lạnh… nhờ ngũ quan. Nhưng ý niệm lâu hay mau thì không do ngũ quan, mà do kinh nghiệm.
Chữ “cửu” (lâu) ở đây, điều 40 đã định nghĩa:
久,彌異時也 (Cửu, di dị thời dã). Lâu là khắp cả thời giờ khác nhau.
Kinh thuyết giảng rõ thêm:
久,古今旦暮[4] (Cửu, cổ kim đán mộ). Lâu là xưa nay, sớm tối.
Vậy cửu là thời gian, mà sách Hoài Nam tử trong thiên Tề tục còn gọi là “trụ”.
Không gian tuy không thuộc loại tri thức thứ nhì đó (vì dùng mắt có thể biết được xa, gần, rộng hẹp). Mặc Kinh cũng đặt cạnh thời gian và gọi là “vũ”.
Điều 41: 宇,彌異所也 (Vũ: di dị sở dã). Cõi là khắp cả các chốn khác nhau.
Kinh thuyết giảng rõ thêm: 宇:東西家南北 (Vũ: đông tây, gia, nam bắc)
Cao Hanh giảng: Cõi là đông tây, chỗ mình ở (gia) và nam bắc.
Nhưng có sách bảo phải sửa là: Vũ: mông 蒙 đông tây nam bắc, nghĩa là cõi trùm cả đông tây, nam bắc. Hiểu theo cách nào thì “vũ” ở đây cũng trỏ không gian.
*
* *
Mặc Kinh lại phân biệt ba loại tri thức và bốn yếu tố của tri thức.
Điều 81: 知,聞,說,親,名,實,合,為 (Tri: văn, duyệt[5], thân; danh, thực, hợp, vi). Biết: do nghe, suy, nghiệm; (phải có) danh, thực, sự, phù hợp giữa danh và thực (hợp) và sự thực hành cái biết (vi).
Nửa phần trên nói về ba loại tri thức; nửa phần dưới nói về bốn yếu tố của tri thức.
Ba loại tri thức
Kinh thuyết giảng: 傳授之,聞也。方不[6]說也。身觀焉,親也 (Truyền thụ chi, văn dã. Phương bất chướng duyệt dã. Thân quan yên, thân dã)
Loại tri thức thứ nhất là “nghe”, tức là được người khác truyền cho mình. Loại thứ nhì không bị chướng ngại (không bị tai mắt ngăn cách, không cần phải nghe, thấy, phải tới tận nơi), chỉ cần suy xét mà biết. Loại thứ ba là do thể nghiệm mà biết.
Ví dụ: Đầu tháng 10 dương lịch, đài phát thanh cho hay cánh đồng Tháp Mười như một biển nước, do đó mà chúng ta biết đồng đó ngập nước. Sự biết đó là do nghe mà biết.
Chẳng cần phải đợi báo chí, đài phát thanh loan tin, chúng ta cũng biết được vào hồi đó, nước trên nguồn sông Cửu Long đổ xuống và mưa không thoát ra biển kịp, thì tất nhiên nước phải tràn bờ mà vào đồng Tháp Mười, làm ngập cánh đồng đó. Sư biết đó là do suy luận mà biết. Nếu ta lại đích thân vô đồng Tháp Mười quan sát, thấy làn nước mênh mông từ Hồng Ngự đến Long An thị sự biết này là do thể nghiệm mà biết.
Bốn yếu tố của tri thức
Kinh thuyết giảng: 所以謂,名也。所謂,實也。名實耦,合也。志行,為也 (Sở dĩ vị, danh dã. Sở vị, thực dã. Danh thực ngẫu, hợp dã. Chí hành, vi dã).
Muốn bày tỏ sự hiểu biết, cảm tưởng, ý kiến của mình về một cái gì thì phải có cái đó đã. Cái đó, gọi là “thực”. Có cái “thực” thì phải có tên gọi nó, cái tên đó gọi là “danh”. Có “thực” thì phải có “danh”. Có “danh” thì phải có “thực”. Danh với thực phải phù hợp với nhau; cái danh đó trỏ cái thực đó thôi, không thể trỏ cái thực khác được; mà cái thực đó chỉ ứng với cái danh đó thôi. Cây mít không thể gọi là cây xoài được, cái bàn không thể gọi là cái ghế được. Như vậy mới là chính danh.
Đó là ba yếu tố đầu của tri thức: Có danh, có thực, danh và thực phù hợp với nhau.
Yếu tố thứ tư là cái biết phải thực tiễn (vi), thực tiễn gồm hai thành phần là “chí” và “hành”. “Chí” là mục đích, “hành” là hành động. Định mục đích rồi nhắm mục đích đó mà hành động, như thế gọi là thực tiễn (vi). “Chí” phát ở trong lòng mình; “hành” phát ra ở ngoài. “Chí” là giai đoạn đầu, “hành” là giai đoạn sau. Biết mà không thực tiễn, không đưa tới hành động thì chưa đủ gọi là biết. Tri thức mà chỉ có tính cách viễn vong, không thực tiễn, ứng dụng được thì không thực là tri thức.
Vậy ở đây, phái Biệt Mặc đã giữ được truyền thống của Mặc tử, coi trọng thực dụng. Chúng ta còn nhớ, khi bàn về kiêm ái, Mặc tử bảo: “Nếu (thuyết kiêm ái) không dùng được thì ngay tôi đây cũng chê, Vả lại đâu có cái gì tốt mà không dùng được bao giờ”. Phái Biệt Mặc đả kích mạnh bọn nguỵ biện như Công Tôn Long vì thuyết của họ không những không thực hành được mà còn có khi gây hại nữa, như khi họ bảo “lửa không nóng”…
Mặc kinh (điều 148) còn đưa ra một cách để xét xem kẻ nào tự coi là biết, có thực là biết không:
(Tri kì sở dĩ bất tri, thuyết tại dĩ danh thủ)[7].
Kinh thuyết giảng:
Muốn thử một người nào tự cho là biết thì ta để lẫn lộn những vật người đó biết và những vật người đó không biết rồi hỏi. Nếu người đó đáp: “Cái này tôi biết”, “cái kia tôi không biết”, rồi lấy, bỏ đều đúng cả, như vậy mới là biết. Lời giảng hơi lúng túng nhưng ý nghĩa như bài 9 thiên Quí nghĩa.
Một người mù bảo đá hoa cương trắng, mồ hóng đen, điều đó rất đúng; nhưng nếu để lẫn lộn vật đen và vật trắng mà bảo lựa thì người mù không biết được. Phải biết tên, lại phải biết lựa nữa mới là biết.
Tiến thêm một bước nữa, Mặc Kinh chia “danh” làm ba loại, “vị” làm ba loại, và “vi” làm sáu loại.
- Ba loại “danh”
Điều 79: /名:達,類,私/ (Danh: đạt, loại, tư). Danh (chia làm): đạt danh, loại danh, tư danh.
Kinh thuyết giảng: Tiếng nói nào phát từ miệng ra đều là “danh” cả (/聲出口,俱有名/ Thanh xuất khẩu, câu hữu danh) vì đều đại biểu cho một khái niệm nào đó. Vậy “danh” trong Mặc Kinh có một ý nghĩa rộng hơn tiếng “danh từ” của ta, tiếng “substantif” của Pháp. Nhưng khi phân biệt ba loại danh thì nó giống “danh từ” của ta.
“Đạt danh” là tiếng gọi chung các loài vật (như chữ vật 物) hay các sự việc (như chữ sự 事).
“Loại danh”: là tiếng gọi một loài vật nào đó (như ngựa), hay một sự việc nào đó (như di chuyển).
Còn “tư danh” là tên trỏ riêng một vật thôi (như anh Xuân, nước Việt Nam, con Xích thố của Quan Công).
Thiên Đại thủ bảo “danh” có thứ để trỏ hình dáng (/以形貌命者/ dĩ hình mạo mệnh dã) như làng, xóm, nước Tề, nước Sở; có thứ để trỏ số lượng (/以舉量數命者/ dĩ cử lượng số mệnh dã), như trăm, ngàn, cân lượng.
Cách phân loại đó thiếu sót, không hoàn bị.
- Ba loại “vị”
Điều 80: /謂:移,舉,加/ (Vị: di, cử, gia) “Vị” là bảo, hoặc gọi. Có ba loại: dời, trỏ đúng, thêm.
Con cún là con chó con, chưa phát triển đầy đủ thành con chó, nhưng vẫn thuộc loài chó, bảo: “con cún là loài chó” thì cũng như bao “ngựa trắng là con ngựa”, như vậy là “dời” cái tên “chó” để gọi cún, “dời” cái tên “ngựa” để gọi con ngựa trắng.
Trỏ đúng (cử) tên một loài, như cún thì trỏ chung các loài cún, chó trỏ chung các loài chó. Chữ “cử” ở đây, gần giống chữ đại biểu: “danh” để “cử” cái thực, tức như để đại biểu, thay cho cái thực. Vì nó thay cho cái thực, cho nên chúng tôi dịch thoát là gọi đúng; “trỏ đúng” tên khác với “dời” tên (mượn tên).
Sau cùng, gia (加) có nghĩa là thêm, nhưng ở đây phải hiểu là cấp cho, đại khái như từ attribuer của Pháp. Như thấy con chó trước mặt ta, ta mắng nó” “Chó, đi!”, như vậy là “thêm” cái “danh” chó vào cái “thực” là con chó đó. Chữ gia rất khó dịch, chúng tôi gượng dịch là thêm.
Cách phân loại đó không hợp lí.
- Sáu loại “vi”
Điều 86: /為:存,亡,易,蕩,治,化/ (Vi: tồn, vong, dịch, đãng, trị, hoá). Làm gồm: làm cho còn, làm cho mất, trao đổi, trừ hại, trị, hoá.
Kinh thuyết: /早臺,存也。病,亡也。買鬻,易也。霄盡,蕩也。順長,治也。鼃買,化也/ (Táo đài, tồn dã. Bệnh, vong dã. Mãi dục, dịch dã. Tiêu tận, đãng dã. Thuận trướng, trị dã. Oa mãi[8], hoá dã).
Chữ /早/ (tảo), Tôn Di Nhượng sửa là /甲/ (giáp): áo giáp. Cao Hanh sửa là chữ /早/ (tảo), mà thay cho chữ /槽/ (tào) là cái máng cho súc vật ăn (vì hai chữ đó đọc giống nhau). Không biết thuyết nào đúng, nhưng cả hai đều giảng giống nhau.
“Làm” có sáu loại, xét về mục đích.
Loại thứ nhất: làm để cho còn (tồn), tức như ta nói ngày nay để tạo nên một vật gì. Thí dụ: xây một cái đài, làm một cái áo giáp (thuyết của Tôn) hoặc cái máng cho súc vật ăn (thuyết của Cao).
Loại thứ nhì: làm cho mất đi (vong), như trị bệnh là làm cho hết bệnh.
Loại thứ ba: làm để trao đổi (dịch), như mua bán tức là trao đổi vật này lấy vật khác.
Loại thứ tư: làm để trừ hại (đãng), như trừ giặc cướp, sâu bọ.
Loại thứ năm: làm để vật thuận sinh, phát triển lên (trị) như trồng cây, nuôi súc vật.
Loại thứ sáu: làm để biến hoá (hoá), vì có lúc chúng ta muốn sự vất này biết thành vật khác. Thí dụ về biến hoá: con chẫu chuột (oa) – theo người Trung Hoa thời cổ - có thể biến con chim cút (thuần)[9].
Về liên quan giữa làm (vi) và lòng muốn (dục), trong Mặc Kinh chúng ta chỉ thấy mỗi một điều nhắc tới.
Điều 76: /為,窮知而 於欲也/ (Vi, cùng tri nhi huyền ư dục dã), và Ngô Tất Tố (sách đã dẫn – tr.163) căn cứ vào đó mà cho rằng Mặc Kinh nhận thấy phải có dục vọng thì con người mới hành động, cơ hồ coi dục vọng có tác động mạnh hơn lí trí.
Nhưng ở chương I này chúng tôi đã nói, chữ /vi 為/ ở điều 76 đó, Cao Hanh bảo phải sửa là chữ // chưa biết thuyết nào đúng, nên ở đây chúng tôi không bàn tới.
BIỆN THUYẾT
Mặc tử suốt đời đi khắp các nước chư hầu rán thuyết phục mọi người kiêm ái, làm lợi lẫn nhau, thuyết phục các nhà vua đừng xâm chiếm đất nhau, và hễ thấy nước nào bị nước khác uy hiếp thì đem quân đến cứu. Ông tự hào rằng lập luận của ông rất vững, “kẻ nào cầm lời của mình để bài bác ông thì cũng như cầm trứng ném vào đá; ném hết trứng trong thiên hạ, đá vẫn y nguyên không sứt mẻ”. (Quí nghĩa – 19).
Khổng tử “hối nhân bất quyện” thì Mặc tử cũng “thuyết nhân bất quyện”, cho nên thiên hạ chê là nói nhiều. Như Công Mạnh tử có lần bảo ông: “Mình thực làm điều thiện thì ai mà không biết? Như (…) người đàn bà đẹp không ra khỏi nhà, người ta cũng tranh nhau cầu thân. Còn như mình hành động mà tự khoe thì chẳng ai dùng mình. Nay thầy đi thuyết phục mọi người, sao mà khó nhọc như vậy?”
Ông đáp: “Đời này loạn, số người cầu đàn bà đẹp thì nhiều, cho nên đàn bà đẹp không ra khỏi nhà, nhiều người cũng tìm tới; còn số người cầu người hiền thì ít, không gắng thuyết phục người ta, tất người ta không biết”.
Lời đó làm cho ta nhớ lời Khổng tử trong chương Tử hãn, bài 17: “Ta chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc” (Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã). Sao hai nhà giống nhau thế!
Vậy Mặc tử trọng sự biện thuyết. Phái Biệt Mặc không làm chính trị như ông, không đi du thuyết, nhưng suy tư về phép biện thuyết, cũng đáng gọi là nối được truyền thống của ông.
Họ nhận rằng ngôn ngữ biểu thuật được tri thức.
Điều 92 và 93, họ bảo lời nói là cái tài của miệng, căn cứ vào lời nói mà thấy được ý là nhờ cái tâm biết suy biện. (/言,口之利也 - 執所言而意得見,心之辯也/ Ngôn, khẩu chi lợi dã – chấp sở ngôn nhi ý đắc kiến, tâm chi biện dã) – chữ biện ở đây dùng như chữ biện .
Họ phân biệt hai trường hợp “biện”: trường hợp “biện” để thuyết minh, làm sáng tỏ ý mình về một vấn đề nào đó; trường hợp “biện” để tranh thắng. Có thể bảo trường hợp trên là hiểu biện theo nghĩa rộng, mà trường hợp dưới là hiểu theo nghĩa hẹp.
Điều 73: /說,所以明也/ (Thuyết, sở dĩ minh dã). Điều này thuộc về trường hợp thứ nhất, nghĩa rất rõ, nên không có phần Kinh thuyết.
Điều 74: Thuộc về trường hợp thứ nhì:
/彼不可兩,不可也/ (Bỉ, bất khả lưỡng bất khả dã).
Kinh thuyết: (Bỉ: huỷ ngưu, tru phi ngưu, lưỡng dã, vô dĩ phi dã)[10]
Phần Kinh, nguyên văn là chữ 攸 /du/ các sách đều sửa lại là 彼 /bỉ/ theo hiệu đính của Trương Huệ Ngôn, Cao Hanh giảng 彼 là “mệnh đề đem ra tranh biện”. Vì điều 75 bảo: “Biện, tranh bỉ dã” /辯,爭彼也/: biện là hai bên tranh luận về một mệnh đề.
Phần Kinh thuyết, nguyên văn các sách để nguyên, và đại ý giảng là: “Phàm đã là bò thì khác không phải là con bò, nếu hai bên điều thừa nhận là bò hay thừa nhận không phải là bò thì không có chỗ nào bảo nhau là không phải”. Trong Đại cương triết học Trung Quốc I, tr.667 chúng tôi đã dịch như vậy. Nhưng Cao Hanh bảo chữ /Phàm 凡/ nên sửa là chữ huỷ /兕/, chữ /xu 樞/ nên sửa là chữ tru // (vì mặt chữ giống nhau, cổ nhân đã chép lầm) và giảng là: Bảo con huỷ (tê ngưu) cùng loài với con ngưu (bò), đó là mệnh đề nữa. Nếu ông Giáp đưa ra mệnh đề thứ nhất (huỷ và ngưu đồng loại) mà ông Ất đưa ra mệnh đề thứ nhì (tru với ngưu khác loại), hai bênh hai mệnh đề khác nhau thì không có gì bác nhau. Không sinh ra tranh biện. Tóm lại, chỉ có tranh biện khi chỉ có một mệnh đề mà mỗi bên đưa ra ý kiến khác nhau, chẳng hạn Giáp bảo con huỷ cùng loại với con ngưu, mà Ất bảo là khác loại.
Một khi đã có tranh biện thì tất có một bên khẳng định, một bên phủ định (không thể hai bên cùng khẳng định hay cùng phủ định được, như vậy đâu còn tranh biện nữa) mà bên nào đúng (có lí) là bên đó thắng; chẳng hạn bên bảo con huỷ cùng loài với con ngưu, có lí, đúng, sẽ thắng. Đó là ý nghĩa điều 75:
“Biện, tranh bỉ dã. Biện thắng, đáng dã”. /辯,爭彼也。辯勝,當也/
Điều 135, Mặc Kinh còn nói rõ thêm:
Câu đó, chúng tôi đã dẫn trong chương III: Bác các nhà khác[11], dưới đây chúng tôi xin giảng rõ hơn.
Trong Đại cương triết học Trung Quốc I tr.691, chúng tôi dịch câu đó: Bảo rằng biện bác thì không thắng được, lời đó không ổn đáng. Là vì khi bảo: “Biện bác không thể thắng được”, như thế tức là đã biện bác và muốn thắng rồi”. Nay chúng tôi thấy hiểu như vậy không đúng với Kinh thuyết:
/謂,所謂非同也,則異也。同則或謂之狗,其或謂之犬也。異則或謂之牛,其或謂之馬也。俱無勝,是不辯也。辯也者,或謂之是,或謂之非,當者勝也/[12]
(nguyên văn là Cao Hanh sửa lại )
(Vị) sở vị phi đồng dã, tắc dị dã. Đồng tắc hoặc vị chi cầu, kì hoặc vị chi khuyển dã. Di tắc hoặc vị chi ngưu, kì hoặc vị chi mã dã. Câu vô thắng, thị bất biện dã. Biện dã giả, hoặc vị chi thị, hoặc vị chi phi, đáng giả thắng dã.
Nghĩa là: Hai người đều đưa ý kiến. Ý kiến hoặc giống nhau hoặc khác nhau. Nếu ý kiến giống nhau thì không có tranh luận. Thí dụ: có con cún ở trước mặt, ông Giáp bảo là con cún (chó con), ông Ất bảo là con chó, như vậy là ý kiến giống nhau, không có tranh biện. Nhưng nếu con vật ở trước mặt không phải là con cún, (mà con mèo chẳng hạn), ông Giáp bảo là con cún, ông Ất bảo là con chó; như vậy là ý kiến giống nhau nhưng đều sai hết, cũng không có tranh biện. Phải có ý kiến khác nhau mới có tranh biện. Chẳng hạn có con bò ở trước mặt, ông Giáp bảo là con bò, ông Ất bảo là con ngựa. Ý kiến của ông Giáp đúng, ý kiến của ông Ất sai, và tranh biện thì ông Giáp thắng, ông Ất thua. Nhưng nếu con vật ở trước mặt, không phải là con bò, cũng không phải là con ngựa (mà là con dê chẳng hạn), ông Giáp bảo là con bò, ông Ất bảo là con ngựa, cả hai đều sai, không ai thắng ai cả. Tóm lại, ý kiến có khác nhau mới có tranh biện. Tranh biện mà không ai thắng cả là tại cả hai đều sai, như vậy cũng coi như không có tranh biện. Hễ gọi là tranh biện thì phải có một bên phải, một bên trái; bên nào phải, đúng là bên ấy thắng, bên nào sai, không đúng là bên ấy thua.
Vì Kinh thuyết giảng như vậy, nên phần Kinh phải hiểu lại là: tranh biện thì phải có người thắng, kẻ thua, ai có lí đúng, là thắng, ai không có lí, sai là thua. Nếu không ai thắng cả, tất là do cả hai đều sai cả.
Đó là biện hiểu theo nghĩa hẹp: tranh biện. Biện phải theo nghĩa rộng: biện thuyết, thì Kinh thượng và hạ không nói tới, mà hai thiên Đại, Tiểu thủ mới phân tích, do đó chúng ta có thể đoán rằng hai thiên này viết sau Kinh thượng và hạ.
Tiểu thủ nói:
“Biện là để làm sáng tỏ điều phải trái; xét cho ra manh mối trị loạn; làm cho rõ chỗ dị đồng; xét cái lí của “danh” và “thực”; biết đâu là lợi hại; giải quyết sự hiềm nghi.
Biện là để mô tả hình dung, tóm thâu ý nghĩa của muôn vật; bàn bạc suy tìm cái hay của lời nói. Lấy “danh” để biểu thị cái “thực”, lấy “từ” để giải bày ý, “lấy thuyết” để nói rõ lí do (cớ); lấy điều đã biết để loại suy điều chưa biết; hễ có ở nơi mình thì đừng chê ở nơi người, hễ không có ở nơi mình thì đừng đòi hỏi ở nơi người”.
/夫辯者,將以明是非之分,審治亂之紀,明同異之處,察名實之理,處利害,決嫌疑焉。摹略萬物之然,論求群言之比。以名舉實,以辭抒意,以說出故;以類取,以類予;有諸己不非諸人;無諸己不求諸人/
(Phù biện giả, tương dĩ minh thị phi chi phận; thẩm trị loạn chi kỉ; minh đồng dị chi xứ; sát danh thực chi lí; xử lợi hại; quyết hiềm nghi yên[13]. Mô lược vạn vật chi nhiên, luận cầu quần ngôn chi bỉ. Dĩ danh cử thực, dĩ từ trữ ý, dĩ thuyết xuất cố; dĩ loại thủ, dĩ loại dữ; hữu chư kỉ bất phi chư nhân; vô chư kỉ, bất cầu chư nhân).
Đoạn trên xét về công dụng của biện thuyết – và phương pháp biện thuyết.
Có 6 công dụng:
1- Làm sáng tỏ điều phải trái;
2- Xét chi ra manh mối trị loạn;
3- Làm cho rõ chỗ dị đồng;
4- Xét cái lí của danh và thực;
5- Biết đâu là lợi, đâu là hại;
6- Giải quyết sự hiềm nghi.
Có thể nói công dụng 5 là hậu quả của 1 và 2, công dụng 6 là hậu quả của 3 và 4.
Câu “mô tả hình dung, tóm thâu ý nghĩa của muôn vật” ý nghĩa cũng như 3 và 4; mà câu “bàn bạc suy tìm cái hay của lời nói” thì ý nghĩa cũng đã nằm trong câu 1.
Phương pháp biện thuyết gồm 4 bước:
1- Lấy danh để biểu thị cái thực; điều này chúng ta đã hiểu rồi.
2- Lấy “từ” để giải bày ý. Gom nhiều “danh” lại – danh hiểu theo nghĩa rộng, gồm cả động từ, tĩnh từ, số từ v.v… chứ không trỏ riêng danh từ - để diễn một ý, thì thành một “từ”; vậy “từ” tức là “mệnh đề” theo ngôn ngữ ngày nay.
3. Lấy thuyết để nói rõ lí do (cố). Thuyết là luận chứng. Luận chứng để đưa ra cái cố, tức cái nguyên nhân, cái lí do. (Coi lại điều 1 trong Kinh thượng: “Cố, sở đắc nhi hậu thành dã” – chương Biệt Mặc).
4- Lấy điều đã biết để loại suy đều chưa biết. Ví dụ chúng ta biết rằng người nào cũng chết; mà ông X là người; ta có thể suy ra rằng ông X cũng sẽ chết.
Sau cùng là hai chuẩn tắc của một biện luận để tránh mâu thuẫn:
1- Hễ có ở mình thì đừng chê ở nơi người, nghĩa là điều gì mình đã thừa nhận thì không được chối bỏ, bắt bẻ ở nơi người;
2- Hễ không có ở nơi mình thì đừng đòi hỏi ở nơi người, là điều gì mình đã không thừa nhận thì không được bắt người khác phải thừa nhận.
Về việc lập thuyết, Tiểu thủ đưa ra 7 phép: hoặc, giả, hiệu, thí, mâu, viện và suy:
“Hoặc nghĩa là không hết.
Giả nghĩa là nay không phải thế.
Hiệu nghĩa là làm theo như “pháp”; “sở hiệu” là cái “pháp” theo đó mà làm; cho nên làm đúng theo như “pháp” là phải, không đúng theo như “pháp” là sai; thế là “hiệu”.
Thí là đem cái khác để làm cho sáng tỏ.
Mâu là so sánh “từ” mà cùng xuôi.
Viện là vin lấy mà bảo: “ông coi là phải thì được, tại sao riêng tôi lại không được coi là phải”.
Suy là đưa cái thực chưa từng nghiệm cũng giống như đã từng nghiệm mà suy luận, dự đoán. Tức như bảo: “nó đã giống, sao ta lại bảo nó khác?”
/或也者,不盡也。假也者,今不然也。效也者,為之法也。所效者,所以為之法也。故中效,則是也;不中效,則非也。此效也。辟也者,舉他物而以明之也。 侔也者,比辭而俱行也。援也者,曰,子然,我奚獨不可以然也。推也者,以其所不取之同於其所取者予之也。是猶謂也者同也,吾豈謂它者異也/[14]
(Hoặc dã giả, bất tận dã.
Giả dã giả, kim bất nhiên dã.
Hiệu dã giả, vi chi pháp dã. Sở hiệu giả, sở dĩ vi chi pháp dã. Cố trúng hiệu tắc thị dã, bất trúng hiệu tắc phi dã. Thử hiệu dã.
Thí dã giả, cử tha vật nhi dĩ minh chi dã.
Mâu dã giả, bỉ (cũng đọc là tỉ) từ nhi câu hành dã. Viện giả dã, viết: Tử nhiên, ngã hề độc bất khả dĩ nhiên dã?
Suy dã giả, dĩ kì sở bất thủ chi đồng ư kì sở thủ giả dữ chi dã. Thị do vị tha giả đồng dã, ngô khởi vi tha giả dị dã).
1- “Hoặc” là “bất tận”, điều 43 giảng là chẳng cái nào là không thế (/盡,莫不然也/ Tận: mạc bất nhiên dã). Vậy “hoặc” nghĩa là có khi như vậy, không nhất thiết phải luôn luôn như vậy. Như loài ngựa, có con trắng, chứ không phải con nào cũng trắng, và ta bảo: ngựa hoặc có con trắng.
2- “Giả” là giả thuyết. Hiện tại chưa như vậy, mà giả thiết là như vậy. Chẳng hạn ta bảo: “Nếu chúng ta tìm được mỏ dầu ở Đồng Tháp thì chỉ trong ít năm miền đó không còn là một cánh đồng hoang nữa mà thành một miền kĩ nghệ phong phú”. Như vậy là dùng phép giả thiết.
3- “Hiệu” làm làm theo “pháp”. Chữ “pháp ở đây có một nghĩa riêng. Điều 71 bảo: (/法,所若而然也/ Pháp, sở nhược nhi nhiên dã): pháp là theo cái đó mà làm ra thế.
Kinh thuyết giảng: (/法,意規員三也,俱可以為法/ Pháp, ý qui, viên, tam dã[15], câu khả vi pháp): ý niệm về hình tròn, cái thước tròn (compas), vòng tròn, cả ba đều có thể làm “pháp”, tức làm làm biểu chuẩn để theo đó mà làm ra hình tròn.
Điều 165 lại nói:
/一法者之相與也盡類,若方之相合也。說在方/
(Nhất pháp giả chi tương dữ dã tận loại, nhược phương chi trương hợp dã. Thuyết tại phương).
Pháp là cái mẫu mực – cái khuôn – để chế tạo đồ dùng. Các đồ chế tạo ra đem so sánh (dữ ở đây là so sánh) với cái khuôn đó đều giống nhau hết, như hình vuông này với hình vuông kia hợp với nhau.
Kinh thuyết giảng thêm: Hễ là hình vuông thì đều giống nhau, vì cùng cái thước vuông mà làm ra; thước vuông tức là cái mẫu mực, cái khuôn của hình vuông. Cho nên vật tuy khác nhau về chất, thứ bằng gỗ, thứ bằng đá, nhưng đã là vuông thì đều hợp với nhau. Vậy hết thảy đều giống nhau, tức là đều vuông. Mọi vật đều thế.
/方盡類,俱有法而異,或木,或石,不害其方之相合也。盡類猶方也。物俱然/
(Phương tận loại, câu hữu pháp nhi di, hoặc mộc, hoặc thạch, bất hại kì phương chi tương hợp dã. Tận loại do phương dã. Vật câu nhiên).
Vậy ta có thể cho rằng “pháp” ở đây hiểu theo nghĩa rộng là công thức. Công thức đó dùng để so sánh (hiệu); so sánh mà đúng công thức thì là phải, không đúng tức là sai. Như Mặc tử bảo: “Nói năng, bàn luận có ba “biểu chuẩn” (biểu) hay ba “phép” (pháp), hễ đúng với những biểu chuẩn, hay phép đó thì là phải, không đúng tức là sai”.
Trong Đại cương triết học Trung Quốc I chúng tôi đã theo Vũ Đồng, cho “Sở hiệu giả” là đại tiền đề; “hiệu” là lấy đại tiền đề làm “pháp”, làm biểu chuẩn. Tỉ dụ: “Phàm là người thì tất có chết”, thế là “hiệu”. – Hiểu như vậy cũng được, nhưng nghĩa có hẹp đi.
4- “Thí” là ví dụ, lấy cái kia mà để nói rõ về cái này, lấy cái đã biết để nói rõ về cái chưa biết.
5- “Mâu” là lấy “từ” (mệnh đề) kia ra để so sánh với “từ” này. Nếu “từ” kia chấp nhận được thì “từ” này cũng chấp nhận được.
Mặc tử đã dùng phép “mâu” trong thiên Phi công thượng khi ông bảo:
“Nay có người nọ thấy đen ít bảo là đen, thấy đen nhiều lại bảo là trắng; như vậy tất phải cho người đó là không biết phân biệt đen và trắng; thấy đắng ít thì bảo là đắng, mà thấy đắng nhiều lại bảo là ngọt, như vậy tất phải cho người đó là không biết phân biệt đắng ngọt. Nay [các bậc quân tử trong thiên hạ thấy] làm đều quấy nhỏ thì biết mà chê, mà làm điều quấy lớn là đánh chiếm nước người thì không biết mà chê, lại còn khen, bảo là nghĩa. Như vậy có thể bảo là phân biệt được nghĩa và bất nghĩa không?”
Tất nhiên ta phải trả lời là không, vì ta đã nhận rằng hai hạng người ở trên không biết phân biệt đen trắng, đắng ngọt.
6- “Viện” là viện lẽ (xin lấy làm lẽ): ông nói thế, tôi cũng nói thế, mà ông cho lời ông là phải, thì cũng phải cho lời tôi nói là phải chứ.
Phùng Hữu Lan đưa ra một thí dụ trong Công Tôn Long tích phủ thiên. Công Tôn Long bảo Khổng Xuyên:
“Long tôi nghe nói vua Sở mất cây cung… kẻ tả hữu xin đi tìm. Nhà vua ngăn: “Đừng. Vua Sở mất cung thì người Sở được cung, còn tìm làm gì?” Trọng Ni nghe câu chuyện bảo: “…Cứ nói người (này) mất cung, người (khác) được cung, hà tất phải nói người Sở?”. Như vậy là Trọng Ni cho “người Sở” khác với “người”.
Trọng Ni cho “người Sở” khác với “người” mà ông [Khổng Xuyên] cho là phải; còn tôi cho ngựa trắng khác với (không phải là) ngựa[16] thì ông lại chê, thế là ông bậy”.
Công Tôn Long trong truyện đó dùng cả hai phép “mâu” và “viện”.
7– “Suy” – Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ ấn thư quán – 1958) giảng như sau:
“Suy” là một phép loại suy mà trước đây người ta gọi là qui nạp[17]. “Sở thủ” tức là cái đã nghiệm rồi; “Sở bất thủ” là cái còn chưa nghiệm. Do kinh nghiệm, biết rằng những sự vật nọ là như thế, nhân đó suy ra biết được những vật còn chưa nghiệm. Nếu như những vật đó cùng giống nhau cả thì biết rằng tất cả cũng đều thế. Như vậy tức là: quan sát ngần ấy vật, thấy những vật có tính chất thuộc loại Giáp cũng đều có tính chất thuộc loại Ất, thì biết rằng những vật nào khác, hễ tính cách thuộc loại Giáp thì cũng có tính cách thuộc loại Ất (…) “Suy” rất gần với “qui nạp”. Qui nạp là do quan sát những đặc lệ mà qui nạp ra thông tắc; còn “suy” thì là kinh nghiệm một số tình hình nào đó, rồi do suy đoán những tình hình tương đồng với những tình hình đã kinh nghiệm; như vậy vẫn là do đặc thù này mà suy ra đặc thù khác, chứ không phải do suy từ nhiều đặc thù mà rút ra một thông tắc.
“Thí”, “mâu”, “viện”, “suy” đều là những phép loại suy cả. Tựu trung, phạm vi suy đoán của “suy” có rộng lớn hơn[18].
Phương pháp loại suy không chắc chắn mấy, dễ đưa đến sai lầm. Cho nên thiên Tiểu thủ cảnh cáo ta:
“Vật không phải cứ có chỗ giống nhau là hẳn giống nhau. “Từ” có tương tự thì cũng đến một chừng mực nào đó rồi ngừng. Có “như thế ấy”, mà lại có lí do “tại sao mà như thế ấy”: hai bên giống nhau về chỗ “như thế ấy”, nhưng còn lí do “tại sao mà như thế ấy” thì chưa hẳn hai bên đã giống nhau.
Thế cho nên áp dụng phương pháp “thi”, “mâu”, “viện”, “suy” vào “từ” thì [phải coi chừng] có chỗ sai khác; nếu chuyển dời đi thì có cái nguy lầm lẫn; nhích xa thì hỏng, càng xa lại càng lìa gốc. Cho nên không thể không xét kĩ và không nên thường dùng”.
/夫物有以同而不率遂同。辭侔之也,有所至而止。其然也,有所以然也。其然也同,其所以然不必同。是故辟、侔、援、推之辭,行而異,轉而危,遠而失,流而離本,則不可不審也,不可常用也/
(Phù vật hữu dĩ đồng nhi bất suất toại đồng, Từ mâu chi dã, hữu sở chí nhi chỉ. Kì nhiên dã, hữu kì sở dĩ nhiên dã. Kì nhiên dã đồng, kì sở dĩ nhiên bất tất đồng (…). Thị cố thí, mâu, viện, suy chi từ, hành nhi dị, chuyển nhi nguy[19], viễn nhi thất, lưu nhi li bản, tắc bất khả bất thẩm dã, bất khả thường dụng dã).
Điều 110 (Kinh hạ) đưa thêm một cảnh cáo nữa:
物之所以然,與所以知之,與所以使人知之,不必同。說在病 (Vật chi sở dĩ nhiên, dữ sở dĩ tri chi, dữ sở dĩ sử nhân tri chi, bất tất đồng, thuyết tại bệnh).
Nghĩa là một sự việc xảy ra: cái nguyên do tại sao nó như vậy; cái cách ta dùng để nhận định nó, biết nó với cái cách ta dùng để khiến cho người khác biết, tức để diễn tả, báo cáo; ba cái đó không luôn luôn giống nhau. Chẳng hạn một người bị bệnh. Có thể có nhiều nguyên nhân: do thời tiết, do ăn uống, do truyền nhiễm v.v… thế là nguyên do “bất tất đồng”. Y sĩ, muốn tìm bệnh, có thể dùng nhiều cách: hỏi bệnh, bắt mạch, nghe phổi, tim, thử nước tiểu, máu v.v… thế là cách ta dùng để nhận định “bất tất đồng”. Biết bệnh rồi, y sĩ muốn cho người ta biết là bệnh gì, tại sao bệnh, phải trị ra sao, cũng có nhiều cách: hoặc nói ra, hoặc viết ra, hoặc nói trực tiếp, hoặc nhắn người khác, hoặc giảng tỉ mỉ, hoặc nói vắn tắt…
Sự việc phức tạp như vậy: một việc có thể có nhiều nguyên nhân; cách nhận định mỗi người một khác; cách diễn tả mỗi người hay mỗi lúc một khác; cho nên ta phải thận trọng kiểm soát kĩ, không thể tin ngay một thuyết nào được[20].
Chúng tôi thấy tinh thần của phái Biệt Mặc, tác giả Mặc kinh thật nghiêm túc, khác xa tinh thần vô trách nhiệm của phái Danh gia nguỵ biện. (Nên coi thêm Đại cương triết học Trung Quốc I – tr.677-686)[21].
Chú thích:
[1] Đoạn: “vô tất”, nghĩa là không quyết rằng điều đó tất đúng, việc đó tất làm được; “vô cố”, là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[2] Kinh thuyết giảng thêm: /生:楹之生商不可必也 (Sinh: Doanh chi sinh thương bất khả tất dã)/. Cao Hanh hiểu là: phải có đủ hai cái: hình thể và tri giác (doanh) mới gọi là sống – ý này bác thuyết vật vừa mới sinh ra đã bắt đầu chết (vật phương sinh phương tử) của Huệ Thi; và sống chết không định trước, (chữ thương đó, nghĩa là thường), có thể xảy ra bất cứ lúc nào – ý này bác câu “tử sinh hữu mạng” của Tử Hạ trong Luận ngữ.
[3] Không có trong Từ Hải, Từ Nguyên, Ngô Tất Tố đọc là tri. Cao Hanh bảo là chữ thời cổ, nghĩa là xét kỉ (minh sát). [Hai chữ “minh sát”, bản nguồn chép là “mình sắt”. Trong một chú thích ở chương II: Sửa lại Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “Chữ này, từ điển không có. Điều 6 giảng là (sáng), lấy tri thức mà luận. Chúng tôi tạm đọc là “trí”. Điều 6, bản nguồn không chép nguyên văn chữ Hán lời Kinh, còn lời Thuyết thì chữ đầu chép là “0”, bản nguồn cũng không chép phiên âm lời Thuyết. Tôi ghi thêm lời Kinh và bổ sung lời Thuyết theo trang http://www.sidneyluo.net/h/h03/32.htm. Tương ứng với chữ , nhiều trang chép là: 智, hoặc {智}, mà chữ 智, Thiều Chửu đọc là “trí”; còn trang http://ctext.org/dictionary.pl?if=gb&char=%F0%A2%9C%94 thì chép là , tức gần giống với chữ . (Goldfish).
[4] Bản nguồn chép là: 久,古今旦莫 (Cửu, cổ kim đán mạc). Nhiều trang trên mạng cũng chép như thế, có trang, sau chữ 莫, còn chép thêm: (暮). (Goldfish).
[5] Cao Hanh đọc là duyệt (nghĩa là xem xét), hai chữ /說 (thuyết)/ và /悅 (duyệt)/ thời cổ dùng thay nhau.
[6] Chữ (chướng), tôi chép theo trang http://www.sidneyluo.net/h/h03/32.htm, bản nguồn chép là: O. Tương ứng với chữ này, có trang chép là: 障 (chướng: nghĩa là che, ngăn); có bản chép là: 瘴 (chướng: nghĩa là khí độc). (Goldfish).
[7] Bản nguồn không chép nguyên văn chữ Hán. Các bản trên mạng chép hơi khác phần phiên âm: 知其所以不知,說在以名取 (Tri kì sở dĩ bất tri, thuyết tại danh thủ). (Goldfish).
[8] Chúng tôi ngờ là chữ (mãi). [Có lẽ bản nguồn chép thiếu, xin tạm sửa lại như sau: “Chúng tôi ngờ là chữ 買 (mãi) là chữ 鶉 (thuần) chép lầm”. (xin xem thêm chú thích ở dưới). (Goldfish)].
[9] Trang http://phil.arts.cuhk.edu.hk/~mobian/canon1/liu.htm chép là: 鼃(買)[鶉] (oa (mãi)[thuần]), và chú là: 若鼃為鶉 (nhược oa vi thuần). Ngoài chữ 買 (mãi) vừa nêu, trang này còn giảng các chữ早臺 (tảo đài), 鬻 (tiêu), 長 (trường). (Goldfish).
[10] Các bản trên mạng chép là: 彼:凡牛樞非牛,兩也,無以非也 (Bỉ: Phàm ngưu xu phi ngưu, lưỡng dã, vô dĩ phi dã). (Goldfish).
[11] Tức câu: 謂辯無勝,必不當,說在辯 (Vị biện vô thắng, tất bất đáng, thuyết tại biện). (Goldfish).
[12] Theo trang http://zh.wikipedia.org/wiki/%E9%81%93%E5%AE%B6%E6%82%96%E8%AB%96. (Goldfish).
[13] Có sách để chữ yên /焉/ này qua đầu câu sau: yên mô lược vạn vật chi nhiên, và bảo yên đó nghĩa như chữ nãi (/乃/) là bèn.
[14] Đoạn này tôi chép theo ĐCTHTQ, cuốn 1, tr.975. Chữ 他 (tha) trong câu 舉他物而… (Cử tha vật nhi…), các bản trên mạng chép là 也 (dã); chữ 它 (tha) trong câu 吾豈謂它… (Ngô khởi vị tha…), có bản chép là 他 (tha), có bản chép là 也 (dã). (Goldfish).
[15] Bản nguồn không có hai chữ “tam dã”. (Goldfish).
[16] Công Tôn Long có thuyết: “Ngựa trắng không phải làm ngựa”.
[17] Nay gọi là “Phiếm hoá loại suy” (Analogie généralisée).
[18] Đại cương triết học Trung Quốc I, tr.675-76, Cảo Thơm. [Bản của nhà Thanh Niên, tr. 865-866. (Goldfish)].
[19] Nguy (bản nguồn chép là “nguỵ”): nhiều trang chép là 詭 (quỉ), có trang chép là 危 (nguy) và chú là 詭 (quỉ). (Goldfish).
[20] Điều 110 này, chúng tôi giảng theo Cao Hanh. Ngô Tất Tố (tr.172-173) hiểu khác: Cái nguyên nhân tại sao một sự vật như thế, phương pháp suy luận, và lời lập luận, đáng lẽ phải đúng với nhau. Chỉ vì người ta nhận xét nguyên nhân còn thiếu sót, nên lập luận không đúng. “Thế là lập luận sai lầm”. Thuyết tại bệnh, ông hiểu là “lập luận sai lầm”.
[21] Bản của nhà Thanh Niên, tr.868-877 – Xem tiết “Thiên Tiểu thủ bàn thêm về Từ”phần Phụ lục (Goldfish).