← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V KHOA HỌC THƯỜNG THỨC

Trong Kinh thượng và hạ chúng ta còn gặp nhiều điều về khoa học, tuy còn “ấu trĩ” nhưng ở vào thời Chiến Quốc cũng đáng kể là mới mẻ.

Về Hình học, Kinh thượng đã đưa ra vài định nghĩa:

- Điều 2 cho định nghĩa của điểm và đường thẳng mà Biệt Mặc gọi là đoan và xích (coi chương I phần này).

- Điều 59 và 60 cho định nghĩa về hình tròn (viên) và hình vuông (phương) và chỉ cách vẽ hai hình đó (coi chương III phần này).

- Điều 53 định nghĩa bằng (bình) là cao ngang nhau.

- Điều 55 định nghĩa “trung” là “dài bằng nhau”, tức cùng cách một điểm bằng nhau, như những điểm trên cùng một vòng tròn cùng cách trung tâm vòng tròn đó.

- Điều 56 họ gọi thể tích là “hậu” (厚).

Điều 169: 似,有以相攖,有不相攖也

(Tỉ[1], hữu dĩ tương anh, hữu bất tương anh dã).

Cao Hanh giảng là muốn so sánh hai đường thẳng, đường nào dài, đường nào ngắn, thì có hai trường hợp: hai đường cùng xuất từ một điểm (tương anh nghĩa là chạm nhau), thì dùng một cây thước tròn (compas) như hình I dưới đây; hai đường song song với nhau (bất tương anh), thì đặt một đầu của hai đường cho bằng nhau rồi ở đầu kia dùng cây thước vuông, như hình II dưới đây.

Về Lực học:

- Điều 21 định nghĩa lực (力) sức mạnh, bảo: “Hình thể có sức mạnh rồi mới tác động được” (Lực: hình chi sở phấn dã 力, 形之所以奮也).

- Điều 162: Vật mà luôn luôn ngay, không khiến cho nó nghiêng được, là nhờ hình thể nó tròn (như viên đạn): Chính nhi kì bất khả kỉ, thuyết tại đoàn 正而不可掎,說在摶 . Đoàn 摶 ở đây xưa dùng như chữ 團 /đoàn/ mà 團 theo Thuyết văn, nghĩa là viên (tròn).

- Điều 126 (nguyên văn là: /負而不撓,說在勝/) (Phụ nhi bất nạo, thuyết tại thắng): Đỡ một sức nặng mà không cong là nhờ nó chịu được.

Về Quang học:

Kinh hạ có tám điều (từ 118 đến 125) về quang học; cuối chương III này, chúng tôi đã dẫn điều 118: ảnh không dời chỗ khi vật di chuyển.

Ở đây chúng tôi chỉ dẫn ba điều nữa để độc giả biết qua loa nội dung Mặc kinh thôi.

- Điều 119 (nguyên văn là: /景二,說在重/) (Cảnh nhị: thuyết tại trùng). Cao Hanh giảng là: Ảnh có hai thứ: bản ảnh (ombre, ta gọi là ảnh) và phó ảnh (pénombre, ta gọi là bán ảnh), bản ảnh là ảnh chính, đen đậm; phó ảnh là khu mờ mờ ở chung quanh bán ảnh.

- Điều 120 – Điều này, Kinh và Kinh thuyết đều chép lầm, phải hiệu đính rất rắc rối, nên chúng tôi không chép lại. Cao Hanh giảng rất công phu và cho rằng Mặc Kinh đã biết hình một vật gì chiếu qua một lỗ nhỏ thì đảo ngược lại, như trong máy chụp hình, vì tia sáng ở trên cao, qua lỗ đó sẽ rọi xuống thắp; tia sáng ở dưới thấp qua lỗ đó sẽ rọi lên cao.

- Điều 123 (nguyên văn là:, chép lầm)[2]. Lâm giám nhi lập, cảnh đáo, đa nhi nhược thiểu, thuyết tại quả thất.

Cao Hanh căn cứ vào Kinh thuyết (chúng tôi không chép lại) và giảng rất công phu, đại ý là:

Một người đứng trước một tấm gương thì người đó ra sao, ảnh người đó như vậy, người đó tiến tới thì ảnh trong gương cũng tiến tới, lùi lại ảnh cũng lùi lại; nhưng nếu người đó quay mặt về hướng đông, thì ảnh quay mặt về hướng tây, quay mặt về hướng tây thì ảnh quay mặt về hướng đông, như vậy là “ảnh đảo”[3].

Nếu một người đứng ở giữa hai tấm gương (một tấm ở trước mặt, một tấm ở sau lưng, hai tấm song song với nhau) thì trông thấy cả trước mặt lẫn sau lưng, và có tới hai ảnh; những ảnh trong gương này lại chiếu trong gương kia, ảnh trong gương kia lại chiếu ngược lại trong gương này, thành ra thêm hai ảnh nữa, rồi những ảnh này chiếu đi chiếu lại đến vô cùng. Theo lí thuyết thì như vậy sẽ có vô số ảnh, nhưng ảnh càng chiếu lại thì càng xa, mờ đi, mắt ta không thấy hết được, mà cơ hồ ảnh tới một lúc nào đó sẽ mất. Đó là ý nghĩa những chữ “đa nhi nhược thiểu, thuyết tại quả thất”.

Những điều 124, 125 xét về ảnh hưởng trong những gương lõm và lồi mà Mặc Kinh gọi là (Cao Hanh ngờ là chép lầm) và (đọc là 0, nghĩa là cong -, đoản, nghĩa là hình tròn – sphère).

Kinh thuyết

/衡木加重焉而不撓,極勝重也。右校交繩,無加焉而撓,極不勝重也。衡加重於其一旁必捶,權重相若也。相衡則本短標長,兩加焉重相若,則標必下,標得權也/[4]

(Hành mộc gia trọng yên nhi bất nạo, cực thắng trọng dã. Tả (nguyên văn không có, Cao Hanh thêm) hữu hiệu giao thằng, vô gia yên nhi nạo, cực bất thắng trọng dã. Hành gia trọng ư kì nhất bàng, tất thuỳ[5], quyền trọng tương nhược dã. Tương hành tác bản đoản tiêu trưởng, lưỡng gia yên, trọng tương nhược, tắc tiêu tắc hạ, tiêu đắc quyền dã).

“Hành” là cán cân. Khúc AC là “bản”. Khúc BC là “tiêu”. D là “quyền” (quả cân). K là vật thêm vô sau.

Cao Hanh giảng: Sở dĩ cán cân chịu được vật nặng mà không cong vì bản thể của của nó (cứng) chịu nổi sức nặng. Một sợi dây căn giữa hai cây cột (), không bắt nó chịu thêm một vật nặng nào cả mà nó tự trùng xuống vì nó không chịu nổi sức nặng của chính nó.

Một cán cân, đầu nào chịu nặng hơn đầu kia thì đầu nó trúc xuống; hai đầu nặng bằng nhau thì cán cân thăng bằng.

Trên hình, (E nhẹ hơn D) mà cán cân thăng bằng nhờ BC dài hơn AC. (BC>AC). Cao Hanh dùng công thức này của môn vật lí để giảng: ACxD=BCxE (Trong Kinh thuyết không có công thức đó).

Cán cân thăng bằng như vậy rồi, nếu ta thêm vô mỗi đầu một trọng lượng K, thì sự cân bằng sẽ mất, mà đầu B sẽ trúc xuống. Cao Hanh cũng dùng công thức trên để giảng:

Thêm K vô một bên thì một bên là ACx(D+K)=ACxD+ACxK (1), một bên là BCx(E+K)= BCxE+BCxK (2).

So sánh (1) và (2) ta thấy ACxD trong (1) đã bằng BGxE trong (2) rồi (do công thức kể trên). Vậy thì còn khác nhau ở chỗ (1) có ACx K mà (2) có BCxK, mà BC>AC thì BCxK cũng lớn hơn ACxK. Do đó (2) lớn hơn (1), mà cán cân trúc xuống ở đầu B.

So sánh toán học và vật lí học ở Hi Lạp cũng vào thời đó thì những điều chúng tôi đã giới thiệu ở trên có vẻ sơ đẳng quá. Nhưng chắc chắn dân tộc Trung Hoa thời đó hiểu biết, phát minh được nhiều hơn (chứng cớ môn thiên văn, làm lịch, môn thuỷ lợi, môn chế tạo võ khí, chiến cụ… của họ) mà Mặc Kinh không ghi lại.

Các môn khác

Về kinh tế học chúng tôi chỉ dẫn hai điều:

- Điều 130 買無貴,說在反其賈 (Mãi vô quí, thuyết tại phản kì cổ)

Kinh thuyết:

/刀糴相為賈。刀輕則糴不貴,刀重則糴不易。王刀無變,糴有變。歲變糴,則歲變刀。若鬻子/

(Đao địch[6] tương vi cổ. Đao kinh tắc địch bất quí. Đao trọng tắc địch bất dị. Vương đao vô biến? Định hữu biến. Tuế biến địch tuế biến đao. Nhược dục tử).

Cao Hanh bảo những chữ cổ /賈/ ở đây nên sửa là giá /價/, và giải nghĩa như sau: Đao là thứ tiền bằng đồng thời cổ, đúc theo hình con đao, nên gọi là đao. Chỉ nhà vua mới có quyền đúc tiền, nên gọi là vương đao. Giá tiền và giá lúa lên xuống ngược nhau.

Nếu người ta coi rẻ đồng tiền thì giá lúa tuy tăng nhưng không phải là đắt; nếu người ta coi trọng đồng tiền thì giá lúa tuy hạ nhưng không phải rẻ. Tiền nhà vua đúc ra, giá nó không thay đổi, như trước sau một đồng thì vẫn là một đồng. Giá lúa thì đổi. Mà giá lúa mỗi năm một thay đổi thì giá tiền mỗi năm cũng thay đổi. Cũng như bán con. Nếu giá đứa con cao thì giá tiền hạ xuống; nếu giá đứa con thấp thì giá tiền cao lên.

Điều 131: 賈宜則讎,說在盡 (Cổ nghi tác thù, thuyết tại tận)

Kinh thuyết:

/賈:盡也者,盡去其以不讎也。其所以不讎去,則讎。正賈也宜不宜正欲不欲,若敗邦鬻室嫁子/

(Cổ) Tận dã giả, tận khứ kì sở dĩ bất thù dã. Kì sở dĩ bất thù khứ, tác thù. Chính cổ dã nghi bất nghi chính dục bất dục, nhược bại bang dục thất, giá tử.

Cao Hanh bảo chữ 讎 /thù/ đời nay viết thành chữ /售/ (thụ là bán); chữ 賈 /cổ/ cũng chính là chữ giá /價/; chữ 正 /chính/ thứ nhì nên sửa là chữ 在 tại.

Ông giảng: Chữ tận ở trong Kinh nghĩa là trừ hết những nguyên nhân không bán được món hàng đi. Trừ hết những nguyên nhân đó rồi thì bán. Nhưng giá hàng không phải chỉ do người bán định mà còn tại người mua có cần món hàng hay không. Khách hàng muốn thì bán giá cao được nếu không thì phải bán giá thấp, dù bán thấp mà cũng gọi là được giá. Cũng như một nước chiến bại, nhân dân muốn đi nơi khác ở, ai cũng bán nhà, gả con gái, nhưng không ai chịu mua, chịu cưới, nên giá nhà xuống thấp, tiền cưới cũng giảm mà vẫn không bán, gả được.

Hiện tượng đó, kinh tế học ngày nay gọi là luật cung cầu.

Về tâm lí, có một vài điều, đây là một:

Điều 132 無說而懼,說在弗必 (Vô thuyết nhi cụ, thuyết tại phất tất): không có lí do chắc chắn mà sợ là tại ta không biết việc ra sao.

Kinh thuyết:

/子在軍,不必其死生;聞戰,亦不必其生。前也不懼,今也懼/

(Tử tại quân, bất tất kì tử sinh; văn chiến, diệc bất tất kì sinh. Tiền dã bất cụ, kim dã cụ).

Thí dụ: có con ở trong quân đội, không biết được nó sống hay chết, nay có tin mặt trận gởi về, cũng chưa biết được nó sống hay chết. Nhưng trước kia không sợ, nay thì sợ. Như vậy Mặc Kinh cho là không có lí do mà sợ. Sự thực cũng có lí do đấy: con ở trong quân đội mà chưa ra trận thì phần chết ít; khi ra trận thì phần chết nhiều hơn, lí do sợ là ở chỗ đó.

Ngoài ra còn nhiều điều về đạo lí (nhân, nghĩa, trung, hiếu…), về chính trị (vua, tôi, thưởng, phạt…)… Nội dung quả là phong phú.

Chú thích:

[1] Tỉ: chữ 似, Thiều Chửu đọc là “tự” (Goldfish).

[2] Điều 123 (bản nguồn chép là 132), các bản trên mạng chép là: 臨鑒而立,景到,多而若少,說在寡區. Có lẽ tác giả muốn bảo chữ 匹 (thất) chép lầm thành chữ 區 (khu). (Godfish).

[3] Thật ra thì người và ảnh đều quay mặt về cùng một hướng. Có lẽ tác giả cho rằng khi người đó quay mặt về hướng tay trái (tả) thì ảnh quay mặt về hướng tay phải (hữu) của ảnh; mà theo qui ước (?) thì “tả” là hướng đông và “hữu” là hướng tây; cho nên bảo “nếu người đó quay mặt về hướng đông, thì ảnh quay mặt về hướng tây…”. (Goldfish).

[4] Đoạn này tôi chép theo trang http://www.china001.com/show_hdr.php?xname=PPDDMV0&dname=JOHQD61&xpos=23 (không có chữ “Tả”). (Goldfish).

[5] Thuỳ: Chữ 捶 Thiều Chửu đọc là “chuý”. (Goldfish).

[6] Cao Hanh bảo nên theo Thuyết văn mà sửa là // (Từ Hải và Từ nguyên không có chữ này). Vì // là thóc, thêm chữ 入 trên bộ 米 thành chữ 糴 địch là mua thóc vào, mà thêm chữ 出 trên bộ 米 thì thành chữ 糶 thiếu là thóc bán ra.