← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI KẾT CHUNG VỀ MẶC HỌC

Hàn Phi trong thiên Hiển học bảo hai học thuyết tiếng tăm nhất thời ông là Nho và Mặc. Tác giả bộ Lữ thị Xuân Thu, trong thiên Đương Nhiễm cũng bảo đệ tử của Khổng, Mặc “đầy thiên hạ”.

Vậy vào đầu đời Tần Thuỷ Hoàng hai học thuyết đó vẫn còn thịnh. Nhưng chúng tôi đoán rằng ảnh hưởng và uy tín của Nho và Mặc về phương diện chính trị chắc đã suy từ khi bọn pháp gia mạnh lên, nghĩa là vào khoảng giữa thời Chiến Quốc. Hai nước chư hầu mạnh nhất là Sở và Tần chắc đã thấy đạo nhân nghĩa, phi công của Nho và Mặc không giúp cho họ mạnh được để thôn tính mà thống nhất thiên hạ, cho nên Sở Điệu vương mới dùng Ngô Khởi làm tướng quốc, Tần Hiếu Công[1] dùng Thương Ưởng để biến pháp. Hai chính khách đó đều không được dùng lâu, đều bất đắc kì tử vì bọn quí tộc (bọn “cha anh” của vua) thâm oán, nhưng ảnh hưởng của họ rất lớn, và sau họ, bọn pháp gia mỗi ngày một mạnh lên.

Còn môn đồ của Khổng, Mặc tuy vẫn được vua chúa trọng, nhưng không giữ một vai trò nào quan trọng cả. Tuân Tử, nhờ tình tri kỉ của Xuân Thân Quân mà làm một chức huyện lệnh ở Lan Lăng (Sở); Phúc Thôn, một cự tử của Mặc, sống sau Mặc khoảng bảy, tám chục năm, có thời lui tới triều đình Tần Huệ vương, nhưng chẳng có chức vụ gì.

Học trò của Tuân Tử chắc không đông bằng của Khổng tử hay Mạnh tử; đáng buồn cho ông là hai người có tài nhất, Hàn Phi và Lí Tư, lại không theo đạo của ông mà đứng về phe Pháp gia: Lí Tử tận tâm phụng sự Tần Thuỷ Hoàng, Hàn Phi cũng muốn giúp Tần mà bị Lí Tư ghen ghét, đến nỗi chết oan. Đó là phái Tuân Tử; phái Mạnh tử có người nào giỏi không, được các vua chúa tin dùng không, không thấy sử chép.

Về phía Mặc, sau khi Mặc tử chết, môn đệ chia làm ba phái: Tương Lí, Tương Phu, Đặng Lăng. Chúng ta không biết họ có chống đối với nhau không. Nhưng chắc chắn là họ có điểm khác nhau trong sự áp dụng, thi hành học thuyết của thầy.

Rồi sau lại thêm phái Biệt Mặc nữa, sửa đổi thuyết kiêm ái, không tin quỉ thần, không bàn chính trị mà bàn về tri thức, về khoa học thường thức, và đả phái nguỵ biện. Như vậy là mới hơn một trăm năm mà đạo Mặc biến đổi hẳn, không còn nhận ra được nữa. Thật là một hiện tượng lạ trong lịch sử triết học.

Phe còn làm chính trị thì chắc rất ít người giữ được một nửa tinh thần của Mặc tử. Ngay khi Mặc tử còn sống mà một môn đệ đã phản thầy rồi, xin trở lại học, Mặc tử đuổi đi, người đó đáp: “Con trở về sau các anh khác, đâu phải là tội” (Canh Trụ -16).

Một số khác không theo đúng đạo thầy, làm quan thì vì bổng lộc, Mặc tử phải tìm cách không cho học nữa.

Thiên Minh quỉ chép một truyện khiến cho ta suy nghĩ, chuyện Tần Mục công được Thượng Đế khen đức sáng, sai thần Cẩu Mang xuống cho thọ thêm mười chín năm, nước thịnh trị, con cháu đông đúc, dòng dõi không tuyệt (Chương V – B – phần II đã dẫn truyện đó).

Tần Mục công (thế kỉ VII tr.T.L.) hiếu chiến, thắng một trận ở Hán Nguyên mà xưng bá ở Tây Châu (tức Tây Nhung, các rợ ở phía Tây), như vậy là trái hẳn thuyết “phi công” của Mặc tử: tài đức ông không có gì đặc biệt; vậy, chỉ là để nịnh Tần chứ không có gì khác. Chúng ta có thể ngờ rằng những Mặc gia nào thời sau làm quan với Tần, Sở… đều phải thoả hiệp với Tần, Sở... bỏ đạo của thầy đi mà cầu chức tước, bổng lộc.

Vậy thì dù đạo Mặc còn nhiều người theo, tới “đầy thiên hạ” như Lữ thị Xuân Thu chép, chúng ta vẫn tin rằng ảnh hưởng, uy tín của nó đã sút nhiều rồi.

Tới khi Tần Thuỷ Hoàng nghe lời tể tướng Lí Tư ra lệnh “đốt sách, chôn Nho” thì cả Nho lẫn Mặc ngoắc ngoải. Dĩ nhiên quan lại nhà Tần không sao kiếm soát hết được và trong dân gian ở xa kinh đô vẫn cỏn một ít người lén lút giữ những sách Nho, Mặc để truyền lại cho con cháu.

Khoảng một trăm năm sau, Hán Vũ Đế nghe lời Đổng Trọng Thư, dùng lại đạo Nho mà bãi truất tất cả các nhà khác; thế là Nho lại thịnh lên hai nghìn năm nữa, tới cách mạng Tân Hợi (1911), ở đầu thế kỉ XX, còn Mặc thì không ai nhắc tới.

Phải đợi tới thế kỉ thứ III sau C.N, đời Tấn Huệ Đế, mới có một học giả là Lỗ Thắng tìm hiểu đạo Mặc, viết cuốn Mặc biện chú nhưng cuốn này thất truyền. Đời Đường (thế kỉ VII-IX), một người tên là Lạc Đài cũng chú thích Mặc tử, cũng thất truyền.

Lại phải đợi khoảng 1.000 năm nữa, sau thế kỉ XVIII, đời Càn Long nhà Thanh, Mặc học mới được đem ra nghiên cứu kĩ lưỡng, có công nhất là Tất Nguyên, Uông Trung, Vương Niệm Tôn. Trước đó người ta mới chỉ chú thích Mặc tử, còn Mặc kinh không ai hiểu nổi. Tất Nguyên là người đầu tiên sắp đặt lại và tìm cách đọc Mặc Kinh.

Có thể nói Mặc học nhờ ông mà sống lại được.

Sau nha phiến chiến tranh, Mặc học càng được chú ý hơn và cuối thế kỉ trước, phong trào nghiên cứu Mặc học đạt tới mức thịnh nhất nhờ các học giả như Tôn Di Nhượng, Lương Khải Siêu, Cương Bính Lân…; và gần đây là Hồ Thích, Phùng Hữu Lan, Phương Thụ Sở, Cao Hanh. Những nhà đó đều chịu ảnh hưởng không nhiều thì ít của văn minh phương Tây; một số lại có nhiệt tâm cứu quốc, oán nhà Thanh, chê Khổng thủ cựu, làm cho Trung Hoa không tiến bộ, nhục nhã thua phương Tây, nên say mê đọc Mặc tử và Mặc Kinh. Thấy Mặc học có nhiều điểm giống phương Tây, họ tiếc rằng nếu Mặc học không bị Khổng học ghìm, thì Trung Hoa đã có một tôn giáo như Ki Tô giáo (và trước Ki Tô giáo nữa) mà các môn luận lí học, khoa học đã tiến bộ như phương Tây cả ngàn năm chứ đâu có giữ chế độ quân chủ chuyên chế cổ hủ, lạc hậu như vậy.

Càng tiếc thì họ lại càng tự hỏi vì đâu một học thuyết cực thịnh ở thời Chiến Quốc, tranh giành ảnh hưởng với Khổng giáo mà rồi bỗng nhiên chìm luôn, không lưu lại một chút vang bóng.

Theo chỗ chúng tôi biết thì tới nay họ đã đưa ra được cả chục nguyên nhân.

Hồ Thích cho là tại:

1- Mặc bị Nho phản đối kịch liệt quá (Có lí một phần nhỏ thôi: Nho cũng bị Mặc phản đối vậy, sao Nho thắng, Mặc thua?).

2- Mặc bị các chính khách nghi kị (Cũng chỉ có lí một phần: thực ra thời Chiến Quốc, nhiều môn đồ của Mặc tử được một số vua chư hầu dùng, và họ cũng chịu thoả hiệp ít nhiều với nhà cầm quyền).

3- Mặc gia sau thiên về nguỵ biện quá vi diệu, ít ai hiểu được (Điều này sai: phái Biệt Mặc không nguỵ biện; nguỵ biện là phái danh gia như Huệ Phi, Công Tôn Long…)[2].

Lương Khải Siêu đưa thêm lí do nữa:

4- Đạo Mặc bạc bẽo, khắc nghiệt với người và với mình quá, như tác giả trong thiên Thiên hạ trong Trang tử đã nói. (Điều này có phần đúng, và Phùng Hữu Lan, rất thận trọng nhận rằng “hoặc giả đó cũng là nguyên nhân vậy” (sách đã dẫn tr.137).

Lí Quí bảo:

5- Tại giai cấp công nông do Trần Thiệp và Ngô Quảng lãnh đạo đã thất bại[3] - (Chúng tôi nghĩ rằng trước thế kỉ XX, cách mạng nào ở Trung Hoa cũng là của nông dân chứ không có công nhân, mà dù Trần Thiệp thành công thì ông ta cũng như Lưu Bang thôi, dùng Nho chứ không dùng Mặc).

Quách Mạt Nhược (trong Trung Quốc xã hội cổ đại nghiên cứu) cho rằng:

6- Tại Mặc phản cách mạng (tức phản Tần?), đi ngược xu thế thống nhất thời đó bằng vũ lực. (Nhưng Nho cũng cũng đi ngược lại xu thế đó; mà chúng tôi chưa thấy có Mặc gia nào đời sau chống lại Sở, Tần; trái lại còn làm quan hoặc cố vấn cho họ nữa).

Phương Thụ Sở (tr.205-208) đưa thêm bốn nguyên nhân dưới đây:

7- Mặc học có điểm mâu thuẫn: chẳng hạn chủ trương kiêm ái, phi công mà bảo đạo tặc đáng giết (Nhưng triết học nào mà chẳng có điểm mâu thuẫn?).

8- Lí tưởng quá cao, muốn dùng thuyết kiêm ái mà hô hào khắp thiên hạ, chẳng những đời đó, mà ngay hiện nay cũng không thực hành được (Điều này đúng, quả thực là không hợp nhân tình).

9- Tổ chức đoàn thể tan rã (Có phần đúng, nhưng tại sao tổ chức lại để tan rã, mà sao không có một phái nào mạnh hơn những phái khác, giữ được truyền thống của Mặc tử?).

10- Bị nghi kị là ủng hộ Tần (Nguyên nhân này ngược hẳn với nguyên nhân 6, không biết nguyên nhân nào đúng hẳn).

Các học giả Trung Hoa đã đưa ra nhiều nguyên nhân quá rồi, chúng tôi không dám đưa thêm nữa, chỉ xin trình chút cảm tưởng với độc giả.

Có lòng thương người mênh mông đó, lòng nhiệt thành hi sinh đó, lại có giọng hùng hồn của một giáo chủ, lời bình dị lặp đi lặp lại, rất thích hợp với đại chúng, nếu muốn thành lập một tôn giáo, đừng quan tâm tới chính trị, thì Mặc tử có thể tạo cho dân tộc Trung Hoa được một tôn giáo. Nhưng ông lại chỉ muốn lợi dụng tôn giáo để làm chính trị, mà làm chính trị thì có khi ông thực tế quá, có lúc lại lí tưởng quá, mâu thuẫn với chính mình, nên ông thất bại. Ông mất rồi, không thể có một người thứ hai nối chí ông, đảng ông không thể đoàn kết như khi ông còn được, và lần lần các môn đồ của ông không còn giữ được đúng đường lối, chủ trương của ông nữa, kẻ thì thoả hiệp với nhà cầm quyền, kẻ thì bỏ hẳn chính trị, mà suy tư về tri thức, biện luận, khoa học. Triết lí chính trị của ông đã chấm dứt từ khi phái Biệt Mặc xuất hiện rồi.

Nhưng bảo rằng triết lí đó không lưu lại một chút vang bóng thì cũng không đúng. Vang bóng ấy tế nhị nên người ta không nhận thấy: nó nằm trong chính sách của Pháp gia: (thống nhất tư tưởng, cáo gian, cách lựa người rồi giao việc…) mà từ Hán trở đi, các nhà cầm quyền Trung Hoa đều dung hoà Nho và Pháp thì thế nào mà chẳng ít nhiều gián tiếp theo vài chủ trương của Mặc mà không hay

Chú thích:

[1] Mấy chữ “dùng Ngô Khởi làm tướng quốc, Tần Hiếu Công” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[2] Hồ Thích bảo Mặc gia thiên về nguỵ biện là vì ông cho rằng Huệ Thi và Công Tôn Long… thuộc phái Biệt Mặc. (Goldfish).

[3] Do Phương Thụ Sở dẫn, tr.205- Trần Thiệp là người đầu tiên khởi nghĩa để diệt Tần.