← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ TƯ - TRÍCH DỊCH LỜI THƯA TRƯỚC

Học thuyết Mặc tử không khó hiểu nhưng bộ Mặc tử lưu hành ngày nay có rất nhiều chỗ chép sai hoặc thiếu sót, nên cần có một bản hiệu đính kĩ.

Theo Đường Kính Cảo, từ trước tới nay đã có hơn hai chục nhà gắng sức hiệu đính, nhưng vẫn chưa được hoàn hảo. Đời Càn Long nhà Thanh có Uông Trung, Tất Nguyên; đời sau có Vương Niệm Tôn, Du Việt (tác giả bộ Mặc tử bình nghị); qua đời Quang Tự, Tôn Di Nhượng thu thập, châm chước các thuyết của người trước, soạn bộ Mặc tử nhân hỗ rất có giá trị. Ngoài ra còn Lí Lạp, Trần Trụ bổ túc công việc của Tôn Di Nhượng. Không có những nhà đó thì chúng ta khó mà đọc nổi Mặc tử.

Ai đã nghiên cứu ít nhiều về cổ văn Trung Hoa đều biết rằng thời Tiên Tần, người Trung Hoa chưa thống nhất về ngôn ngữ, chánh tả, những chữ phát âm hơi giống nhau vẫn thường được dùng thay cho nhau, cũng như chúng ta ngày nay có nhiều người không phân biệt chí và trí, sử và xử, cát và các, tàn và tàng v.v… cho nên khi thấy:

- 有 /hữu/ có chỗ dùng như 又 /hựu/ như trong câu 有去大人之好緅[1]珠玉 /hữu khứ đại nhân chi hiếu tưu châu ngọc/ (Tiết dụng thượng); có chỗ là 友/hữu/ như trong (Kiêm ái hạ) 兼之有践[2] /kiêm chi hữu tiễn/; có khi phải đọc là 迭 /tuyển/ và hiểu là tính toán (Tiết dụng thượng).

- 遲 /trì/ có chỗ dùng thay 稚 /trĩ/ (Phi nhạc thượng) và còn vô số trường hợp khác tương tự như vậy nữa, chúng ta bỡ ngỡ, nhưng cố đoán, may ra trúng được.

Đến như:

- 而 /nhi/ có khi phải hiểu là 以 /dĩ/, là 能 /năng/.

- 鮮 /tiển/ phải đọc là 斯 /tư/ mà 斯 /tư/ có nghĩa là 則 /tắc/ (Tiết dụng thượng).

- 其 /kì/ tức là 綦 /kì/, nghĩa là 極 /cực/ (Thiên chí thượng)

- 當 /đương/ tức là 嘗 /thường/, nghĩa là 試 /thí/ (Phi nhạc thượng)

Nhất là bốn chữ này trong Minh quỉ hạ: 萬年梓株 /vạn niên tử chu/ mà phải hiểu là 萬人宰誅 /vạn nhân tể tru/ (vạn người tranh nhau giết vua [Trụ]) thì quả thực là lạ lùng: 人 /nhân/ mà sao viết thành 年 /niên/; 宰 /tể/ mà sao viết thành 梓 /tử/ được? Ai đoán nổi? Mặc tử khó đọc là vậy.

*

* *

Rất tiếc chúng tôi không kiếm được bản hiệu đính của Tôn Di Nhượng, mà cũng không kiếm được bản nào khác ngoài bản tuyển chú của Đường Kính Cảo[3]. Đường chỉ tuyển 12 trong số 24 thiên của tổ II và giữ 5 thiên trong tổ IV, còn các tổ I, III, V bỏ hết.

Riêng đề Kiêm ái, ông chép cả ba thiên thượng, trung, hạ để chúng ta biết qua những thiên đó khác nhau ra sao; còn các thiên khác như Thượng hiền, Thượng đồng, Phi công… ông chỉ lựa một hai trong ba thiên thôi.

Chúng tôi sẽ dịch hết 19 thiên ông lựa; ân hận rằng không có những thiên Phi nho hạ, Pháp nghi, Thất hoạn để giới thiệu thêm với độc giả. Nhưng chỉ đọc 19 thiên đó thôi, độc giả cũng đủ hiểu học thuyết của Mặc tử rồi.

Công việc chú thích của Đường Kính Cảo không kĩ lưỡng lắm, nhưng minh bạch và đứng đắn vì ông châm chước các bản hiệu đính của người trước. Mỗi người viết về Mặc tử có một chủ trương, dùng cách hiệu đính của nhà này, bỏ cách của nhà khác, lại có thể nhận xét, hiệu đính theo ý riêng của mình; do đó cùng trích dẫn một đoạn mà có khi không giống nhau, và chưa có bản nào được coi là chính thức cả. Chúng tôi đã nhận thấy bản của Đường Kính Cảo có đôi chỗ khác bản mà Phùng Hữu Lan dùng để viết về Mặc tử. Vậy độc giả càng không nên ngạc nhiên nếu thấy cuốn của chúng tôi với cuốn của Ngô Tất Tố (Khai Trí -1959) có dăm bảy chỗ khác nhau, chẳng những về lời dịch mà cả về nguyên văn chữ Hán nữa.

KIÊM ÁI (thượng)

Bậc thánh nhân trị thiên hạ, tất phải biết loạn do đâu mà phát thì mới trị được, không biết do đâu mà phát thì không trị được; cũng như thầy thuốc trị bệnh cho người, tất phải biết bệnh do đâu mà phát sinh thì mới trị được, không biết bệnh do đâu mà phát sinh thì không trị được. Lẽ nào riêng việc trị loạn lại không như vậy? Tất phải biết loạn do đâu mà phát thì mới trị được. Thánh nhân trị thiên hạ, không thể không xét loạn do đâu mà phát.

Thử xét loạn do đâu mà phát. Phát ở chỗ không yêu nhau. Tôi, con, không yêu vua, cha, như vậy là loạn. Con chỉ yêu mình mà không yêu cha, cho nên mới làm thiệt hại cho cha để lợi cho mình; em chỉ yêu mình mà không yêu anh, cho nên mới làm thiệt hại cho anh để lợi cho mình; bề tôi chỉ yêu mình mà không yêu vua nên mới làm thiệt hại cho vua để lợi cho mình, như vậy gọi là loạn. Dù như cha mà không thương con, anh không thương em, vua không thương bề tôi thì thiên hạ cũng gọi là loạn. Cha chỉ yêu mình mà không yêu con, cho nên mới làm hại cho con để lợi cho mình; vua chỉ yêu mình mà không yêu bề tôi, cho nên mới làm hại bề tôi để làm lợi cho mình. Như vậy là do đâu? Đều do không yêu nhau mà ra cả.

Dù cho đến các quan đại phu làm loạn nhà nhau, các nước chư hầu đánh chiếm nước nhau thì cũng vậy; các quan đại phu chỉ yêu nhà mình mà không yêu nhà khác nên mới làm loạn nhà khác để lợi cho nhà mình; các vua chư hầu chỉ yêu nước mình mà không yêu nước khác cho nên mới đánh chiếm nước khác để lợi cho nước mình. Các việc loạn trong thiên hạ đều như vậy mà thôi. Xét nguyên do từ đâu, do không yêu nhau mà ra cả.

*

* *

Nếu thiên hạ đều gồm yêu lẫn nhau, ai nấy đều yêu người như yêu thân mình thì còn kẻ bất hiếu nữa không? Coi cha anh và vua như thân mình thì còn kẻ bất hiếu? Còn kẻ bất từ nữa không? Coi con em và bề tôi như thân mình thì làm gì còn kẻ bất từ? Cho nên bất hiếu, bất từ sẽ không còn nữa. Còn trộm cướp không? Đã coi nhà người như nhà mình thì còn ai ăn trộm nữa? Đã coi thân người như thân mình thì còn ai ăn cướp nữa? Cho nên sự ăn trộm với ăn cướp sẽ không còn nữa. Còn có đại phu làm loạn nhà nhau, vua chư hầu đánh chiếm nước nhau nữa không? Coi nhà người như nhà mình thì còn ai làm loạn nhà nhau? Coi nước người như nước mình thì còn ai đánh chiếm nước nhau? Cho nên cái nạn đại phu làm loạn nhà nhau, chư hầu đánh chiếm nước nhau sẽ không còn nữa.

Nếu thiên hạ gồm yêu lẫn nhau, nước nọ với nước kia không đánh chiếm lẫn nhau, nhà này với nhà kia không làm loạn lẫn nhau, trộm cướp không có, vua tôi, cha con đều hiếu từ, như thế thì thiên hạ trị. Cho nên bậc thánh nhân trị thiên hạ, không thể không cấm chỉ sự ghét nhau mà khuyến khích sự yêu nhau. Cho nên thiên hạ gồm yêu lẫn nhau thì trị, mà ghét lẫn nhau thì loạn. Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Không thể không khuyến khích người ta yêu nhau” là vì vậy.

KIÊM ÁI (trung)

Thầy Mặc tử nói: “Người nhân sở dĩ làm việc là để gây cái lợi cho thiên hạ, trừ cái hại cho thiên hạ. Vì vậy mà làm việc”. Nhưng cái lợi cho thiên hạ là gì? Cái hại cho thiên hạ là gì? Thầy Mặc tử bảo: “Nay nước nọ nước kia đánh chiếm lẫn nhau, nhà nọ nhà kia cướp lẫn nhau, người nọ người kia hại lẫn nhau, vua không huệ [gia ân cho dân], tôi không trung, cha không từ, con không hiếu, anh em không thuận hoà, đó là cái hại cho thiên hạ”.

Nhưng xét xem cái hại đó do đâu mà ra? Do không yêu nhau mà ra chăng? Thầy Mặc tử bảo: “Do không yêu nhau mà ra. Nay vua chư hầu chỉ biết yêu nước mình mà không biết yêu nước người, cho nên không ngại đem nước mình đánh chiếm nước người; chủ nhà[4] chỉ biết yêu nhà mình mà không biết yêu nhà người, cho nên không ngại đem nhà mình cướp đoạt nhà người; cá nhân chỉ biết yêu thân mình mà không biết yêu thân người, cho nên không ngại đem thân mình mà hại thân người. Cho nên chư hầu không yêu nhau thì tất đem quân đánh nhau ở ngoài đồng; chủ nhà không yêu nhau thì tất cướp lẫn nhau; người nọ người kia không yêu nhau thì tất làm hại lẫn nhau; vua tôi không yêu nhau thì vua không huệ, tôi không trung; cha con không yêu nhau thì cha không từ, con không hiếu, anh em không yêu nhau thì không hoà thuận; người trong thiên hạ đều không yêu nhau thì người mạnh tất áp chế kẻ yếu, người sang tất ngạo mạn kẻ hèn, người khôn lanh tất lừa gạt kẻ ngu. Những tai hoạ, tranh cướp, oán hận trong thiên hạ sở dĩ nổi lên đều do không yêu nhau mà ra, cho nên bậc nhân giả chê cái đó”[5].

Đã chê nó thì lấy gì thay nó? Thầy Mặc tử nói: “Lấy cái phép mọi người gồm yêu lẫn nhau, làm lợi lẫn nhau mà thay nó”. Nhưng cái phép mọi người gồm yêu lẫn nhau, làm lợi lẫn nhau đó phải thế nào? Thầy Mặc tử nói: “[Phải] coi nước người như nước mình, coi nhà người như nhà mình, coi thân người như thân mình. Cho nên chư hầu yêu nhau thì không đem quân đánh nhau ở ngoài đồng; chủ nhà yêu nhau thì không cướp lẫn nhau; vua tôi yêu nhau thì vua huệ, tôi trung; cha con yêu nhau thì cha từ con hiếu; anh em yêu nhau thì hoà thuận; người trong thiên hạ đều yêu nhau thì người mạnh không áp chế kẻ yếu, người giàu không khi kẻ nghèo, người sang không ngạo mạn kẻ hèn, người khôn lanh không lừa gạt kẻ ngu. Những tai hoạ, tranh cướp, oán hận trong thiên hạ sỡ dĩ không nổi lên là vì do yêu nhau cả, cho nên bậc nhân giả khen cái đó”.

*

* *

Những bậc sĩ quân tử[6] ngày nay bảo: “Phải, gồm yêu lẫn nhau được thì tốt rồi, nhưng đó là việc khó khăn lớn lao trong thiên hạ”. Thầy Mặc tử đáp: “Vì các bậc sĩ quân tử không biết cái lợi, hiểu cái nguyên nhân đấy. Nay các việc đánh thành, giao chiến ở ngoài đồng, tự giết thân mình để được danh tiếng, trăm họ trong thiên hạ đều cho là khó; mà khi ông vua đã thích thì dân chúng cũng làm được, huống hồ là việc yêu gồm lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau, có khác gì đâu. Hễ yêu người thì tất người yêu lại mình, làm lợi cho người thì người tất làm lợi cho mình; hễ ghét người thì người tất ghét lại mình, hại người thì tất người hại lại mình. Cái đó có khó gì đâu? Chỉ vì người trên không dùng kiêm ái làm chính sách, cho nên kẻ sĩ không coi nó là nết của mình đầy thôi”.

Xưa, vua Văn công nước Tấn thích những kẻ áo xấu[7], cho nên bề tôi bận áo lông cừu phương Bắc, dùng cái đai bằng da để đeo kiếm, đội mũ bằng lụa mộc, áo vải và giày đều xấu xí để bệ kiến vua và ngồi triều. Tại sao vậy? Tại vua thích nên bề tôi làm theo. Xưa, vua Linh vương nước Sở thích kẻ sĩ lưng thon, nên bề tôi mỗi ngày ăn một bữa thôi, nín thở rồi mới thắc đai được, vịn tường rồi mới đứng dậy được, chưa đầy một năm, cả triều đều xanh xao. Xưa, vua Câu Tiễn nước Việt thích dũng sĩ, huấn luyện bề tôi rồi lén sai người đốt một chiếc thuyền để thử kẻ sĩ, bảo: “Bao nhiêu bảo vật của Việt đều ở trong thuyền đó”. Ông lại đích thân đánh trống đốc thúc kẻ sĩ vào cứu. Nghe tiếng trống, họ xô đẩy nhau túi bụi, xông vào đạp lửa mà chết, kể cả hai bên thuyền, có trên trăm người. [Lúc đó] vua Việt mới đánh chiêng[8] bảo họ lui về.

Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Nhịn ăn, bận áo xấu, giết thân mình để được tiếng, những việc đó trăm họ đều cho là khó, vậy mà vua thích thì dân chúng cũng làm được; huống hồ là yêu gồm lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau, so với những việc kể trên dễ hơn nhiều. Hễ yêu người thì người cũng yêu lại mình, làm lợi cho người thì người cũng làm lợi cho mình; ghét người thì người cũng ghét lại mình, hại người thì người cũng hại mình; cái đó có khó gì đâu; chỉ có bề trên không dùng làm chính sách, cho nên kẻ sĩ không coi là nết của mình đấy thôi”.

Những bậc sĩ quân tử ngày nay bảo: “Phải, gồm yêu lẫn nhau được thì tốt đấy, nhưng việc đó không thể làm được. Nó khó như xách núi Thái Sơn nhảy qua sông [Hoàng] Hà, sông Tể[9] (một chi nhánh của sông Hoàng Hà) vậy”. Thầy Mặc tử đáp: “So sánh như vậy không đúng. Xách núi Thái Sơn mà nhảy qua sông Hà, sông Tể là việc cần có sức mạnh, [chân] nhanh, [tay] cứng, từ xưa tới nay chưa ai làm được. Còn việc gồm yêu lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau thì khác hẳn, thánh vương đời xưa đã làm rồi đấy. Sao biết được như vậy?

Xưa, vua Vũ[10] trị thiên hạ, phía Tây khơi sông Tây Hà và dòng Vị Thuỷ để tháo nước các chằm Bồ và Huyền, phía Bắc đắp đê ngăn nước sông Nguyên, sông Phái, cho nước chảy vào các lạch của Chiêu Dư Kì, Hô Trì, đục núi Long Môn, làm lợi cho các rợ Yên, Đại, Hồ, Lạc[11] và dân miền Tây Hà; phía Đông thông nước ứ ở Đại Lục, đắp đê ngăn chằm Mạnh Chư, chia nước chín con sông, trồng trúc cho các miền Đông khỏi lở, làm lợi cho Kí Châu; phía Nam khơi các sông [Trường] Giang, Hán, Hoài, Nhữ cho chảy qua sông [tức phía biển] và rót vào 5 cái hồ[12], làm lợi cho các nước Kinh [tức Sở], Can, Việt và dân Nam Di [rợ phía Nam][13]. Đó là kể việc vua Vũ, ngày nay ta muốn gồm yêu thiên hạ như ông.

Xưa, vua Văn vương cai trị miền Tây[14], đức như mặt trời, mặt trăng chiếu sáng bốn phương, khắp miền Tây, không cho nước lớn lấn nước nhỏ, không cho số đông hiếp kẻ cô độc, không cho kẻ mạnh cướp lúa và chó lợn của người. Trời mến Văn vương nhân từ [vì] người mà không có con thì ông săn sóc, nuôi nấng trọn tuổi đời, người cô độc không có anh em thì ông cho chung sống với người thường [người có gia đình anh em]; trẻ em không có cha mẹ thì ông tìm chỗ cho nương tựa để được nuôi tới lớn. Đó là việc vua Văn vương, ta muốn gồm yêu thiên hạ như ông.

Xưa vua Võ vương[15] cho đào đường hầm để thờ thần núi Thái Sơn. Truyện[16] chép lời khấn của ông: “Thưa thần Thái Sơn, chắt[17] hiếu kinh[18] là vua Chu xin báo cáo việc lớn[19] đã xong, người hiền[20] đã được đề cử để cứu dân, các đời Thương, Hạ và các rợ Man Di, Xú Lạc… Khi dùng người thì chắt không vì thân thích mà chỉ lựa người hiền. Nếu vạn phương có tội, thì riêng thân chắt chịu”. Đó là việc của vua Võ vương, ta muốn gồm yêu thiên hạ như ông.

Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Bậc quân tử bảo trong thiên hạ ngày nay nếu thực tâm muốn cho thiên hạ giàu mà không muốn cho thiên hạ nghèo; muốn cho thiên hạ trị mà không muốn cho thiên hạ loạn thì phải gồm yêu lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau”. Đó là phép của thánh vương.

KIÊM ÁI (hạ)

Thầy Mặc tử bảo: “Việc của người nhân tức là tạo cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ”. Hiện nay, cái hại lớn nhất cho thiên hạ là gì? Đáp: “Là nước lớn đánh chiếm nước nhỏ, nhà lớn làm loạn nhà nhỏ, người mạnh hiếp đáp kẻ yếu, số đông tàn bạo với số ít, người khôn lanh lừa gạt kẻ ngu, người sang ngạo mạn kẻ hèn, đó là cái hại cho thiên hạ”. Lại như làm vua mà không huệ, đó cũng là cái hại cho thiên hạ nữa. Lại như bọn đê tiện ngày nay dùng dao nhọn, thuốc độc, nước, lửa để làm hại lẫn nhau, đó cũng là cái hại cho thiên hạ nữa”.

Thử truy nguyên xem những cái hại ở đâu? Chúng phát sinh từ đâu? Có phải từ lòng yêu người, làm lợi cho người mà ra chăng? Tất đáp: “Không phải vậy” và tất là: “Từ lòng ghét người, làm hại cho người sinh ra. [Lại hỏi]: “Những kẻ giết người, làm hại cho người, thuộc về phái “kiêm” (gồm) hay “biệt” (riêng)[21]?” Tất đáp: “Phái biệt”. Vậy thì những kẻ chia rẽ lẫn nhau [tức phái biệt] quả thực gây cái hại lớn cho thiên hạ, phải vậy chăng? Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Biệt là bậy”. Đã chê là bậy thì phải có cái gì [tốt] thay vào. Nếu chê người mà không có cái gì để thay thì cũng như lấy nước để cứu nước, lấy lửa để cứu lửa, như vậy tất không được. Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Lấy kiêm mà thay biệt”.

Kiêm có thể thay cho biệt là tại sao? Đáp: “Ví thử [ai cũng] coi nước người như nước mình thì còn ai riêng đem quân nước mình mà đánh chiếm nước người nữa? Vì nước của người tức là nước của mình rồi. [Ai cũng] coi đô ấp của người cũng như đô ấp của mình thì còn ai riêng đem quân đô ấp của mình đánh đô ấp của người nữa? Vì đô ấp của người là đô ấp của mình rồi. [Ai cũng] coi nhà của người là nhà của mình thì còn ai riêng đem người nhà của mình làm loạn nhà của người nữa? Vì nhà của người tức là nhà của mình rồi. Nước và đô ấp không đánh chiếm lẫn nhau, nhà với nhà không làm loạn lẫn nhau, đó là cái hại cho thiên hạ chăng, hay là cái lợi cho thiên hạ đấy? Tất đáp: “Đó là cái lợi cho thiên hạ”.

Thử truy nguyên những cái lợi ở đâu ra. Chúng phát sinh từ đâu? Có phải từ lòng ghét người, làm hại cho người mà ra chăng? Tất đáp: “Không phải vậy” và tất là: “Từ lòng yêu người, làm lợi cho người mà ra”. [Lại hỏi]: “Những kẻ yêu người, làm lợi cho người thuộc về phái “biệt” hay “kiêm”?” Tất đáp: “Phái kiêm”. Vậy thì những kẻ yêu gồm lẫn nhau, quả thực gây được cái lợi lớn cho thiên hạ, phải vậy chăng? Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Kiêm là tốt”.

Vả trên kia tôi đã nói: “Việc của người nhân là tạo cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ”. Bây giờ tôi truy nguyên thì thấy “kiêm” sinh ra cái lợi lớn cho thiên hạ, mà “biệt” sinh ra cái hại lớn cho thiên hạ. Vì vậy mà thầy Mặc tử bảo: “Biệt là bậy, kiêm là tốt”, tức là do đạo lí đó.

Nay tôi muốn tạo cái lợi cho thiên hạ, lấy “kiêm” làm chính sách [làm cái đạo để thi hành] thì ai cũng đem tai tinh mắt sáng trông nghe cho nhau, đem chân tay khoẻ mạnh làm lụng cho nhau, mà kẻ biết đạo lí thì hết lòng dạy bảo lẫn nhau. Cho nên người già nua mà không có vợ con thì được săn sóc, nuôi nấng cho trọn tuổi đời; trẻ con không có cha mẹ thì có chỗ nương tựa, được nuôi tới lớn. Nếu chỉ dùng “kiêm” làm chính sách, thì cái lợi như vậy. Thế thì tôi không hiểu tại sao những kẻ sĩ trong thiên hạ lại chê bai mỗi khi nghe nói đến “kiêm”?

Vậy mà miệng những kẻ sĩ chê “kiêm” vẫn chưa chịu ngưng, họ bảo: “Đạo kiêm tốt thật đấy, nhưng có thể dùng được không?”. Thầy Mặc tử đáp: “Nếu không dùng được thì ngay tôi đây cũng phải chê. Vả lại đâu có cái gì tốt mà không dùng được bao giờ”.

Thử đem hai chủ trương “kiêm” và “biệt” ra so sánh xem. Thí dụ có hai kẻ sĩ, một kẻ chủ trương “biệt”, một kẻ chủ trương “kiêm”. Kẻ chủ trương “biệt” bảo: “Tôi làm sao có thể coi thân của bạn tôi như thân của tôi, cha mẹ của bạn tôi như cha mẹ của tôi được”. Người đó về thấy bạn của mình đói mà không xẻ cơm, rét mà không chia áo, đau ốm mà không săn sóc thuốc thang, chết cũng không chôn cất cho. Lời nói và hành vi người đó đều như vậy. Còn lời nói và hành vi của người chủ trương “kiêm” không như vậy. Người này bảo: “Tôi nghe nói bậc cao sĩ (bậc sĩ thanh cao) trong thiên hạ tất coi thân của bạn như thân của mình, cha mẹ của bạn như cha mẹ của mình, có như vậy mới là bậc cao sĩ trong thiên hạ”. Về thấy bạn đói thì xẻ cơm, rét thì chia áo, đau ốm thì săn sóc thuốc thang, chết thì chôn cất cho. Lời nói và hành vi kẻ sĩ chủ trương “kiêm” như vậy.

Hai kẻ sĩ đó, trái hẳn nhau về lời nói và hành động. Cứ cho rằng họ nói thì giữ lời, làm thì quả quyết, nói và làm phù hợp với nhau, nói sao làm vậy, bây giờ tôi xin hỏi: “Nếu họ phải bận áo giáp, đội mũ trụ, ra chiến đấu trên một cánh đồng rộng lớn, không biết sẽ sống hay chết; hoặc họ bị vua, hay quan đại phu sai đi sứ các nước Ba [Thục], Việt, Tề, Kinh [Sở], không biết đi có tới chỗ, về có tới nơi hay không, thì họ sẽ gởi gấm cha mẹ, nhà cửa, vợ con cho một người bạn chủ trương “kiêm” hay một người bạn chủ trương “biệt”?” Tôi cho rằng trong trường hợp đó, dù là ngu phu hay ngu phụ, ngay cả kẻ chê đạo kiêm ái, cũng sẽ gởi gấm gia đình cho người bạn chủ trương “kiêm”. Vậy là miệng thì chê “kiêm” mà lựa thì lại lựa người bạn chủ trương “kiêm”, lời nói và hành động mâu thuẫn nhau. Thế thì tôi không hiểu tại sao những kẻ sĩ trong thiên hạ lại chê bai mỗi khi nghe nói đến “kiêm”?

*

* *

Vậy mà miệng những kẻ sĩ chê “kiêm” vẫn chưa chịu ngưng, họ bảo: “Theo tôi, chọn kẻ sĩ [chủ trương kiêm] thì còn có thể được, chứ làm sao chọn vua [chủ trương kiêm] được”.

Thử đem hai chủ trương “kiêm” và “biệt” ra so sánh xem. Thí dụ có hai ông vua, một ông chủ trương “kiêm”, một ông chủ trương “biệt”. Ông chủ trương “biệt” bảo: “Ta làm sao có thể coi thân của vạn dân như thân của ta được? Cái đó trái với tình người quá mà. Kiếp người được bao lâu? Khác chi bóng câu qua kẻ cửa”. Rồi ông về thấy vạn dân đói mà không cho ăn, rét không cho áo, đau ốm mà không săn sóc thuốc thang, chết cũng không chôn cất cho. Lời nói và hành vi ông vua ấy đều như vậy. Còn lời nói và hành vi ông chủ trương “kiêm” không vậy. Ông này bảo: “Ta nghe nói bậc minh quân trong thiên hạ tất đặt thân của vạn dân lên trước thân của mình, có vậy mới là bậc minh quân trong thiên hạ”. Rồi ông về thấy vạn dân đói thì cho ăn, rét thì cho áo, đau ốm thì săn sóc thuốc thang, chết thì chôn cất cho. Lời nói và chủ trương của ông vua chủ trương “kiêm” đều như vậy.

Hai ông vua ấy trái ngược nhau cả về lời nói lẫn hành vi. Cứ cho rằng họ nói thì giữ lời, làm thì quả quyết, nói và làm phù hợp với nhau, nói sao làm vậy, bây giờ tôi xin hỏi: “Gặp năm có bệnh dịch, vạn dân cực khổ, đói rét, đã có nhiều người chết ở hào, ở rãnh, tôi xin hỏi phải chọn một trong hai ông vua ấy thì chọn ông nào?”. Tôi cho rằng trong trường hợp đó, dù là ngu phu ngu phụ, ngay cả kẻ chê đạo kiêm ái cũng tất lựa ông vua chủ trương “kiêm”. Vậy là miệng thì chê “kiêm” mà lựa thì lại lựa ông vua chủ trương “kiêm”, lời nói và hành động mâu thuẫn nhau. Thế thì tôi không hiểu tại sao những kẻ sĩ trong thiên hạ lại chê bai mỗi khi nghe nói đến “kiêm”?

*

* *

Vậy mà miệng kẻ sĩ chê “kiêm” vẫn chưa chịu ngưng, họ bảo: “Đạo kiêm ái tức là nhân, là nghĩa đấy; nhưng có thể làm được không? Tôi cho nó không thể làm được, cũng như xách núi Thái Sơn mà nhảy qua sông[22] vậy. Cho nên “kiêm” là điều ai cũng mong mỏi mà đâu phải là việc làm được”. Thầy Mặc tử đáp: “Xách núi Thái Sơn mà nhảy qua sông, từ xưa tới nay, từ hồi có loài người tới nay chưa ai làm được. Còn cái việc yêu gồm lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau, thì các bậc thánh vương đời trước đã đích thân làm rồi”. – “Làm sao biết được các bậc thánh vương đời trước đã đích thân làm rồi”. – Thầy Mặc tử đáp: “Ta không được cùng sống một thời với các bậc đó, không được đích thân tai nghe mắt thấy tiếng nói và diện mạo các bậc đó; sở dĩ biết được là nhờ những điều [cổ nhân] viết trên thẻ tre, tấm lụa; khắc trên đỉnh, bia, chạm trên cái mâm, cái bát[23] để truyền cho con cháu đời sau. Thiên Thái thệ sách Thương Thư chép: “Vua Văn vương như mặt trời mặt trăng, chiếu sáng bốn phương, khắp miền Tây”[24]. Như vậy là bảo đức kiêm ái của Văn vương rộng lớn như mặt trời mặt trăng chiếu khắp thiên hạ, cái mà thầy Mặc tử gọi là “kiêm” đó, Văn vương đã dùng làm phép tắc rồi.

Chẳng riêng thiên Thái thệ, thiên Vũ thệ cũng vậy nữa. Vua Vũ bảo: “Dân chúng đông thay, nghe lời trẫm này; trẫm là con nhỏ[25] đâu dám dấy binh, vì rợ Hữu Miêu xuẩn động, nên phải thay Trời trừng phạt. Trẫm đã quản lĩnh dân chúng, nên tập hợp các người lại đây, để chinh phạt rợ Hữu Miêu”. Vua Vũ chinh phạt rợ Hữu Miêu không phải để cầu phú quí, phúc lộc, không phải để vui tai vui mắt, mà để tạo cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ; như vậy là vua Vũ kiêm ái đấy. Cái mà thầy Mặc tử gọi là “kiêm” đó, vua Vũ đã dùng làm phép tắc rồi.

Chẳng riêng thiên Vũ thệ, thiên Thang thuyết cũng vậy nữa. Vua Thang[26] bảo: “Đứa con nhỏ tên là Lí này, xin dâng con bò đực đen để cáo với hoàng thiên hậu thổ rằng: “Trời nay đại hạn tức là phạt cái thân của Lí này, trẫm không biết đã mắc phải cái tội gì với trời đất. Trẫm có điều gì thiện thì không dám giấu, có tội gì thì không dám xin tha, xin Thượng Đế tự ngài xem xét. Vạn phương có tội thì riêng trẫm chịu, mà thân trẫm có tội thì không can gì tới vạn phương”. Vậy vua Thang phú quí tới mức làm thiên tử, có cả thiên hạ mà không ngại đem thân mình hi sinh để cầu Thượng Đế, quỉ thần; tức là vua Thang kiêm ái đấy. Cái mà thầy Mặc tử gọi là “kiêm” đó, vua Thang đã dùng làm phép tắc rồi.

Chẳng riêng thiên Thang thuyết, ngay đến Chu Thi cũng vậy nữa. Chu Thi bảo: “Đạo vua rộng rãi, không thiên vị, không bè đảng; đạo vua bình dị, không bè đảng, không thiên vị. Nó thẳng như mũi tên, bằng phẳng như miếng đá mài; bậc quân tử [tức trăm quan] thi hành nó, kẻ tiểu nhân [tức dân chúng] coi nó là phép tắc”. Nếu bảo lời của tôi không hợp với đạo thì [thử xét] xưa Văn vương, Võ vương trị dân, chia đều [ruộng đất], thưởng người hiền, phạt kẻ ác, không thiên vị với họ hàng, anh em, như vậy tức là Văn vương, Võ vương kiêm ái đấy. Cái mà thầy Mặc tử gọi là “kiêm” đó, Văn vương, Võ vương đã dùng làm phép tắc rồi. Thế thì tôi không hiểu tại sao thiên hạ lại chê bai mỗi khi nghe nói tới “kiêm”.

*

* *

Vậy mà miệng những kẻ chê “kiêm” vẫn chưa chịu ngưng, họ bảo: “Theo tôi, [kiêm ái thì] không được lợi cho cha mẹ, mà hoá ra hại đạo hiếu chăng? Thầy Mặc tử đáp: “Thử truy nguyên xem người con có hiếu thì vì cha mẹ mà mưu tính ra sao. Tôi không biết người đó muốn cho người khác yêu mà làm lợi cho cha mẹ mình hay là muốn người khác ghét và làm hại cho cha mẹ mình. Theo tôi xét thì người đó muốn cho người khác yêu và làm lợi cho cha mẹ mình; nhưng trước hết phải làm sao đã để rồi sau được như vậy? Trước hết ta phải yêu và làm lợi cho cha mẹ người rồi sau người báo đáp lại mà yêu và làm lợi cho cha mẹ ta? Tất nhiên là trước hết ta phải yêu và làm lợi cho cha mẹ người rồi sau người báo đáp lại ta, cũng yêu và làm lợi cho cha mẹ ta. Như vậy là các người con có hiếu làm lợi lẫn nhau, có thực là điều bất đắc dĩ không? Sao không trước hết yêu và làm lợi cho cha mẹ đi đã? Hay là [ông] cho rằng các người con có hiếu trong thiên hạ đều ngu, không đáng tin là phải [chính đáng] chăng?

[Nếu vậy thì] ta thử truy nguyên, tìm trong các sách của tiên vương xem. Thiên Đại nhã [trong Kinh Thi] bảo: “Không một lời nói nào, một ân đức nào mà không được báo đáp; ném cho tôi một quả đào, tôi sẽ ném lại cho quả mận”[27]. Câu đó muốn nói rằng yêu người thì tất được người yêu lại, ghét người thì tất bị người ghét lại. Thế thì tôi không hiểu tại sao thiên hạ lại chê bai mỗi khi nghe nói tới “kiêm”.

Hoặc giả họ cho là khó, không làm được chăng? Còn có những việc khó hơn vậy mà làm được đấy. Xưa, vua Linh vương nước Kinh [Sở] thích những kẻ sĩ lưng thon, thế mà trong thời[28] ông, kẻ sĩ trong nước Kinh ăn không quá một chén, tới nổi phải dựa rồi mới đứng dậy được, phải vịn tường mới đi được. Nhịn ăn tới nỗi xanh xao là việc khó làm, nhưng Linh vương thích, thì chưa hết một đời [một thế hệ: ba chục năm], phong tục của dân đã thay đổi được – Sở dĩ vậy là vì dân chúng theo người trên. Xưa, vua Câu Tiễn nước Việt hiếu dũng, huấn luyện kẻ sĩ và bề tôi ba năm rồi, ngờ rằng mình chưa đủ trí để biết rõ sự huấn luyện của mình có kết quả ra sao, bèn cho đốt một chiếc thuyền rồi đánh trống thúc kẻ sĩ vào cứu, họ lao vào hàng đầu, chết vì nước và lửa không biết bao nhiêu mà kể, nhà vua phải thôi đánh trống để họ lui về, thịt họ cháy khét lẹt. Tự thiêu thân mình là việc khó làm, nhưng vua Việt thích thì chưa hết một đời, phong tục của dân đã thay đổi được – Sở dĩ vậy là vì dân chúng theo người trên. Xưa, vua Văn công nước Tấn thích bận áo thô, trong thời ông, kẻ sĩ nước Tấn bận áo vải dày và áo lông cừu phương Bắc, đội mũ bằng lụa mộc, đi giày xấu xí để bệ kiến vua và ngồi triều. Bận áo vải thô là việc khó làm, nhưng vua Văn công thích thì chưa hết một đời, phong tục của dân đã thay đổi được – Sở dĩ vậy là vì dân chúng theo người trên.

Nhịn ăn, [lao vào cứu] thuyền cháy, bận áo thô là những việc rất khó làm trong thiên hạ, nhưng bề trên thích thì dân chúng làm, và chưa hết một đời mà phong tục của dân đã thay đổi được. Tại sao vậy? Tại dân chúng muốn hướng về bề trên. Nay xét cái việc yêu gồm lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau, đã dễ làm, mà lại lợi không biết bao nhiêu mà kể; tôi cho rằng chỉ vì chưa có người trên nào thích nó mà thôi, nếu có người trên thích nó, thưởng và khen để khuyến khích, dùng hình phạt để ra uy, thì người ta sẽ đổ xô nhau mà yêu gồm lẫn nhau, làm lợi lẫn nhau như lửa bốc lên cao, nước chảy xuống thấp, không thể ngăn lại được nữa.

Cho nên “kiêm” là cái đạo của thánh vương, bậc vương công đại phu nhờ nó mà yên, vạn dân nhờ nó mà đủ ăn đủ mặc. Cho nên bậc quân tử không gì bằng xét kĩ đạo “kiêm” và gắng thi hành nó; thi hành nó thì vua chúa có lòng huệ, kẻ bề tôi tất có lòng trung, bậc cha mẹ tất có lòng từ, kẻ làm con tất có lòng hiếu, anh tất thương em, em kính anh. Cho nên bậc quân tử muốn ông vua huệ, kẻ làm tôi trung, làm người cha từ, người con hiếu, người anh biết thương em, người em biết kính anh, thì không thể không thi hành đạo kiêm ái. Đó là cái đạo của thánh vương mà là cái lợi lớn của vạn dân.

Chú thích

[1] Các bản trên mạng chép là 聚 (tụ). (Goldfish)

[2] Trong Kiêm ái hạ, tôi chỉ thấy: 兼之有是 (Kiêm chi hữu thị). (Goldfish).

[3] Thương vụ ấn thư quán – 1938.

[4] Nguyên văn: gia chủ, trỏ các khanh tướng, đại phu.

[5] Bản Mặc tử chúng tôi dùng lần này hơi khác bản chúng tôi dùng khi soạn Đại cương triết học Trung Quốc năm 1966.

[6] Tức như ta nói: giai cấp thượng lưu trong xã hội.

[7] Vua Đạo Quang thời Thanh cũng vậy, cho nên các đại thần đều mặc áo cũ, áo vá, mà các tiệm bán đồ cũ ở Bắc Kinh tha hồ hốt bạc, có khi một bộ áo cũ đắt hơn một một bộ áo mới.

[8] Thời đó, để tấn công thì đánh trống, lui quân thì đánh chiêng.

[9] Một nhánh nhỏ của sông Hoàng Hà.

[10] Vua sáng lập nhà Hạ, vì có công trị thuỷ, được vua Thuấn truyền ngôi cho, trị vì 2205 tới 2197 trước T.L.

[11] Nguyên văn chữ “Lạc” ở đây và ở đoạn dưới là: 貉. Chữ này, trong thiên Phi Công trung, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc là: “Mạch”. Thiều Chửu đọc là “Hạc” (…), và: “Một âm là “Mạch”, cùng nghĩa với chữ “mạch” 貃 một giống mọi ở phương bắc”. (Goldfish).

[12] Ngũ hồ: có thuyết tới 9, không biết thuyết nào đúng.

[13] Những tên đất, tên sông trong đoạn này, chú thích thêm rườm, không ích gì.

[14] Văn vương là bề tôi của vua Trụ, được phong là Tây bá, chỉ huy các rợ (chư hầu) miền Tây; sau bị Trụ nhốt khám ở Dữu Lí.

[15] Con Văn vương: ông diệt Trụ, chấm dứt nhà Ân, sáng lập nhà Chu, trị vì từ 1122 đến 1115. Đừng lầm với vua Vũ sáng lập nhà Hạ trong đoạn trên.

[16] Truyện: mới đầu có nghĩa là phần giải thích của kinh; sau có nghĩa là sử.

[17] Thời đó, vua khấn thần thì tự xưng là chắt.

[18] Nguyên văn là “hữu đạo”: hiểu đạo, giữ được đạo.

[19] Việc lớn ở đây là diệt bạo quân là vua Trụ.

[20] Như Thái Công Vọng (Lã Vọng).

[21] Kiêm là yêu mọi người như mình; biệt là phân biệt mình và người mà mưu tư lợi, phân biệt kẻ thân người sơ, chứ không yêu điều như nhau.

[22] Bản Thương vụ ấn thư quán (Đường Kính Cảo tuyển chú) cho “giang hà” ở đây là danh từ chung. Có sách cho là danh từ riêng: sông Trường giang và sông Hoàng hà.

[23] Nguyên văn: bàn, vu; đời Chu, đồ sánh của Trung Hoa đã tiến bộ.

[24] Bản của Thương vụ ấn thư quán in là: Tây Thổ, chứ không phải là tú thổ. Tây đúng hơn là vì Văn vương làm Tây bá, cai trị miền tây.

[25] Thời xưa vua tự xưng là tiểu tử: con nhỏ [của các tiên vương].

[26] Vua Thang dựng nên nhà Thương (1766-1401), trước nhà Chu, ông trị vì từ 1766 đến 1753.

[27] Như câu: “Hòn đá ném đi, hòn chì ném lại” của ta.

[28] Nguyên văn là thân /身/: thân thể. Chúng tôi đoán ý mà dịch thoát như vậy.