← Quay lại trang sách

TRÍCH DỊCH (2)

PHI CÔNG (thượng)

(Mạt sát sự đánh chiếm nước người)

Thiên này chúng tôi đã chép nguyên văn và dịch trọn trong chương IV, phần II. Đại ý Mặc tử bảo đánh chiếm nước người là việc đại bất nghĩa. Tội nặng gấp ngàn, gấp vạn tội giết người, mà các bậc quân tử trong thiên hạ đã không chê lại còn chép công lưu lại đời sau, như vậy là không phân biệt được nghĩa và bất nghĩa.

PHI CÔNG (trung)

Thầy Mặc tử bảo: “Ngày nay các vương công đại nhân cầm quyền trong nước, nếu thực tình muốn cho sự khen chê được công bằng, sự thưởng phạt được đích đáng, việc hình chính không lầm lẫn…[1] Cho nên thầy Mặc tử bảo: Người xưa nói: Suy nghĩ mà không ra thì xét việc xưa để biết việc sau này, xét cái hiện ra ngoài để biết cái ẩn ở trong. Suy xét như vậy thì có thể biết được.

Dấy binh vào mùa đông thì sợ lạnh, vào mùa hè thì sợ nóng, cho nên phải tránh hai mùa đó; mà dấy binh vào mùa xuân thì bắt dân phải bỏ việc cày cấy, trồng trọt, vào mùa thu thì dân phải bỏ việc gặt hái, cho nên phải tránh hai mùa đó. Dân phải bỏ một mùa thì trăm họ chết đói chết rét không biết bao nhiêu mà kể. Nay thử tính xem, hễ xuất quân thì tên tre, cờ lông, màn, trướng, áo giáp, mộc lớn, mộc nhỏ, dao, mác tổn hại, hư nát, mất mát không thu hồi được, không biết bao nhiêu mà kể; lại thêm bò, ngựa khi xuất quân thì mập, về thì gầy, hoặc chết không về được, nhiều không biết bao nhiêu mà kể; lại thêm đường xá xa xôi, lương thực tiếp tế không được, thiếu thốn, trăm họ chết không biết bao nhiêu mà kể; do ăn ở không được yên ổn, ăn uống thất thường, lúc no quá, lúc đói quá, không điều độ, nên trăm họ chết không biết bao nhiêu mà kể. Quân lính chết không biết bao nhiêu mà kể, thế là quỉ thần mất kẻ tế lễ mình không biết bao nhiêu mà kể.

Trị nước mà chiếm đoạt vật dụng của dân, làm mất cái lợi của dân quá nhiều như vậy thế thì sao lại làm? Đáp: Vì cái danh thắng người và ham được lợi, cho nên làm. Thầy Mặc tử bảo: Xét cái danh thắng người, thì nó không dùng được vào việc gì; xét về cái lợi thì nó không bù được cái mất mát quá nhiều. Nay tấn công một lớp thành trong [chu vi] ba dặm, một lớp thành ngoài [chu vi] bảy dặm, không dùng khí giới cứng và sắc, không giết nhiều người thì làm sao thắng được. Giết người, nhiều thì hàng vạn, ít cũng hàng ngàn, rồi mới chiếm được lớp thành trong [chu vi] ba dặm, lớp thành ngoài [chu vi] bảy dặm; nay một nước có một vạn cổ xe thì số thành có tới trên ngàn, không vào cho xuể được; số đồng ruộng có tới trên vạn, không chiếm cho hết được; như vậy là đất đai [của người] có dư mà binh sĩ [của mình] không đủ; bắt binh sĩ của mình chết hết, gây tai hoạ nghiêm khốc cho người trên kẻ dưới[2] để tranh thành tức là khinh bỏ cái không đủ [binh sĩ của mình] mà trọng cái có dư [đất đai của người], theo chính sách đó đâu phải là biết lo việc nước.

Kẻ khen chính sách đánh chiếm nước người bảo: Phía Nam có vua các nước Kinh, Ngô, phía Bắc có vua các nước Tề, Tấn, hồi mới được phong làm chư hầu trong thiên hạ, đất đai của họ vuông không được vài trăm dặm, số dân không được vài chục vạn, sau nhờ đánh chiếm nước khác mà mở rộng đất đai tới ngàn dặm, số dân tăng lên tới mấy triệu người. Vậy thì không nên mạt sát chính sách đánh chiếm nước người.

Thầy Mặc tử đáp: Tuy bốn năm nước được lợi đấy, tôi vẫn cho như vậy không phải là theo đạo. Cũng tỉ như nghề dùng thuốc trị bệnh; nay có một y sĩ dùng cả thuốc và bùa phép trị bệnh cho thiên hạ, một vạn người dùng thuốc mà chỉ có bốn năm người được lợi [khỏi bệnh], thì tôi vẫn cho như vậy không phải là biết làm nghề thuốc, Mà người con có hiếu sẽ không dùng thuốc đó cho cha mẹ uống, bề tôi trung sẽ không dùng thuốc đó cho vua uống.

Đời xưa phong đất cho chư hầu trong thiên hạ[3], việc thật xa thì tai ta còn nghe, việc gần thì mắt ta còn thấy, số nước chư hầu bị tiêu diệt vì chính sách đánh chiếm nước người nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Làm sao biết được như vậy? Phương Đông có nước Cử, nước đó rất nhỏ, nằm xen vào giữ các nước lớn, không tôn thờ nước lớn, nên nước lớn cũng không yêu mà làm lợi cho. Vì vậy mà phía Đông bị người Việt cướp đất, phía Tây bị người Tề thôn tính. Xét cái lẽ sở dĩ Cử bị mất về Tề, Việt ở hai bên, chính là do chính sách đánh chiếm nước người. Phương Nam, các nước Trần, Thái, sở dĩ mất về Ngô, Việt ở bên, cũng là do chính sách đánh chiếm. Phương Bắc, các nước Tra, Bất Trứ Hà [tức Bất Đồ Hà ở Phụng Thiên ngày nay] mất về Yên, Đại, Hồ, Mạch ở bên cũng là do chính sách đánh chiếm. Cho nên thầy Mặc tử bảo: Các bậc vương công đại nhân ngày nay nếu thực tâm muốn được và không muốn mất, muốn an mà không muốn nguy, thì không thể không mạt sát chính sách đánh chiếm nước người.

Kẻ khen chính sách đánh chiếm nước người bảo: “Các nước đó không biết thu dụng dân chúng của họ nên mất nước, tôi biết thu dụng dân chúng nước tôi, đem họ đi đánh chiếm thiên hạ thì nước nào dám không thần phục tôi?”

Thầy Mặc tử đáp: “Ông bảo ông biết thu dụng dân chúng nước ông, phỏng có được như vua Hạp Lư thời xưa không?

Xưa, vua Hạp Lư nước Ngô huấn luyện dân bảy năm, [bắt họ] bận áo giáp, cầm binh khí chạy ba trăm dặm rồi mới nghỉ[4], đóng binh ở Chú Lâm, rồi theo con đường hẹp, sâu, hiểm trở, tiến hành đánh Bá Cử, chiếm được trung ương [quốc đô] của Sở…[5] Tống và Lỗ. Tới đời Phù Sai [cháu đích tôn của Hạp Lư], phía Bắc đánh nước Tề, đóng binh ở Vấn Thượng, tiến đánh ở Ngãi Lăng, đại thắng quân Tề, chiếm giữ núi Thái Sơn; phía Đông đánh Việt, vượt ba con sông và năm cái hồ, chiếm giữ Cối Kê; chín nước Di đều phải thần phục. Vậy mà khi lui quân về, không biết thưởng vợ con quân sĩ tử chiến, không thi ân cho dân chúng; tự thị về sức mình, khoe công mình, khen [tài] trí của mình, sơ suất trong việc huấn luyện [quân lính], xây đài Cô Tô bảy năm mới xong. Do vậy mà dân Ngô sinh ra chia rẽ, chán nản. Vua Câu Tiễn thấy vua tôi nước Ngô không hợp nhau, bèn thu dụng dân của mình để phục thù, đánh vô thành ngoài phía Bắc của Ngô, dời thuyền của vua Ngô đi, vây cung Ngô và nước Ngô bị diệt.

Xưa, nước Tấn có sáu tướng quân[6], trong số đó Trí Bá mạnh hơn cả. Trí Bá nghĩ đất của mình rộng, dân mình đông, muốn chống các chư hầu thì không gì bằng tấn công họ, như vậy mau hơn, bèn sai những vũ sĩ[7] sắp chiến thuyền và chiến xa thành hàng, đánh họ Trung Hàng và chiếm được đất của Trung Hàng. Ông cho rằng mình mưu tính như vậy là đúng, lại đánh và đại thắng họ Phạm. Đã gồm được ba họ[8] làm một rồi, mà ông ta vẫn chưa chịu ngừng, lại vây Triệu Tương tử ở Tấn Dương. Tới lúc đó, họ Hàn với họ Nguỵ mới bàn với nhau: “Người xưa nói: “Môi hở thì răng lạnh”. Họ Triệu bị diệt buổi sáng, thì buổi chiều tới phiên mình; họ Triệu bị diệt buổi tối, thì sáng hôm sau tới phiên mình. Kinh Thi bảo: “Con cá ở dưới nước mà không chịu cứu nó thì khi lên cạn rồi, làm sao cứu kịp được nữa?”. Thế là ba họ đó [Triệu, Hàn, Nguỵ] một lòng tận lực mở cửa, dọn đường, đeo giáp, dấy binh, Hàn, Nguỵ từ ngoài đánh vào, Triệu từ trong đánh ra, đại thắng Trí Bá.

Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Người xưa có câu: “Bậc quân tử không soi mình xuống nước mà soi mình vào người khác”. Soi mình xuống nước thì thấy mặt mũi mình, soi vào người thì biết được cát hung”. Những người cho chính sách chiếm đánh nước người là lợi, sao không soi gương Trí Bá đó? Nếu soi thì biết được ngay là không cát mà hung rồi.

THIÊN CHÍ (thượng)

(Ý trời)

Thầy Mặc tử bảo: Các bậc sĩ quân tử ngày nay biết điều nhỏ mà không biết điều lớn. Làm sao biết được như vậy? Xem họ ở trong nhà thì biết được. Ở trong nhà, hễ mang tội với gia trưởng thì trốn qua nhà hàng xóm được. Vậy mà cha mẹ[9], anh em biết được tất răn đe, bảo: “Không thể không tự răn mình! Không thể không cẩn thận! Ở trong nhà mà sao lại có thể làm một việc mang tội với gia trưởng được?”

Không phải chỉ ở trong nhà mới vậy; dù ở trong nước cũng vậy nữa. Ở trong nước mà mang tội với vua thì có thể trốn qua nước láng giếng. Vậy mà cha mẹ, anh em biết được tất đe răn, bảo: “Không thể không tự răn mình! Không thể không cẩn thận! Ai lại ở trong nước mà có thể có thể làm một việc mang tội với vua được?”

Có nơi để trốn mà còn răn đe nhau kĩ như vậy, huống hồ không có nơi nào để trốn thì chẳng càng nên răn đe nhau kĩ hơn ư? Và ngạn ngữ có câu: “Thế là hôm sau[10], thế là mang tội, biết trốn đi đâu? Đáp: “Không trốn đi đâu được cả! Dù ở trong rừng trong hang, chỗ tối tăm không người, Trời cũng thấy được”. Vậy mà bậc sĩ quân tử trong thiên hạ đối với Trời lại không để ý tới. Không biết răn đe nhau [đừng làm gì mang tội với Trời]. Vì vậy tôi biết rằng họ biết điều nhỏ mà không biết điều lớn”.

*

* *

Trời muốn cái gì, ghét cái gì? Muốn điều nghĩa, ghét điều bất nghĩa. Mình đốc xuất cả trăm họ trong thiên hạ làm điều nghĩa, tức là mình làm điều mà Trời muốn thì Trời cũng làm cái điều mà mình muốn. Mà mình muốn cái gì, ghét cái gì? Mình muốn được phúc lộc và ghét bị tai hoạ. Nếu mình không làm điều Trời muốn mà lại làm điều Trời không muốn, tức là mình đốc xuất trăm họ trong thiên hạ làm điều gây ra tai hoạ.

Nhưng làm sao [biết được][11] trời muốn điều nghĩa và ghét điều bất nghĩa? Đáp: Thiên hạ có nghĩa [theo điều nghĩa] thì sống, không có nghĩa [không theo điều nghĩa] thì chết; có nghĩa thì giàu, vô nghĩa thì nghèo; có nghĩa thì trị, vô nghĩa thì loạn, mà Trời muốn sinh, ghét tử; muốn giàu, ghét nghèo; muốn trị, ghét loạn; vì vậy mà tôi biết rằng[12] Trời muốn điều nghĩa và ghét điều bất nghĩa.

Vả lại việc nghĩa là ngay thẳng. Không có cái lẽ người dưới sửa người trên cho ngay thẳng, mà tất là người trên sửa người dưới cho ngay thẳng. Cho nên thường dân dù tận lực làm việc cũng chưa thể tự cho mình là ngay thẳng, là đúng được, phải có kẻ sĩ sửa lại cho; kẻ sĩ dù tận lực làm việc cũng chưa thể tự cho mình là ngay thẳng, là đúng được, phải có tướng quân hay đại phu sửa lại cho; tướng quân, đại phu dù tận lực làm việc cũng chưa thể tự cho mình là ngay thẳng, là đúng được, phải có tam công, chư hầu sửa lại cho; tam công, chư hầu dù tận lực xử án, trị nước cũng chưa thể tự cho mình là ngay thẳng, là đúng được, phải có thiên tử sửa lại cho; thiên tử cũng chưa thể tự cho mình là ngay thẳng, là đúng được[13], phải có Trời sửa lại cho.

Thiên tử sửa lại cho tam công, chư hầu, kẻ sĩ và thường dân, đều đó các bậc sĩ quân tử trong thiên hạ vốn đã biết rõ rồi; còn cái việc Trời sửa lại cho thiên tử, thì trăm họ trong thiên hạ chưa được biết rõ. Cho nên ba đời thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ thời xưa muốn đem việc trời sửa lại cho thiên tử mà thuyết minh cho trăm họ trong thiên hạ rõ, mới dùng cỏ nuôi bò, cừu, dùng lúa nuôi chó, heo, làm xôi rượu thanh khiết để cúng Thượng Đế, quỉ thần mà cầu trời ban phúc cho. Tôi chưa từng nghe Trời cầu thiên tử ban phúc cho bao giờ, vì vậy mà tôi biết Trời củ chính cho thiên tử vậy.

Thiên tử là bậc cực quí, cực phú trong thiên hạ. Cho nên muốn được phú quí, không thể không thuận ý Trời được. Thuận ý Trời là phải gồm yêu lẫn nhau, như vậy tất được [Trời] thưởng. Trái ý Trời mà tách biệt ra, ghét lẫn nhau, làm hại lẫn nhau thì tất bị [Trời] phạt. Nhưng [xin cho biết] ai là người thuận ý Trời mà được thưởng, ai là kẻ trái ý Trời mà bị phạt đây.- Thầy Mặc tử đáp: Ba đời thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ thời xưa là những người thuận ý Trời mà được thưởng; còn ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ thời xưa là những kẻ trái ý Trời mà bị phạt.

Nhưng Vũ, Thang, Văn, Võ vì lẽ gì mà được [Trời] thưởng? - Thầy Mặc tử đáp: Vì trên thì tôn Trời, giữa thì thờ quỉ thần, dưới thì yêu người. Cho nên ý Trời bảo: Những kẻ ta yêu, hắn gồm yêu cả; những kẻ ta làm lợi cho, hắn gồm làm lợi cho cả; yêu người như vậy là rộng khắp, làm lợi cho người như vậy là nhiều, cho nên ta cho hắn sang tới mức làm thiên tử, giàu tới mức có cả thiên hạ, sự nghiệp truyền cho con cháu vạn đời, đời đời khen là thiện, phổ biến khắp thiên hạ, tới nay vẫn còn, gọi là “thánh vương”.

Còn Kiệt, Trụ, U, Lệ vì lẽ gì mà bị phạt? – Thầy Mặc tử đáp: Vì trên thì mắng trời, giữa thì nói xấu quỉ thần, dưới thì hại người. Cho nên trời bảo: Những kẻ ta yêu thì hắn tách ra mà ghét; những kẻ ta làm lợi cho thì hắn đều làm hại; ghét người như vậy là rộng khắp, làm hại cho người như vậy là nhiều; cho nên ta không cho được sống hết tuổi thọ, không hết đời hắn, đến nay còn bị huỷ báng, gọi là “bạo vương”.

Nhưng làm sao biết Trời yêu trăm họ trong thiên hạ? – Vì Trời đã gồm yêu mà làm lợi[14] cho cả.

Sao biết được Trời đã gồm yêu mà làm lợi cho cả? – Vì Trời đã gồm trăm họ mà có hết thảy[15].

Sao biết Trời gồm trăm họ mà có hết thảy? – Đáp: Trong bốn biển, những dân ăn gạo, không ai là không dùng cỏ nuôi bò, cừu, dùng lúa nuôi chó, heo, làm xôi, rượu thanh khiết để cúng Thượng Đế, quỉ thần. Trời có dân thường[16] sao lại không yêu? Vả lại tôi bảo: Giết một kẻ vô tội thì bị một điều chẳng lành. Ai giết kẻ vô tội? Người giết. Mà giáng cho một điều chẳng lành là ai? Là Trời. Nếu cho rằng Trời không yêu trăm họ trong thiên hạ thì người nọ giết người kia, can cớ gì tới trời mà Trời giáng điều chẳng lành? Do đó mà tôi biết rằng trời yêu trăm họ trong thiên hạ.

Dùng chính sách [nhân] nghĩa là thuận ý Trời, dùng chính sách [võ] lực là trái ý Trời. – Dùng chính sách [nhân] nghĩa là làm sao? – Thầy Mặc tử đáp: Ở vào địa vị nước lớn không đánh chiếm nước nhỏ; nhà lớn không cướp nhà nhỏ; mạnh không hiếp yếu; người sang không ngạo mạn kẻ nghèo; số đông không cưỡng bức số ít; kẻ khôn lanh không được lường gạt kẻ ngu; như vậy, ở trên tất lợi cho Trời, ở giữa lợi cho quỉ thần, ở dưới lợi cho người. Có ba cái lợi mà không có gì bất lợi, cho nên khắp thiên hạ đều khen, gọi là “thánh vương”.

Dùng chính sách [võ] lực thì khác. Ngôn, hành đều trái với chính sách trên, như [hai con ngựa] chạy ngược hướng nhau. Ở vào địa vị nước lớn thì đánh chiến nước nhỏ, nhà lớn hiếp nhà nhỏ, mạnh hiếp yếu, người sang ngạo mạn kẻ nghèo[17], số đông cưỡng bức số ít, kẻ xảo trá lừa gạt kẻ ngu; như vậy ở trên không lợi cho Trời, ở giữa không lợi cho quỉ thần, ở dưới không lợi cho người. Có ba cái bất lợi mà không có gì lợi cả, cho nên khắp thiên hạ đều chê, gọi là “bạo vương”.

Thầy Mặc tử bảo: Ta có ý Trời cũng như người đóng xe có cái qui [để vẽ vòng tròn], mình thợ [mộc] có cái củ [để vẻ hình vuông]. Người đóng xe, người thợ [mộc] dùng cái qui cái củ để đo tính hình tròn hình vuông trong thiên hạ, bảo: “Hễ trúng thì phải, không trúng thì sai”. Nay sách của kẻ sĩ quân tử trong thiên hạ chở không xuể; các học thuyết[18] đếm không hết; trên thì thuyết các vua chư hầu, dưới thuyết các sĩ, quan niệm về nhân nghĩa, sai quá xa. Làm sao biết được như vậy? Đáp: Tôi có cái phép sáng trong thiên hạ[19] để đo [phán đoán] các thuyết đó.

MINH QUỈ (hạ)

(Chứng minh rằng có quỉ thần)

Thầy Mặc tử bảo: Tới khi ba đời thánh vương thời xưa đã mất, thiên hạ không còn giữ nghĩa, chư hầu mới dùng võ lực chinh phục nhau. Sở dĩ vậy là vì vua và người trên không nhân từ [huệ], bề tôi và người dưới không trung thành; cha không từ, con không hiếu; anh không chính trực, hiền lương, em không kính yêu anh; các quan lớn không gắng sức xử án, trị nước; thường dân không gắng sức làm lụng. Dân hoá ra dâm loạn, tàn bạo; trộm cướp nổi lên khắp nơi, dùng khí giới, thuốc độc, nước lửa, chặn đánh người vô tội trên các đường lớn, nhỏ[20], cướp ngựa xe, áo mỏng, áo lông của người để làm lợi cho mình. Thiên hạ sinh loạn bắt đầu từ đó. Nguyên do tại đâu? Chỉ tại người ta nghi hoặc không biết có quỉ thần hay không, không hiểu rõ cái lẽ quỉ thần có thể thưởng người hiền và phạt kẻ bạo ngược. Nay nếu khiến cho thiên hạ tin rằng quỉ thần có thể thưởng người hiền, phạt kẻ tàn bạo, thì thiên hạ làm sao còn loạn được nữa.

Kẻ chủ trương không có quỉ thần, bảo: “Vốn không có quỉ thần”, từ sáng đến tối đem lời đó dạy thiên hạ, gây lòng nghi hoặc cho quần chúng trong thiên hạ, khiến cho họ không biết quỉ thần có hay không, vì vậy mà thiên hạ loạn. Cho nên thầy Mặc tử bảo: Các bậc vương công, đại phu, sĩ quân tử trong thiên hạ ngày nay nếu thực tâm muốn dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì phải biện biệt cái lẽ quỉ thần có hay không, và không thể không xét kĩ việc đó được.

Đã chấp nhận rằng cần xét kĩ cái lẽ quỉ thần có hay không rồi, nhưng xét rõ cách nào mới là đúng? Thầy Mặc tử đáp: “Cái phép khiến thiên hạ có thể xét biết sự vật có hay không, tất phải lấy điều tai mắt dân chúng thực thấy, thực nghe làm tiêu chuẩn. Nếu thực là điều dân chúng mắt thấy tai nghe thì ta phải cho là có; nếu dân chúng không mắt thấy tai nghe thì ta phải cho là không. Như vậy, sao ta không vào một làng, một xóm mà hỏi? Từ khi có loài người tới nay, nếu vẫn từng trông thấy hình dáng quỉ thần, nghe thấy tiếng nói của quỉ thần, thì sao lại bảo không có quỉ thần được? Nhược bằng không nghe thấy, trông thấy thì sao bảo là có quỉ thần được?

Người chủ trương rằng không có quỉ thần, bảo: “Thiên hạ cho là trông thấy, nghe thấy quỉ thần, nhiều vô số kể, nhưng ai là người trông thấy, nghe thấy được quỉ thần có thực hay không?”[21] Thầy Mặc tử đáp: [Tôi xin kể] một việc mà mọi người đều thấy, mọi người đều nghe, tức việc Đỗ Bá thời xưa”.

Vua Tuyên vương nhà Chu giết một bề tôi vô tội là Đỗ Bá[22]. Đỗ Bá bảo: “Ta vô tội mà nhà vua giết ta; nếu chết rồi không còn biết gì nữa thì thôi; nhược bằng chết rồi còn biết thì không ngoài ba năm, ta sẽ khiến cho nhà vua biết”. Ba năm sau, vua Tuyên vương họp chư hầu đi săn ở Phố Điền, có mấy trăm cổ xe, mấy ngàn người theo, đầy đồng. Giữa trưa, Đỗ Bá cưỡi ngựa trắng, đánh xe không, bận áo và đội mũ đỏ[23], cầm cung đỏ, cắp tên đỏ, đuổi theo Tuyên vương, bắn vào xe Tuyên vương, Tuyên vương bị tên trúng tim, gãy xương sống, ngã trong xe, gục lên cái túi cung mà chết. Lúc đó người nước Chu đi theo [nhà vua], không ai là không thấy, những người ở xa không ai là không nghe, việc đó còn chép trong sử Chu. Ông vua nào cũng đem ra dạy bề tôi, người cha nào cũng đem ra răn con: “Phải răn mình, cẩn thận đấy! Hễ giết kẻ vô tội thì sẽ bị điều chẳng lành, bị quỉ thần phạt, mau như vậy đấy!” Xét việc chép trong sách đó [tức sử nhà Chu] thì quỉ thần quả là có, còn ngờ gì nữa?

Chẳng phải chỉ riêng sách đó chép rằng có quỉ thần. Xưa, vua Mục công nước Tần đương giữa trưa thấy một vị thần vô cửa, mặt người mà mình chim, áo trắng viền đen, khuôn mặt vuông vức. Vua Mục công kinh hoảng, vùng chạy. Vị thần đó bảo: “Đừng sợ. Thượng Đế khen đức sáng của ngươi, sai ta cho ngươi thọ thêm mười chín năm, nước ngươi thịnh vượng, con cháu đông đúc, dòng dõi không tuyệt”. Mục công dập đầu lạy hai lạy, hỏi: “Xin quỉ thần cho biết tôn danh”. Đáp: “Ta là thần Câu Mang”[24]. Nếu lấy điều mà Tần Mục công đích thân thấy làm tiêu chuẩn thì quỉ thần là có, còn ngờ gì nữa?[25]

Chẳng phải chỉ riêng sách đó[26] chép rằng có quỉ thần. Xưa, vua Giản Công nước Yên, giết một bề tôi vô tội là Trang Tử Nghi; Trang Tử Nghi bảo: “Ta vô tội mà nhà vua giết ta, nếu chết rồi không còn biết gì nữa thì thôi, nhược bằng chết rồi còn biết thì không ngoài ba năm ta sẽ cho nhà vua biết”. Được một năm, nước Yên có cuộc săn bắn ở Tố Trạch – Nước Yên có Tổ Trạch cũng như nước Tề có xả tắc, nước Tống có Tang Lâm, nước Sở có Vân Mộng – Trai gái đều tụ họp nhau ở đó để coi [nhà vua] săn bắn. Giữa trưa, vua Giản Công đương đánh xe giong ruỗi trên đầm lầy Tổ Trạch, Trang Tử Nghi vác cây trượng đỏ đánh chết Giản Công trên xe. Lúc đó người nước Yên đi theo [nhà vua] không ai là không thấy, những người ở xa không ai là không nghe, việc đó chép trong sử nước Yên. Các vua chư hầu kể lại cho nhau nghe, bảo: “Hễ giết kẻ vô tội thì bị điều chẳng lành, bị quỉ thần phạt, mau như vậy đấy!”. Xét việc chép trong sách đó thì quỉ thần quả là có, còn ngờ gì nữa?

Chẳng riêng sách đó chép rằng có quỉ thần. Xưa, vào thời vua Văn Quân nước Tống tên là Bảo, có người bề tôi tên là Chúc Quan Cô[27] đã từng giữ việc cúng thần. [Một hôm] thần nhập vào cô đồng, cầm quạt và bước ra bảo: “Quan Cô! Sao ngọc khuê, ngọc bích không đủ số, rượu, xôi không thanh khiết? Các vật để tế không béo, không tuyền một màu[28]. Bốn mùa sao dâng không đúng thời? Do lỗi của mình hay của thằng bảo?” Quan Cô đáp: “Bảo còn bé, nằm trong cái địu, có biết gì đâu? Đó là riêng lỗi của kẻ phụng chức là Quan Cô tôi”. Cô đồng cầm quạt và đập Quan Cô, y chết ngay trên đàn. Lúc đó người nước Tống đi theo không ai là không thấy, những người ở xa không ai là không nghe, việc đó chép trong sử nước Tống. Các vua chư hầu kể lại cho nhau nghe, bảo: “Không cung kính, cẩn thận trong việc tế tự thì bị quỉ thần phạt mau như vậy đấy!”. Xét việc chép trong sách đó thì quỉ thần quả là có, còn ngờ gì nữa?

Không phải chỉ riêng sách đó chép rằng có quỉ thần. Xưa, vua Trang Quân nước Tề có hai người bề tôi tên là Vương Lí Quốc và Trung Lí Kiêu kiện nhau đã ba năm mà pháp đình chưa quyết đoán được ai có tội ai không; vua Tề muốn giết cả hai, sợ oan kẻ vô tôi, muốn tha cả hai, lại sợ tha lầm kẻ có tội, bèn sai họ đem một con cừu lại thề trước thần xã nước Tề; hai người xin vâng. Rồi họ đào sâu[29], cắt cổ con cừu, lấy máu để vấy. Đọc xong lời thề của Vương Lí Quốc rồi, còn lời thề của Trung Lí Kiêu chưa xong một nửa thì con cừu vùng dậy, húc Trung Lí Kiều gãy chân, té nhào, xuất thần, chết ngay đơ ở chỗ thề. Lúc ấy, người nước Tề đi theo, không ai là không thấy, người ở xa không ai là không nghe, việc đó chép trong sử nước Tề. Các vua chư hầu kể lại cho nhau nghe, bảo: “Nguyền rủa, thề mà sai thì bị quỉ thần phạt mau như vậy đấy!”. Xét việc chép trong sách đó thì quỉ thần quả là có, còn ngờ gì nữa?

Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Dù ở trong hang sâu, rừng rậm, khe tối, chỗ không có người, cũng không thể không nghiêm khắc tự răn đừng làm bậy, vì có quỉ thần thấy cả đấy”.

Người chủ trương không có quỉ thần bảo: “Cái mà quần chúng bảo mắt thấy tai nghe, đều có đủ cho ta tin, không còn nghi ngờ nữa? Mình muốn làm bậc thượng sĩ quân tử[30] trong thiên hạ mà sao lại tin chắc vào cái mà quần chúng mắt thấy tai nghe?” Thầy Mặc tử: Đáp: “Nếu cho rằng cái quần chúng mắt thấy tai nghe không đủ tin, không làm dứt được mối ngờ, thế thì tôi xin hỏi ba đời thánh vương Nghiêu, Thuấn, Thang, Văn, Võ thời xưa có đủ làm phép tắc cho ta không? Về điều đó, các người từ hạng trung trở lên đều bảo ba đời thánh vương có đủ làm phép tắc cho ta. Nếu ba đời thánh vương đó đủ làm phép tắc cho ta thì thử xét việc của các thánh vương xem sao.

Xưa Võ vương đánh nhà Ân, giết Trụ rồi phân phối việc tế tự [của nhà Ân] cho các chư hầu, bảo: “Nước nào thân với Ân – tức cùng họ với nhà Ân – thì coi về tôn miếu cho nhà Ân; nước nào sơ – tức khác họ với nhà Ân – thì coi về việc tế các thần núi sông, bốn phương”. Võ vương tất phải cho rằng có quỉ thần thì mới đánh nhà Ân, giết vua Trụ, phân phối việc tế tự cho chư hầu chứ? Nếu không có quỉ thần thì phân phối việc tế tự làm gì?

Chẳng phải chỉ việc Võ vương như vậy; các thánh vương thời xưa khi ban thưởng thì tất ở miếu tổ[31]. Khi trị tội thì tất ở nền xã[32]. Ban thưởng ở miếu tổ để cáo với thần tổ rằng thưởng công bình; trị tội ở nền xã để báo cáo rằng xử tội một cách thoả đáng.

Chẳng phải chỉ có sách đó chép như vậy. Ba đời thánh vương Ngu, Hạ, Thương, Chu[33] thời xưa, ngày đầu dựng nước, lập đô, tất chọn một cái đàn [đài để tế lễ] chính làm tôn miếu, chọn những cây to và xanh tốt làm bụi cây ở nền xã, chọn những bậc phụ huynh từ hiếu, chính trực, hiền lương làm chức thái chúc [coi việc cầu phúc], chức tôn bá [coi việc lễ, như chức thượng thư bộ lễ thời sau]; lựa những lục súc [ngựa, bò, cừu, gà, chó, lợn] nào béo, lông tuyền một màu, làm vật cúng tế; lựa ngọc khuê, ngọc bích, ngọc hoàng quí giá để làm độ (?)[34]; lựa ngũ cốc nào thơm vàng để làm rượu, xôi; cho nên rượu, xôi nhiều hay ít tuỳ năm được mùa hay mất mùa. Cho nên thánh vương thời xưa trị thiên hạ thì tất lo việc cúng tế quỉ thần rồi mới tới việc người. Cho nên bảo: quan phủ [kho của nhà nước] nào tốt[35] thì chứa toàn những đồ tế tự và y phục để tế lễ; các chức thái chúc, tôn bá đều lập cả ở triều; các vật cúng tế phải đặc biệt chứ không lấy trong đám lục súc thường ngày, đó các thánh vương đời xưa trị nước như vậy.

Thánh vương đời xưa tất cho rằng có quỉ thần; chăm lo về việc quỉ thần rất mực. Lại sợ con cháu đời sau không biết, nên chép vào thanh tre, tấm lụa truyền lại cho chúng; lại sợ mọt ăn, mục nát hết, con cháu đời sau không còn nhớ được, cho nên chạm vào cái mâm, cái bát, khắc vào đá, vào đồng để ghi thêm. Lại sộ con cháu đời sau không biết kính sợ quỉ thần để được phúc, cho nên quả thực không có một thước lụa nào, một thiên sách nào của tiên vương mà không chép rằng có quỉ thần. Tại sao chép đi chép lại như vậy? Tại thánh vương chăm lo về việc đó. Kẻ chủ trương không có quỉ thần, bảo: “Quỉ thần vốn không có”, như vậy là trái với việc chăm lo của thánh vương, trái với việc chăm lo của thánh vương thì không phải là cái đạo của người quân tử.

*

* *

Kẻ chủ trương không có quỉ thần, bảo: [Nếu] quả thực không có một thước lụa nào, một thiên sách nào của tiên vương mà không chép rằng có quỉ thần, thì [xin cho biết] sách nào chép đây? Thầy Mặc tử đáp: Thiên Đại nhã trong Chu thư có chép: “Vua Văn vương có công với dân, ôi, đức ông rực rỡ trên trời. Chu tuy là nước cũ, nhưng mệnh Trời thì mới[36]. Văn vương lên xuống ở hai bên Thượng Đế. Văn vương uy nghi thăm thẳm [trên cao], tiếng tăm sẽ còn dài”. Nếu không có quỉ thần thì Văn vương mất rồi, sao lại ở hai bên Thượng Đế được? Do đó mà tôi biết sách Chu thư có chép về quỉ thần.

Nếu cho có Chu thư nói về quỉ thần mà Thương thư không chép thì chưa đủ tin được. Vậy ta thử đọc ngược lên Thương thư[37] xem. Thương thư chép: Than ơi! Nhà Thương xưa kia, khi chưa bị hoạ [bị diệt] thì các loài cầm thú, côn trùng và loài chim, không loài nào không thuận đạo [Trời], riêng loài người sao dám có lòng khác? Núi sông, quỉ thần cũng không dán không yên. Đều biết cung kính thành tâm, nên thiên hạ hoà hợp, đất đai yên ổn. Sở dĩ núi sông, quỉ thần không dám không yên, là để giúp vua Vũ”. Do đó mà tôi biết rằng sách Thương thư có chép về quỉ thần.

Nếu chỉ có Thương thư chép về quỉ thần mà Hạ thư không chép thì chưa đủ tin được. Vậy ta thử đọc ngược lên Hạ thư xem. Thiên Vũ thệ chép: “Đại chiến ở đất Cam[38]. Vua ra lệnh cho kẻ tả hữu, các tướng trong sáu đạo quân xuống xe, nghe thề ở trung quân rằng: “Họ Hữu Hổ khinh lờn năm đức[39], biếng nhác bỏ bê ba đạo chính[40] [cho nên] Trời muốn tuyệt mệnh[41]. Họ Hữu Hỗ lại [kiêu căng] bảo: “Ta được thiên hạ như mặt trời ở giữa trưa” [nghĩa là cực thịnh]. Nay ta cùng với họ Hữu Hỗ tranh nhau mệnh Trời. Ôi! Các quan khanh, đại phu và các dân thường [của Hữu Hỗ], ta không muốn chiếm đồng ruộng, bắt tù binh đâu, ta chỉ cung kính trừng phạt họ Hữu Hỗ theo ý Trời thôi; kẻ ở bên tả không làm tròn chức vụ ở bên tả, bên hữu không làm tròn chức vụ bên hữu[42], như vậy là không phụng mệnh; kẻ đánh xe không điều khiển ngựa cho khéo, như vậy là không phụng mệnh; ta sẽ thưởng ở miếu tổ, sẽ trị tội ở nến xã”. Tại sao lại thưởng ở miếu tổ? Thưởng ở miếu tổ để cáo với thần tổ rằng thưởng công bình. Tại sao lại trị tội ở nền xã? Trị tội ở nền xã để cáo rằng xử tội một cách thoả đáng. Thánh vương đời xưa cho rằng quỉ thần thưởng người hiền, phạt kẻ bạo ngược cho nên thưởng thì tất phải ở miếu tổ, mà phạt tất phải ở nền xã. Do đó mà tôi biết Hạ thư có chép về quỉ thần.

Vậy trên hết là Hạ thư, rồi xuống dưới Thương thư, Chu thư, đều cho rằng có quỉ thần, chép đi chép lại, là vì lẽ gì? Vì lẽ thánh vương chăm lo về việc quỉ thần. Xét lời các sách đó thì quỉ thần là có, há còn ngờ gì nữa? Ngày lành đinh dậu, tế thần xã [thần đất đai], thần bốn phương, hàng năm cúng tế tổ tiên để cầu được sống lâu. Nếu không có quỉ thần thì sao lại sống lâu được?

Cho nên thầy Mặc tử bảo: Như vậy là quỉ thần thưởng được người hiền, phạt được kẻ bạo ngược, thi hành [chủ trương có quỉ thần] ở trong nước, với vạn dân, tức là thi hành cái đạo trị nước. Quan chức nào coi kho lẫm của nhà nước mà không liêm khiết, trai gái nào sống lẫn lộn lén lút với nhau, quỉ thần tất thấy; người dân nào mà dâm bạo, trộm cướp, làm giặc, làm loạn, dùng khí giới, thuốc độc, nước lửa để chặn kẻ vô tội ở trên đường, cướp xe ngựa áo mỏng, áo lông của người để làm lợi cho mình, quỉ thần tất thấy. Như vậy quan chức nào coi kho lẫm của nhà nước, không dám không liêm khiết, thấy người thiện không dám không thưởng, thấy kẻ bạo ngược không dám không trị tội. Do đó sẽ không còn những kẻ dâm bạo, trộm cướp, làm giặc, làm loạn, dùng khí giới, thuốc độc nước lửa để chặn kẻ vô tội ở trên đường, cướp ngựa xe, áo mỏng, áo lông, của người để làm lợi cho mình. Thế là thiên hạ yên.

Cho nên quỉ thần sáng suốt, dù ở trong khe tối, trên chằm rộng, nơi thâm sơn cùng cốc, quỉ thần tất cũng biết được. Quỉ thần trừng trị thì dù là kẻ giàu sang, đông đảo, mạnh mẽ, có võ lực, áo giáp cứng, binh khí bén, quỉ thần tất cũng thắng được.

*

* *

Nếu còn ngờ điều đó thì tôi xin chứng minh. Xưa vua Kiệt nhà Hạ, sang tới làm thiên tử, giàu tới có cả thiên hạ, nhưng trên thì mắng Trời, khinh quỉ, dưới thì sát hại vạn dân, lừa gạt Thượng Đế, chặt hết cây trên đàn thờ Thượng Đế ở Nguyên Sơn, thấy vậy trời mới sai vua Thang rất sáng suốt trừng trị vua Kiệt. Vua Thang đem chín chục cỗ chiến xa bày binh bố trận, từ trên Đại Tán đánh xuống quân nhà Hạ, vô tới phía ngoài kinh đô rồi bắt được Thôi Di Đại Hi[43]. Vậy vua nhà Hạ là Kiệt, sang tới làm thiên tử, giàu có tới có cả thiên hạ, dũng sĩ Thôi Di Đại Hi dùng loài tê ngưu, loài cọp tác chiến; dân chúng đông tới ức triệu, đầy gò, đầy chằm, mà cũng không ngăn được trừng trị của quỉ thần; do đó tôi biết rằng quỉ thần trừng trị thì dù là kẻ giàu sang, đông đảo, mạnh mẽ, có võ lực, áo giáp cứng, binh khí bén, quỉ thần tất cũng thắng được.

Chẳng phải chỉ có việc đó thôi. Xưa vua Trụ nhà Ân sang tới làm thiên tử, giàu tới có cả thiên hạ, nhưng trên thì mắng Trời, khinh quỉ, dưới thì sát hại vạn dân, bỏ bê các người già cả, giết trẻ con, thiêu nướng[44] kẻ vô tội, mổ, xé đàn bà có mang, dân thường…, người già không vợ, người goá chồng, gào khóc không biết kêu ai, thấy vậy Trời sai Võ vương rất sáng suốt trừng trị Trụ. Võ vương lựa một trăm cổ chiến xa, bốn trăm quân hùng tráng, tiến trước các nước chư hầu để dò xét tình hình địch, đánh quân nhà Ân ở cánh đồng Mục, bắt được hai bề tôi của nhà Ân là Phí Trọng và Ác Lai, quân địch phản Trụ, tự bỏ chạy; Võ vương bèn vào cung của Trụ, dân chúng tranh nhau giết Trụ. Vậy vua nhà Ân là Trụ[45] sang tới làm thiên tử, giàu tới có cả thiên hạ, dũng sĩ là Phí Trọng, Ác Lai, Sùng Hầu Hổ bày mưu giết người (?); dân chúng đông tới ức triệu, đầy gò đầy chằm, mà không ngăn được sự trừng trị của quỉ thần; do đó tôi biết rằng quỉ thần trừng trị thì dù là kẻ giàu sang, đông đảo, mạnh mẽ, có võ lực, áo giáp cứng, binh khí bén, quỉ thần tất cũng thắng được. Thiên Cầm Ngải có câu: “Đắc kỉ vô tiểu, diệt tôn vô đại”[46]; thần thưởng thì công nhỏ cũng không quên[47]; quỉ thần trừng trị thì kẻ chức lớn, mạnh cũng không tha.

*

* *

Kẻ chủ trương không có quỉ thần, bảo: [Thờ quỉ thần] hoặc giả không có lợi cho cha mẹ mà có hại cho đạo hiếu của con chăng?” Thầy Mặc tử đáp: “Từ xưa tới nay, gọi là quỉ thần thì không ngoài những hạng này: quỉ thần ở trời, quỉ thần sông núi và người chết mà thành quỉ. Có khi con chết trước cha, em chết trước anh, tuy vậy cũng là điều thường thấy. Bảo sanh trước thì chết trước, vậy thì người chết trước, không phải là cha tất là mẹ, không phải là anh, tất là chị. Dâng rượu, xôi thanh khiết để cúng tế một cách cung kính, cẩn thận. Nếu quỉ thần có thật thì là mình mời được cha mẹ, anh chị về ăn uống, chẳng phải là cái lợi lớn ư? Nếu quỉ thần không có thì là phí tiền của vào việc làm xôi, rượu và mổ mấy con vật để cúng. Nhưng phí đó không phải là đổ bỏ xuống ngòi xuống rãnh, vì trong thì họ hàng, ngoài thì hàng xóm đều được ăn uống. Nếu quả thật không có quỉ thần thì như vậy [là cơ hội] để họp mặt vui vẻ với nhau, kết tình thân với làng xóm.

Người chủ trương không có quỉ thần, bảo: “Quỉ thần vốn không có thật, cho nên không cúng xôi, rượu và các con vật hi sinh[48]. Tôi không phải là tiếc xôi, rượu và các vật hi sinh, nhưng nếu cúng thì được cái gì?[49] Trên thì trái với sách các thánh vương, mà muốn làm kẻ thượng sĩ trong thiên hạ. Đó đâu phải là đạo làm thượng sĩ”[50].

Thầy Mặc tử bảo: “Tôi cúng tế [như vậy] không phải là để rồi đổ xuống ngòi xuống rãnh, mà để trên thì giao kết cái phúc của quỉ thần, dưới thì hội họp vui vẻ, kết tình thân với làng xóm. Mà nếu quỉ thần có thật thì là mời được cha mẹ, anh chị về ăn uống, như vậy chẳng phải là cái lợi trong thiên hạ ư?”[51].

Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Các bậc vương công, đại nhân, sĩ quân tử trong thiên hạ nay nếu thực tâm muốn dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì nên nhận rằng có quỉ thần và không thể không tôn thờ quỉ thần, làm sáng tỏ cái lẽ có quỉ thần cho dân chúng thấy. Đó là cái đạo của thánh vương.

PHI MẠNG (hạ)

(Không có số mạng)

Thầy Mặc tử bảo: Hễ nói năng, bàn luận không thể không định tiêu chuẩn trước rồi sau mới nói, bàn. Không định tiêu chuẩn trước mà đã nói, bàn thì cũng như để đồ dò bóng trên cái mâm xoay [của người thợ gốm] mà tìm phương hướng sáng chiều [đông, tây][52]; tôi cho rằng như vậy [trên đồ dò bóng] có ghi hướng sáng chiều, nhưng rốt cuộc cũng không thể định được [vì đồ dò bóng xoay hoài với cái mâm xoay]. Vì vậy hễ nói thì phải có ba phép.

Thế nào là ba phép? Đáp: Phép khảo sát, phép xét sự thực, phép ứng dụng. Khảo sát ở đâu? Khảo sát vào việc của thánh vương. Xét sự thực ở đâu? Ở điều mắt thấy tai nghe của quần chúng. Ứng dụng vào đâu? Vào việc chính trị trong nước, xem có lợi cho vạn dân không. Như vậy gọi là ba phép[53].

*

* *

Ba đời thánh vương Vũ, Thang, Văn, Võ thời xưa, khi mới cai trị thiên hạ, bảo phải chăm lo đề cử những người con có hiếu để khuyến khích việc thờ cha mẹ, phải tôn trọng người hiền lương để dạy dân làm điều thiện. Thế rồi các vị ấy thi hành chính,]giáo, thưởng người thiện, phạt kẻ bạo ngược. Nhờ vậy mà thiên hạ loạn có thể làm cho trị được, xã tắc nguy có thể làm cho yên được.

Nếu cho là không phải như vậy [thì sao] xưa vua Kiệt làm cho nước loạn, vua Thang trị được? Vào những thời đó, cũng vẫn là xã hội ấy, dân ấy, không có gì khác, mà trên [vua] thay đổi chính trị, thì dưới [dân] thay đổi thói quen. Ở vào thời Kiệt, Trụ thì thiên hạ loạn; ở vào thời Thang, Võ thì thiên hạ trị. Vậy thiên hạ trị là nhờ công của Thang, Võ; thiên hạ loạn là do tội của Kiệt, Trụ. Xét điều đó thì an hay nguy, trị hay loạn là do chính trị của người trên, sao bảo là số mạng được?

Ba đời Vũ, Thang, Văn, Võ thời xưa, khi mới trị thiên hạ, bảo phải làm sao cho người đói được ăn, người rét được mặc, người mệt được nghỉ ngơi, nước loạn hoá trị; nhờ vậy mà các vị đó được vẻ vang, tiếng tốt truyền khắp thiên hạ. Đâu có thể là do số mạng được? Đó là công lao của các vị ấy. Nay các người hiền lương biết trọng người hiền và thích học đạo, thì tất trên được vương công, đại nhân thưởng, dưới được dân khen, được vẻ vang, tiếng tốt truyền khắp thiên hạ, như vậy đâu có thể cho là vì số mạng được, cũng lại là do công lao của họ nữa.

*

* *

Hạng người chủ trương có số mạng không biết những bực thánh thiện trong ba đời [Vũ, Thang, Văn, Võ] thời xưa chăng, hay là quên những kẻ tàn bạo bất tiếu (xấu xa) trong ba đời [Kiệt, Trụ, U, Lệ] thời xưa chăng? Cứ xét thuyết của họ thì [họ] tất không phải là những bậc thánh thiện trong ba đời [Vũ, Thang, Văn, Võ] thời xưa mà tất phải là những kẻ tàn bạo bất tiếu[54].

Ba đời bạo vương thời xưa, Kiệt, Trụ, U, Lệ, sang tới mức làm thiên tử, giàu tới mức có cả thiên hạ, mà không làm chủ được sự ham muốn của tai, mắt, cứ theo cái bậy bạ của tâm ý: ngoài thì rong ruổi, săn bắt, bẫy thỏ, bắn chim; trong thì đắm mê rượu nhạc, bỏ bê việc trị nước và dân; rất đỗi vô dụng, [mà lại còn] tàn bạo với trăm họ, đến nỗi mất tôn miếu [mất ngôi, mất nước]. Nếu cho rằng có số mạng thì những bạo quân đó tất không bảo: “Ta biếng nhác, bất tiếu, không gắng xử án, trị nước”, mà bảo: “Mất nước là do số mạng của ta vậy”.

Hạng dân biếng nhác, bất tiếu trong ba đời bạo quân đó cũng thế. Họ không biết thờ cha mẹ, vua và người trên, rất ghét sự cung kính, tằn tiện, mà thích sự dễ dàng, phóng túng, tham ăn tham uống mà nhác việc, do đó không đủ ăn, đủ mặc, tới nỗi lâm vào cảnh đói rét lo lắng. [Nếu cho rằng có số mạng thì] họ tất không bảo: “Ta biếng nhác, bất tiếu, không gắng sức làm việc”, mà bảo: “Ta cùng khốn là do số mạng ta vậy”. Bọn loạn dân ba đời bạo vương thời xưa cũng như vậy.

Các bạo vương thời xưa lập ra thuyết số mạng rồi hạng cùng khốn truyền thuật lại; họ đều là những người nghi ngờ, chất phác. Các thánh vương đã lo ngại từ trước rồi nên đã ghi chép trên thanh tre, tấm lụa, khắc lên đồng, lên đá, chạm trên cái bát, cái mâm để truyền lại cho con cháu.

Hỏi: Còn chép trên sách nào vậy? Đáp: Thiên Tống Đức [không rõ trong cuốn nào] của vua Vũ chép: “Nếu tín không thuận[55] thì mệnh trời không bảo vệ nó được; không ngăn ngừa lòng ái của nó thì Trời sẽ bắt tội; không cẩn thận giữ đức của nó thì mệnh trời sao bảo vệ được?” Bài cáo của Trọng Huỷ[56] chép: “Ta nghe người Hữu Hạ[57] nói bậy là có số Trời rồi ban bố trong dân chúng. Thượng Đế ghét nên sai giết”. Không có số mạng mà hắn nói có, nên bảo là “nói bậy”; chứ nếu có mà nói có thì sao bảo là “nói bậy” được? Thiên Thái thệ chép: “Ai là người quân tử? Trời giúp người có đức sáng, điều đó hiển nhiên. Tấm gương đâu xa, coi nhà vua Ân [tức vua Trụ] đó. Hắn bảo: “Người ta có số mạng”, bảo: “Không cần kính [Trời]”, bảo: “Cúng tế chẳng ích gì”, bảo: “Bạo ngược cũng không bị hại”. [Vì vậy] Thượng Đế không giúp hắn, hắn mất chín châu [tức thiên hạ]. Thượng Đế ghét Trụ, khiến hắn phải chết. Ta là Hữu Chu được nhận nhà Thương”[58].

Xưa, Trụ chủ trương rằng có số mạng mà hành động [càn giở], vua Võ vương làm thiên Thái thệ để bác thuyết ấy. Sao ông không khảo sát[59] lên các sách đời Thương, Chu, Ngu, Hạ từ thiên Thập giản[60] trở lên, đều không có thuyết số mạng, cứ khảo sát đi xem sao. Cho nên thầy Mặc tử bảo: Các bậc quân tử trong thiên hạ ngày nay làm văn [viết sách], bàn bạc, đàm luận, không phải là muốn làm mệt lưỡi và cuống họng, hoặc luyện môi mép, mà thực là vì muốn quốc gia, làng xóm, lo việc hình chính cho vạn. Các vương công đại nhân ngày nay sáng sớm vô triều, chiều mới về, chia đều buổi sáng[61], không dám biếng nhác, uể oải là tại sao? Tại họ cho rằng hễ gắng sức làm thì nước trị, nếu không thì nước loạn; gắng sức thì yên, không thì nguy, cho nên không dám biếng nhác uể oải. Nay các khanh đại phu tận lực dùng tay chân và trí óc để suy tư, ở trong thì trông coi các kho lẫm nhà nước, ở ngoài thì thu cái lợi [thuế] cửa quan và chợ, cái lợi của rừng, núi, chằm, cầu, để cho kho lẫm được đầy, mà không dám biếng nhác, chán nản là tại sao? Tại họ cho rằng hễ gắng sức thì sang, không thì hèn; gắng sức thì vinh, không thì nhục, cho nên không dám biếng nhác, uể oải. Nay nông dân sáng ra ngoài ruộng, chiều tối về, gắng sức cày cấy, trồng trọt, để thu được đậu, lúa, mà không dám biếng nhác uể oải là tại sao? Tại họ cho rằng gắng sức thì giàu, không thì nghèo; gắng sức thì ấm, không thì lạnh, vì vậy mà không dám biếng nhác, uể oải.

Giả sử các vương công đại thần tin thuyết có số mạng [nghĩa là số tốt thì chẳng gắng sức cũng thành công, số xấu thì gắng sức cũng vô ích], mà hành động theo thuyết đó thì tất họ sẽ biếng nhác trong vụ xử kiện, trị nước; các khanh đại phu mà biếng nhác trong việc trông coi kho lẫm của nhà nước thì tôi cho rằng thiên hạ tất loạn. Nông phu biếng nhác trong việc cày cấy trồng trọt, đàn bà biếng nhác trong việc đánh sợi, kéo tơ thì tôi cho rằng thức ăn, áo mặc trong thiên hạ nhất định sẽ thiếu.

Trị thiên hạ mà như vậy mà thờ Trời và quỉ thần, thì Trời và quỉ thần không nhận; dưới bảo vệ nuôi nấng trăm họ, trăm họ không được lợi, tất sẽ li tán, không dùng họ được, do đó mà lui về giữ nước không vững, tiến quân đánh nước ngoài thì sẽ không thắng. Ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ thời xưa sở dĩ đều mất nước, xã tắc nghiêng đổ là vì vậy.

Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Bậc sĩ quân tử ngày nay nếu thực tâm muốn dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì không thể không tận lực bài xích thuyết có số mạng”. Thuyết số mạng là do các bạo vương thời xưa lập ra rồi hạng người cùng khốn truyền thuật lại, chứ không phải chủ trương của bậc nhân. Các người thi hành nhân nghĩa ngày nay không thể không xét và tận lực bài xích thuyết đó.

THƯỢNG ĐỒNG (hạ)

(Tán đồng với người trên)

Thầy Mặc tử nói: Bậc trí giả làm việc gì tất phải tính xem cái gì làm cho nước nhà và trăm họ yên trị thì làm, cái gì làm cho nước nhà và trăm họ loạn thì tránh. Mà cái gì cho nước nhà và trăm họ yên trị? [Đáp]: Bề trên cai trị hễ được kẻ dưới đồng tình[62] thì trị, không được kẻ dưới đồng tình thì loạn.

Sao biết được vậy? Bề trên cai trị mà được kẻ dưới đồng tình thì biết rõ quan niệm về tốt xấu trong dân chúng. Biết rõ quan niệm về tốt xấu trong dân chúng rồi thì biết được người nào thiện mà thưởng, kẻ nào tàn bạo mà phạt; người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì nước tất trị. Bề trên cai trị mà không được kẻ dưới đồng tình thì không biết rõ quan niệm về tốt xấu trong dân chúng; không biết rõ về quan niệm tốt xấu trong dân chúng thì không biết được người nào thiện mà thưởng, kẻ nào tàn bạo mà phạt; người thiện không được thưởng, kẻ tàn bạo không bị phạt, trị dân mà như vậy thì quốc gia tất loạn[63]. Cho nên thưởng phạt mà không được kẻ dưới đồng tình, đó là điều không thể không xét được.

Muốn cho kẻ dưới đồng tình với mình thì phải làm sao? Thầy Mặc tử bảo: Chỉ có cách là kẻ dưới phải tán đồng lẽ phải với người trên thì mới trị được thiên hạ. Sao biết được rằng người dưới phải tán đồng lẽ phải với người trên thì mới trị được thiên hạ? Muốn vậy thì sao không khảo xét xem chính trị thời nguyên thuỷ ra sao.

Thời nguyên thuỷ, trời mới sinh dân, chưa có ai làm chính trưởng (cầm đầu). Mỗi người tự làm chủ mình, mỗi người tự làm chủ mình thì mỗi người có một lẽ phải, mười người có mười lẽ phải, trăm người có trăm lẽ phải, ngàn người có ngàn lẽ phải, cho tới khi số người đông không biết bao nhiêu mà kể. Ai cũng bênh lẽ phải của mình, chê lẽ phải của người, xung đột lớn thì đến đánh nhau, xung đột nhỏ thì tranh nhau. Trời muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ, cho nên chọn người hiền lập làm thiên tử. Thiên tử cho rằng trí lực mình chưa đủ để trị thiên hạ, nên mới lập tam công[64]. Tam công lại thấy trí lực mình chưa đủ để giúp thiên tử, nên mới chia nước ra lập các chư hầu, chư hầu lại cho rằng trí lực mình chưa đủ để trị khắp bốn cõi, nên lựa người ở dưới lập chức khanh và chức tể [chủ một địa phận, một cơ quan]. Khanh và tể lại cho rằng trí lực chưa đủ để giúp vua chư hầu, nên lựa người ở dưới lập làm hương trưởng, gia trưởng. Vì vậy mà đời xưa thiên tử lập tam công, chư hầu, khanh, tể, hương trưởng, gia trưởng không phải vì giàu sang quá mà bỏ [chia xẻ] đi đâu mà là để có người giúp mình coi việc hình chính; vì vậy mà đời xưa lập quốc, dựng đô, lập ra các vua chúa, [tam] công, khanh, sĩ, sư, trưởng không phải để cho những vị đó hưởng cảnh an vui mà là phân biệt [chức tước] để có người giúp thi hành đạo sáng của Trời.

Ngày nay vì lẽ gì mà người trên không trị được kẻ dưới, kẻ dưới không biết thờ người trên, trên dưới hại lẫn nhau? Vì đâu mà tới nỗi vậy? Vì lẽ phải không thống nhất. Lẽ phải không thống nhất nên sinh ra bè đảng, bề trên cho một người nào đó là thiện mà muốn thưởng, người đó tuy được bề trên thưởng nhưng lại sợ trăm họ huỷ báng [vì quan niệm về tốt xấu của nhà vua và của dân trái ngược nhau] thành thử người làm điều thiện không khuyến khích, nhận thưởng; bề trên cho một người nào đó là tàn bạo muốn phạt, người đó tuy bị bề trên phạt nhưng lại được trăm họ khen, thành thử kẻ làm điều tàn bạo không bị ngăn cấm, chịu hình phạt. Như vậy bề trên khen không đủ để khuyến khích được dân làm điều thiện; bề trên chê, phạt không đủ ngăn cấm dân làm điều tàn bạo. Nguyên do tại đâu? Tại lẽ phải không thống nhất.

Muốn thống nhất lẽ phải trong thiên hạ thì phải làm sao? Thầy Mặc tử bảo: Sao không bảo gia trưởng làm thử đi. Gia trưởng ban bố pháp lệnh[65] trong nhà, bảo: “Hễ thấy ai yêu và làm lợi cho nhà thì phải báo cáo, hễ thấy ai ghét và làm hại cho nhà cũng phải báo cáo”. Thấy ai yêu và làm lợi cho nhà mà báo cáo, thì cũng như chính mình yêu và làm lợi cho nhà, người trên biết được sẽ thưởng cho và mọi người trong nhà nghe thấy sẽ khen; nếu thấy ai ghét và làm hại cho nhà mà không báo cáo thì cũng như chính mình ghét và làm hại cho nhà, người trên biết được sẽ phạt và mọi người trong nhà nghe thấy sẽ chê. Như vậy thì mọi người trong nhà đều muốn gia trưởng khen thương, tránh bị chê phạt. Thấy người thiện, kẻ bất thiện đều báo cáo thì gia trưởng biết được ai thiện mà thưởng, ai tàn bạo mà phạt. Người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì nhà tất trị. Thử xét một nhà như vậy mà trị thì là tại sao? Chỉ tại theo chính sách kẻ dưới thống nhất lẽ phải với người trên vậy thôi.

Nhà đã trị rồi, thì cái đạo trị nước như vậy là xong rồi chăng? Chưa xong. Số nhà trong thiên hạ rất nhiều, nhà nào cũng cho mình là phải mà chê nhà khác, xung đột lớn thì sinh loạn, nhỏ thì tranh nhau. Cho nên lại phải bắt hết các gia trưởng trong nước thống nhất lẽ phải của mình với nhà vua. Vua cũng phải ban bố phát lệnh trong dân chúng, bảo: “Hễ thấy ai yêu và làm lợi cho nước thì phải báo cáo, thấy ai ghét và làm hại cho nước cũng phải báo báo”. Thấy ai yêu và làm lợi cho nước mà báo cáo thì cũng như mình yêu và làm lợi cho nước, vua biết được sẽ thưởng mà dân chúng nghe thấy sẽ khen; nếu thấy ai ghét và làm hại cho nước mà không báo cáo thì cũng như chính mình ghét và làm hại cho nước, vua biết được sẽ phạt, mà dân chúng nghe thấy sẽ chê. Dân thấy ai thiện, ai bất thiện đều báo cáo thì vua biết được ai thiện mà thưởng, ai tàn bạo mà phạt. Người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì nước tất trị. Thử xét một nước như vậy mà trị là tại sao? Chỉ tại theo chính sách kẻ dưới thống nhất lẽ phải với người trên vậy thôi.

“Nước đã trị rồi, thì cái đạo trị thiên hạ như vậy là xong rồi chăng? Chưa xong. Số nước trong thiên hạ rất nhiều, nước nào cũng cho mình là phải mà chê nước khác, xung đột lớn thì gây chiến, nhỏ thì tranh nhau. Cho nên lại phải bắt hết thảy các nước thống nhất lẽ phải với thiên tử. Thiên tử cũng phải ban bố phát lệnh trong thiên hạ, bảo: “Hễ thấy ai yêu và làm lợi cho thiên hạ thì phải báo cáo; thấy ai ghét và làm hại cho thiên hạ cũng phải báo báo”. Thấy ai yêu và làm lợi cho thiên hạ mà báo cáo thì cũng như mình yêu và làm lợi cho thiên hạ, thiên tử biết được sẽ thưởng mà dân chúng nghe thấy sẽ khen; nếu thấy ai ghét và làm hại cho thiên hạ mà không báo cáo thì cũng như chính mình ghét và làm hại cho thiên hạ, thiên tử biết được sẽ phạt, mà dân chúng nghe thấy sẽ chê. Như vậy hết thảy mọi người trong thiên hạ đều muốn được thiên tử khen, tránh bị chê phạt. Dân chúng ai thiện, ai bất thiện đều báo cáo thì thiên tử biết được ai thiện mà thưởng, ai tàn bạo mà phạt. Người thiện được thưởng, kẻ tàn bạo bị phạt thì thiên hạ tất trị. Thử xét thiên hạ như vậy mà trị là tại sao? Chỉ tại theo chính sách kẻ dưới thống nhất lẽ phải với bề trên vậy thôi.

“Thiên hạ trị rồi, thiên tử lại đem tất cả lẽ phải trong thiên hạ thống nhất với Trời.

Cho nên theo chính sách thống nhất lẽ phải với bề trên, nếu thống nhất với thiên tử thì trị được thiên hạ; ở cấp giữa, chư hầu áp dụng nó thì trị được một nước; ở cấp nhỏ hơn, gia trưởng áp dụng nó thì trị được một nhà. Cho nên đại dụng [dùng đại qui mô] nó để trị thiên hạ thì vẫn còn thừa, tiểu dụng nó để trị một nước thì không bế tắc, cái đạo [thống nhất lẽ phải] đó như vậy. Cho nên bảo trị các nước trong thiên hạ như trị một nhà, sai khiến toàn dân trong thiên hạ như sai khiến một người.

Chỉ riêng thầy Mặc tử có đạo đó, tiên vương không có chăng? Không, tiên vương cũng có rồi. Các bậc thánh vương đ