TRÍCH DỊCH (3)
THƯỢNG HIỀN (trung)
(Trọng người hiền)
Thầy Mặc tử bảo: Bậc vương công đại nhân ngày nay trị dân, làm chủ xã tắc, trị nước, muốn giữ dân, giữ nước được lâu dài, không mất, sao không xét rằng trọng người hiền là việc căn bản của chính trị? Sao biết được rằng trọng người hiền là việc căn bản của chính trị? Đáp: Người sang và sáng suốt cai trị kẻ ngu và hèn thì nước trị; người ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì nước loạn, vì vậy mà biết rằng trọng người hiền là việc căn bản của chính trị.
Vì vậy, thánh vương đời xưa rất trọng người hiền mà dùng người giỏi, không vị tình thân thích, nể nang kẻ giàu sang, nuông chiều kẻ có sắc đẹp. Hễ người nào hiền thì đề cử lên chức cao, cho người đó giàu và sang, dùng làm trưởng quan; kẻ nào không tốt thì đè xuống, đuổi đi, khiến cho hoá nghèo hèn, bắt làm khổ dịch. Như vậy là “trọng người hiền”. [Lựa người] rồi, sau bậc thánh nhân mới nghe lời người đó bàn, xem thành tích, hành vi người đó để xét khả năng mà thận trọng giao cho chức quan, như vậy gọi “là người giỏi”. Thấy người đó trị nước được [như tể tướng] thì cho trị nước, làm trưởng quan [đứng đầu một nha] được thì cho làm trưởng quan, trị một ấp được thì cho làm trưởng ấp; như vậy những người trị nước, trị một nha, coi một kho hay một ấp, một làng đều là người hiền trong nước cả.
Người hiền trị nước, sáng sớm vô triều, chiều muộn mới về, xử án, coi việc hành chính; nhờ vậy mà nước trị, hình pháp thi hành đúng. Người hiền làm trưởng quan thì đêm ngủ sớm, sáng dậy sớm, thu góp thuế quan, thuế chợ, và những nguồn lợi núi rừng, chằm, cầu, để cho kho lẫm được đầy; nhờ vậy mà kho lẫm đầy mà tài nguyên không mất mát. Người hiền trị ấp thì sáng đi tối về, cày cấy, trồng cây, thu lúa, đậu; nhờ vậy mà lúa, đậu được nhiều, dân đủ ăn. Cho nên nước mà trị thì hình pháp thi hành đúng, kho lẫm đầy mà vạn dân giàu có. Bề trên [vua] có lúa gạo tinh khiết để cất rượu, nấu xôi mà tế Trời và quỉ thần; ngoài có da, lụa để giao tiếp với chư hầu bốn bên; trong nuôi được vạn dân, dân được ăn khi đói, nghỉ ngơi khi mệt mà hoài vọng người hiền trong thiên hạ. Cho nên bề trên được Trời và quỉ thần ban phúc cho, ở ngoài chư hầu giao hảo với mình, ở trong dân chúng thân với mình. Theo cách đó mà mưu tính thì được việc, cử sự thì thành công, ở giữa nước được vững mạnh, xuất quân chinh phạt thì mạnh. Ba đời thánh vương đời xưa: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ sở dĩ làm vua thiên hạ, cầm đầu các chư hầu, cũng chỉ nhờ phép đó cả.
Đã có phương pháp tuyển dụng người hiền rồi mà chưa biết thuật thi hành ra sao thì việc cũng chưa thành. Vậy phải đưa ra ba qui tắc căn bản. Ba qui tắc căn bản là gì? Đáp: Tước vị không cao thì dân không kính, bổng lộc không hậu thì dân không tin, chính lệnh không quyết đoán thì dân không sợ. Cho nên thánh vương đời xưa phong cho tước cao, ban cho lộc hậu, giao cho công việc, quyết đoán ra lệnh, đâu phải là vì bề tôi mà vì muốn cho được việc. Kinh Thi có câu: “[Ta] dặn người phải lo cái lo của thiên hạ, [ta] dạy người ban tước vị cho hiền sĩ. Ai cầm vật nóng mà không tưới nước lạnh vào tay”? Ý muốn nói các vua chúa, chư hầu thời xưa không thể không thân với người hiền để họ nối nghiệp, phụ tá, cũng như cầm vật nóng thì tưới nước lạnh vào tay để cho tay khỏi bỏng.
Thánh vương đời xưa được người hiền để sai khiến thì ban tước cho người đó hoá sang, cắt đất phong cho, suốt đời không bỏ. Người hiền được minh quân mà thờ thì đem hết sức mình ra làm việc cho vua, suốt đời không mỏi; có điều gì tốt đẹp thì bảo là công của vua, vì vậy mà vua được tiếng tốt mà bề tôi bị oán trách[1], vua được yên vui mà bề tôi phải lo buồn. Thánh vương đời xưa trị dân như vậy.
Ngày nay các vương công đại nhân cũng không muốn bắt chước chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi của cổ nhân, cho người hiền tước cao nhưng bổng lộc lại không xứng với tược; tước cao mà lộc ít thì dân không tin, bảo: “Như vậy là không thực tâm yêu ta, mượn hư danh để dùng tạm ta đấy thôi”. Người dân bị vua mượn hư danh để dùng tạm thì làm sao thân với vua được? Cho nên tiên vương bảo: “Kẻ nào ôm đồm việc nước thì không biết chia việc cho người, kẻ nào ham của thì không biết chia lộc cho người. Việc không giao cho, lộc không chia cho, như vậy thử hỏi người hiền trong thiên hạ chịu tới bên cạnh bọn vương công đại nhân [để giúp đỡ họ]?
Người hiền không chịu tới bên cạnh bọn vương công đại nhân thì kẻ xấu bu tới chung quanh. Kẻ xấu ở chung quanh họ thì người đáng khen không phải là người hiền, mà kẻ đáng phạt không phải là kẻ tàn bạo. Các vương công đại nhân trị nước cách đó thì thưởng phạt cũng sẽ không xứng đáng. Thưởng phạt không xứng đáng thì người hiền không được khuyến khích mà kẻ bạo ngược không bị ngăn cấm. Như vậy dân trong nhà không hiếu kính với cha mẹ, ra ngoài không tôn trọng làng xóm, cư xử, ra vào không tiết độ, trai gái không riêng biệt. Cho coi kho lẫm của nhà nước thì ăn cắp ăn trộm; cho giữ thành thì phản nghịch; vua gặp nạn thì không chết theo vua, vua lưu vong thì không đi theo vua; bảo xử án thì xử bậy; bảo chia của thì chia không đều, bảo mưu tính việc gì thì không xong, làm việc thì không thành; giữ nước thì không vững; đi chinh phạt nước ngoài thì yếu, thua. Ba đời bạo vương thời xưa: Kiệt, Trụ, U, Lệ sở dĩ mất nước, xã tắc nghiêng đỗ, đều do như vậy cả, đều là sáng suốt trong việc nhỏ mà không sáng suốt về việc lớn.
Nay bậc vương công đại nhân, có một bộ áo không may cắt lấy được, phải nhờ một thợ may giỏi; có con bò con cừu[2] không mổ lấy được, phải nhờ người đồ tể giỏi; để làm hai việc đó, họ đều theo chính sách trọng người hiền. Đến cái việc nước nhà loạn lạc, xã tắc lâm nguy thì lại không biết theo chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi để sửa trị, mà dùng kẻ thân thích, cố cựu, cùng kẻ giàu sang [tức hạng quí tộc], mặt mũi tốt đẹp. Bọn thân thích, cố cựu, giàu sang, mặt mũi tốt đẹp được dùng đó, nhất định là có trí tuệ cả không? Cho họ trị nước, tức là sai bọn ngu dốt trị nước, như vậy nước sẽ loạn là điều có thể biết chắc được rồi.
Bọn vương công đại nhân vì yêu dung nhan một người nào đó mà dùng, yêu mà không xét khả năng của họ ra sao. Họ không cai trị nổi một trăm người mà cho làm một chức quan cai trị một ngàn người, không cai trị nổi một ngàn người mà cho làm một chức quan cai trị một vạn người, như vậy là chức quan lớn gấp mười khả năng. Phép trị dân, ngày nào cũng phải thi hành, không thể ngưng được, mà khả năng cai trị của kẻ đó không thể trong một ngày tăng lên gấp mười được. Phải có khả năng mới cai trị được, khả năng không thể tăng lên gấp mười ngay được, mà lại cho họ lãnh một chức lớn gấp mười khả năng của họ, thì họ chỉ trị được một phần mà bỏ qua chín phần kia; tuy suốt ngày đêm họ thi hành chức vụ, kết quả cũng như không thi hành. Nguyên do tại đâu? Tại các vương công đại nhân không hiểu rõ chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi.
Ở trên kia [thầy Mặc tử] đã nói dùng chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi thì nước thịnh; [ngược lại] tôi [có thể] nói không trọng người hiền, không dùng người giỏi thì nước loạn. Nay các vương công đại nhân nếu thực tâm muốn trị nước nhà cho được trường tồn mà không mất, sao không xét rằng trọng người hiền là việc căn bản của chính trị?
Vả lại, nào phải chỉ có một mình thầy Mặc tử bảo trọng người hiền là việc căn bản của chính trị? Đó là đạo của thánh vương, mà người trước đã chép trong sách và người già đã nói. Truyện chép rằng: “Nên tìm bậc thánh vương, triết nhân để giúp đỡ ngươi”. Thang thệ chép: “Bèn tìm bậc đại thánh mà đồng tâm cộng lực trị thiên hạ”. Như vậy thánh vương giữ đúng chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi. Đời xưa, thánh vương chỉ theo chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi, không dùng tạp nhạp, cho nên trong thiên hạ có tôn ti [người hiền được trọng, ở trên; kẻ xấu bị khinh, ở dưới].
Xưa ông Thuấn cày ruộng ở Lịch Sơn, làm đồ gốm ở bờ sông [Hoàng hà], đánh cá ở Lôi Trạch[3]; vua Nghiêu gặp được ông ở phía bắc chằm Phúc Trạch[4], đề cử làm thiên tử nối tiếp mình coi việc chính trị trong thiên hạ, cai trị dân trong thiên hạ; ông Y Chí giúp việc một người đàn bà nước Hữu Tân[5], làm đầu bếp, vua Thang tìm được, đề cử làm tướng quốc, tiếp sức mình coi việc chính trị trong thiên hạ, cai trị dân trong thiên hạ; ông Phó Duyệt bận áo bằng vải thô, cột lưng bằng sợi dây, làm mướn, xây cất nhà cửa ở Phó Nham[6], vua Võ Đinh[7] tìm được, đề cử làm một trong ba chức công[8], tiếp sức mình coi việc chính trị trong thiên hạ, cai trị dân trong thiên hạ, mấy ông đó nhờ đâu mà mới đầu nghèo hèn, sau được giàu sang? Nhờ vương công đại phu [các thời đó] hiểu rõ chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi. Nhờ vậy, không một người dân nào đói mà không được ăn, lạnh mà không được áo, mệt mà không được nghỉ, loạn mà không được trị. Các thánh vương đời xưa xét kĩ rồi dùng chính sách trọng người hiền, dùng người giỏi, theo phép của Trời. Chỉ có Trời là không kể tới giàu nghèo, sang hèn, gần xa, thân sơ, cứ người nào hiền thì đề cử mà tôn trọng, kẻ nào xấu thì ức chế, bỏ đi.
Có người giàu sang[9] mà hiền, nên được [Trời] thưởng, ai vậy? Đáp: Đó là ba đời thánh vương Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ. Tại sao các ông ấy được thưởng? Đáp: Vì các ông ấy cai trị thiên hạ thì gồm yêu mọi người, làm lợi cho họ, lại đốc suất vạn dân trong thiên hạ thờ Trời và quỉ thần, [đó cũng là một cách] yêu và làm lợi cho vạn dân. Vì vậy Trời và quỉ thần thưởng họ, cho làm thiên tử, làm cha mẹ dân, vạn dân khen và theo họ, gọi họ là thánh vương. Đó là giàu sang mà hiền nên được Trời thưởng.
Những người giàu sang mà tàn bạo nên bị [Trời] phạt, ai vậy? Đáp: Đó là ba đời bạo vương Kiệt, Trụ, U, Lệ. Sao biết vậy? Đáp: Mấy ông ấy cai trị thiên hạ thì gồm ghét mọi người mà làm hại cho họ, lại đốc suất vạn dân trong thiên hạ chửi Trời, khinh quỉ thần, tàn sát vạn dân. Cho nên Trời và quỉ thần phạt họ, bắt họ phải bị chém giết, con cháu họ bị li tán, gia đình họ bị diệt, không có kẻ nối dõi; vạn dân theo mà chê họ là bạo vương, tiếng xấu còn tới nay. Đó là giàu sang mà tàn bạo nên bị Trời phạt.
Người thân thích mà không thiện nên bị phạt, ai vậy? Đáp: Tức ông Bá Cổn thời xưa, con cả của vua, đức của phế đế tầm thường, nên bị xử tội ở ngoài thành Vũ, bị giam trong chỗ tối tăm, mặt trời mặt trăng không chiếu tới [tức trong tù], vua cũng không yêu[10]. Đó là thân thích của vua mà không thiện nên bị phạt.
Trời trọng người hiền, dùng người giỏi, ai đấy? Đáp: Tức như ông Vũ, ông Tắc, ông Cao Dao thời xưa. Sao biết như vậy? Thiên Lữ Hình[11] của tiên vương chép: “Hoàng đế [tức vua Nghiêu] hỏi dân chúng có gì đáng lo, dân chúng đáp: Lo cái hoạ rợ Hữu Miêu – Hoàng đế bảo: Từ các vua chư hầu tới thần dân, những người có đức rực rỡ phải được đề cử, không được che lấp những người quan quả [không biết tự vào đâu], ai có đức uy thì phải sợ, ai có đức sáng thì phải tôn trọng. Như vậy là vua Nghiêu bảo ông Vũ, Tắc, Cao Dao[12] phải lo tính việc dân. Ông Bá Di sửa điển lễ, ai không theo thì bị hình pháp; ông Vũ trị thuỷ, thổ, đặt tên cho sông núi; ông Tắc gieo các giống lúa, gắng sức trồng lúa, ba ông ấy thành công, thành tích lớn, xa, lợi cho khắp dân”. Đó là nói ba ông thánh ấy thận trọng lời nói và hành vi, suy tư kĩ lưỡng, tìm cái lợi trong các việc nhỏ nhặt trong thiên hạ; trên thì thờ Trời mà Trời nhận cái đức của họ; dưới thì thi hành với dân mà dân được lợi cho tới suốt đời. Cho nên tiên vương bảo: Đạo ấy đem dùng khắp thiên hạ thì dẫn còn dư, mà dùng ít thì khỏi bị cùng khốn; dùng lâu thì vạn dân được lợi suốt đời. Thiên Chu tụng viết: “Đức của thánh nhân chiếu khắp thiên hạ như trời cao, đất rộng, kiên cố như đất, như núi[13], không nứt, không sụp; nó sáng như mặt trời, mặt trăng cùng với trời đất còn hoài”. Đó là cái đức của thánh nhân sáng sủa, rộng rãi, kiên cố, lâu dài. Cho nên đức của thánh nhân trùm khắp cả trời đất.
Nay các bậc vương công đại nhân muốn làm vua thiên hạ, cai trị chư hầu, mà không có nhân nghĩa thì biết làm cách nào đây? Tất là phải tăng uy lực của mình lên. Làm cách nào mà tăng uy lực được? Phải xua hết dân vào chỗ chết [đưa ra chiến trường] chăng? Dân không ham gì bằng sống, mà cái họ ghét lại cứ tới hoài; từ xưa tới nay chưa có ai dùng cách đó mà làm vua thiên hạ, cai trị chư hầu được. Nay các vương công đại nhân muốn làm vua thiên hạ, cai trị chư hầu, muốn ý của mình đạt được khắp thiên hạ, lưu danh lại hậu thế, sao không xét rằng trọng người hiền là căn bản của chính trị? [Trọng người hiền] đó là cái đức [hoặc hành vi] lớn của thánh nhân.
TIẾT DỤNG (thượng)
(Bớt tiêu xài)
Thánh nhân cai trị một nước thì cái lợi của nước có thể tăng lên gấp hai, rộng ra, nếu cai trị cả thiên hạ thì cái lợi của thiên hạ có thể tăng lên gấp hai. Tăng lên gấp hai không phải là vì đi chiếm đất ở ngoài, mà vì bỏ những cái vô dụng, phí tổn vô ích trong nước đi, như vậy đủ tăng lên gấp hai rồi. Thánh nhân trị nước, khi ra lệnh làm một việc gì, khiến dân chúng dùng của cải, thì xét xem việc đó có ích không rồi mới làm, vì vậy mà không phí của cải, không mệt sức dân, lại lợi được nhiều.
Làm ra áo mỏng áo lông để làm gì? Để chống lạnh mùa đông, che nóng mùa hè. Phép làm áo quần, hễ mùa đông thêm ấm, mùa hè thêm mát thì thôi; cái gì không ích lợi thì bỏ đi. Làm ra nhà cửa để làm gì? Để chống gió và lạnh mùa đông, che mưa che nắng mùa hè, hễ vững chắc mà thôi, cái gì không thêm ích lợi thì bỏ đi. Làm áo giáp, cái mộc, và năm thứ binh khí[14] để làm gì? Để chống trộm cướp đạo tặc, có những thứ đó thì thắng, cho nên thánh nhân chế tạo những thứ đó. Làm áo giáp, cái mộc, và năm thứ binh khí, hễ vừa nhẹ vừa bén, vừa chắc vừa khó bẻ gãy được thì thôi, cái gì không thêm ích lợi thì bỏ đi. Làm ra thuyền và xe để làm gì? Xe để đi trên đất gò; thuyền để đi trên sông, trong khe, mà làm cái lợi [sản phẩm] của bốn phương lưu thông. Phép đóng thuyền, xe hễ vừa nhẹ vừa tiện thì thôi, cái gì không thêm ích lợi thì bỏ đi. Làm mấy vật đó, hễ cái gì không thêm ích lợi thì không khi nào làm, nhờ vậy mà không phí của cải, không mệt sức dân, lại lợi nhiều.
Loại trừ cái thói ham chứa ngọc, nuôi chim muông, chó ngựa của các đại nhân đi thì có thể tăng lên gấp mấy lần số quần áo, nhà cửa, áo giáp, cái mộc, và năm thứ binh khí được chăng? [Được], điều đó không khó. Thế thì cái gì mới khó tăng lên gấp đôi? Chỉ có số người là khó tăng lên gấp đôi.
[Tuy khó] nhưng tăng gấp đôi được. Xưa, thánh vương ra lệnh: “Con trai hai mươi tuổi, không ai dám không lấy vợ [vì bắt phải lấy vợ], con gái mười lăm tuổi không ai dám không lấy chồng”. Đó là phép của thánh vương. Thánh vương mất rồi, dân sinh ra phóng túng. Có kẻ muốn lấy vợ sớm, hai mươi đã lấy vợ; có kẻ muốn lấy vợ muộn, bốn mươi mới lấy vợ. Sớm bù muộn, thì số trung bình vẫn là trễ hơn tuổi thánh vương ấn định là mười năm[15]. Nếu cứ ba năm đẻ một lần thì trong mười năm trễ đó, hụt mất hai ba đứa con rồi. Như vậy chẳng phải là bắt dân sớm lấy vợ thì số dân có thể tăng lên gấp hai đấy ư?
Các chính trị gia trong thiên hạ ngày nay có nhiều cách làm cho số người ít đi: bắt dân làm mệt sức, thu thuế lại nặng, dân nghèo chết đói, rét không biết bao nhiêu mà kể. Vả lại các bậc đại nhân dấy binh đánh chiếm nước láng giềng, lâu thì trọn năm, chóng thì vài tháng, vợ chồng lâu không gặp nhau, do đó mà số người ít lại. Lại ăn ở không yên, ăn uống thất thường, sinh ra đau ốm mà chết; lại như dùng (…) để hoả công, phá thành, chiến đấu ở ngoài đồng, chết không biết bao nhiêu mà kể. Đó chẳng phải là những thuyết chính trị gia ngày nay dùng để làm cho dân số ít đi hay sao? Thánh nhân làm chính trị không như vậy. Những thuật thánh nhân dùng để làm cho số người tăng lên chẳng phải là trái với những thuật đó sao?[16] Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Bỏ cái vô dụng đi”. Đó là đạo của thánh vương, cái lợi lớn của thiên hạ.
TIẾT DỤNG (trung)
Thầy Mặc tử bảo: “Các minh vương, thánh nhân đời xưa sở dĩ làm vua thiên hạ, sửa trị các chư hầu được là nhờ hết lòng nghiêm chỉnh yêu dân, làm lợi nhiều cho dân, vừa trung vừa tín, lại bảo cho dân biết điều lợi, như vậy suốt đời không chán, không mệt; các minh vương, thánh nhân đời xưa sở dĩ làm vua thiên hạ, sửa trị các chư hầu được là nhờ vậy”.
Các thánh vương đời xưa đặt ra phép tiết dụng, bảo: “Những thợ làm mọi nghề trong thiên hạ: nghề đóng xe, làm đồ da, đồ gốm, đồ rèn, đồ mộc, tuỳ tài năng của mình”; bảo: “Hễ ai cung cấp đủ đồ dùng trong thiên hạ rồi thì thôi, cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm”.
Các thánh vương đời xưa đặt ra phép ăn uống, bảo: “Đủ để no bụng, nối hơi, mạnh tay chân, sáng tai mắt thì thôi; không rán điều hoà đến cùng cực ngũ vị và mùi thơm, không tìm kiếm những của ngon vật lạ ở xa”. Làm sao biết được như vậy? Xưa, vua Nghiêu trị thiên hạ, phía Nam vỗ về miền Giao Chỉ[17], phía Bắc tới U Đô[18], phía Đông, tới chỗ mặt trời mọc và lặn, đâu của thần phục cả; vậy mà ông yêu tiếc của cải, sản vật [đến nỗi một bữa cơm] không dùng cả hai thứ lúa kê và mì, không dùng cả hai món canh và xào[19], ăn cơm trong bát đàn, húp canh trong tô đàn, dùng cái đấu để uống rượu; [trong] những cuộc uy nghi phải cúi ngửa, múa tay[20], hễ cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm.
Các thánh vương đời xưa đặt ra phép ăn mặc, bảo: “Mùa đông bận áo lụa xanh, lụa điều, nhẹ và ấm; mùa hè bận áo vải nhỏ, vải to nhẹ và mát, thế thôi”. Cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm.
Các thánh vương đời xưa cho rằng các loài chim dữ, thú dữ hiếp người, hại dân, cho nên dạy binh pháp cho dân, bảo: “Cây kiếm, đâm thì thủng, chém thì đứt, đánh một bên thì không gãy[21]. Đó là cái lợi của cây kiếm; dùng da tê làm áo giáp thì nhẹ và tiện lợi, cử động, co duỗi dễ dàng như ý muốn, đó là cái lợi của áo giáp”.
Dùng xe để chở nặng, đi xa, ngồi được yên, kéo đi cũng tiện; yên thì không hại cho thân thể, tiện thì mau tới, đó là cái lợi của xe.
Các thánh vương đời xưa thấy không qua được sông lớn và khe rộng, cho nên chế tạo thuyền và mái chèo cho tiện, đủ để chở người thì thôi, dù chở các vị tước cao chức trọng như tam công, chư hầu thì cũng không thay đổi thuyền vào chèo, người đưa đò cũng không trang sức[22], đó là cái lợi của thuyền.
Các thánh vương đời xưa đặt ra phép tiết táng [tiết giảm việc ma chay], bảo: “Áo [để liệm] ba bộ đủ để [bọc tới khi] thịt nát, quan tài dày ba tấc[23] đủ để [chứa tới khi] xương nát, huyệt đào sâu không tới mạch nước để hơi thối không xông lên, thế thôi. Người chết đã chôn rồi thì người sống không rầu rĩ để tang lâu”.
Người thời nguyên thuỷ, chưa có nhà cửa, kiếm gò đống, hang ổ mà ở. Thánh vương lấy làm lo, cho rằng hang ổ mùa đông tránh lạnh và gió được, [nhưng] qua mùa hè thì ở dưới ẩm thấp mà ở trên hơi nóng bốc lên, e hại cho sức khoẻ của dân, cho nên chế tạo nhà cửa, có lợi hơn. Nhưng phép xây cất nhà cửa ra sao? Thầy Mặc tử bảo: [Tường] bốn bên có thể ngừa gió và lạnh, [nóc] ở trên có thể ngừa tuyết sương, mưa móc, ở trong sáng và sạch có thể làm chỗ thờ cúng được, vách đủ để ngăn các phòng đàn ông và đàn bà, thế thôi. Cái gì thêm phí tổn mà không thêm lợi cho dân thì thánh vương không làm.
TIẾT TÁNG (hạ)
(Tiết giảm việc ma chay)
Người [có đức] nhân mưu tính cho thiên hạ không khác gì người con có hiếu mưu tính cho cha mẹ. Người con có hiếu mưu tính cho cha mẹ ra sao? Đáp: Cha mẹ nghèo thì làm sao cho cha mẹ giàu; nhân dân ít thì làm sao cho nhân dân nhiều lên, dân chúng loạn thì làm sao cho dân chúng trị[24]. Làm những việc đó, nếu sức lực hoặc tiền của, trí mưu không đủ thì đành vậy; chứ không dám tiếc sức, giấu trí mưu, bỏ xót cái lợi mà không hết lòng lo cho cha mẹ. Ba việc đó[25], người con có hiếu mưu tính cho cha mẹ phải như vậy.
Người nhân mưu tính cho thiên hạ cũng vậy. Nghĩa là thiên hạ nghèo thì làm cho thiên hạ giàu lên, nhân dân ít thì làm cho nhiều lên, dân chúng loạn thì làm cho trị. Làm những việc đó nếu sức lực hoặc tiền của, trí mưu không đủ thì đành vậy; chứ không dám tiếc sức, giấu trí mưu, bỏ xót cái lợi mà không hết lòng lo cho thiên hạ. Ba việc đó, người nhân lo cho thiên hạ phải như vậy.
Từ khi thánh vương ba đời[26] xưa mất rồi, thiên hạ không biết thế nào là nghĩa [việc nên làm] nữa. Các quân tử đời sau có người cho ma chay hậu hĩ, để tang lâu là nhân, nghĩa, là bổn phận của người con có hiếu; có kẻ cho ma chay hậu hĩ, để tang lâu là phi nhân, phi nghĩa, không là bổn phận của người con có hiếu. Hai hạng người đó chê bai lẫn nhau, hành động ngược nhau. Họ đều bảo: “Tôi theo đúng đạo của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ” mà chê bai lẫn nhau, hành động ngược nhau. Như vậy khiến cho người quân tử đời sau nữa đâm nghi ngờ lời nói của họ.
Nếu nghi ngờ lời của hai hạng người đó thì thử quay về thực tế là việc cai trị quốc gia, vạn dân mà xét xem: chính sách ma chay hậu hĩ và để tang lâu, thì có thực làm cho nghèo hoá giàu, số người ít hoá nhiều, nguy hoá yên, loạn hoá trị được không? Nếu được thì đó là nhân, nghĩa, là bổn phận của người con có hiếu, mà người nào mưu tính cho thiên hạ không thể không khuyến khích được […][27] và bậc nhân giả tất phải mong cho tục đó [ma chay hậu hĩ và để tang lâu] được thịnh hành trong khắp thiên hạ, đặt thành một chế độ khiến dân khen nó, đừng bao giờ bỏ. [Trái lại] nếu theo đúng lời đó, chính sách đó mà ma chay hậu hĩ và để tang lâu, quả thực không làm cho nghèo hoá giàu, số người ít hoá nhiều, nguy hoá yên, loạn hoá trị được, thì đó là phi nhân, phi nghĩa, không phải là bổn phận của người con có hiếu, người nào mưu tính cho thiên hạ không thể không ngăn cấm, và bậc nhân giả phải mong trừ cái tục đó cho thiên hạ, phế bỏ nó, khiến cho dân chê nó, suốt đời không theo nó. Vả gây cái lợi, trừ cái hai cho thiên hạ, mà làm cho quốc gia, trăm họ không yên trị thì từ xưa tới nay chưa từng có vậy.
Sao biết được việc đó? Các bậc quân tử đời nay có nhiều người còn nghi ngờ không biết ma chay hậu hĩ, để tang lâu là phải hay trái, lợi hay hại. Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Thế thì phải khảo sát xem. Theo chủ trương ma chay hậu hĩ, để tang lâu mà thi hành trong nước thì hạng vương công đại nhân có tang tất bảo: phải hai lớp trong quan ngoài quách, chôn cất hậu hĩ, đồ liệm phải nhiều, thiêu thùa, màu sắc phải rực rỡ, phần mộ phải lớn; hạng dân thường, nghèo hèn có người chết thì gia tài gần khánh kiệt; hạng chư hầu mà chết thì kho lẫm trống rỗng, vì phải dùng vàng bạc châu báu trang sức đầy xác chết, dây thao buộc áo quan, xe và ngựa chôn trong mộ, lại phải chôn nhiều màn trướng, vạc, trống, kỉ, thiên, hồ lạm[28], mác, kiếm, cờ, lông, răng thú, da thú, có chôn những thứ đó vào mộ rồi mới vừa ý; thành thử tống táng mà như cuộc dời chỗ ở. [Lại thêm]: thiên tử và chư hầu mà chết, người tuẫn táng [người sống chôn theo người chết] nhiều tới vài trăm, ít cũng vài chục; tướng quân, đại phu mà chết, kẻ tuẫn táng nhiều thì vài chục, ít cũng vài người.
[Còn] phép cư tang phải ra sao? Đáp: Lúc nào cũng phải gào khóc tới khản tiếng, bận đồ sô gai, nước mắt nước mũi ròng ròng, ở trong cái chòi cất tạm, nằm cỏ, gối đất, lại nhịn đói, chịu lạnh, tới nỗi mặt mày phờ phạc, nước da đen sạm, tai mắt mờ, tay chân bủn rủn, không dùng được nữa. Lại bảo: Hạng thượng sĩ cư tang tất phải có người đỡ mới đứng dậy được, phải chống gậy mới đi được, như vậy suốt ba năm. Nếu theo đúng lối đó, thi hành đạo đó, thì bọn vương công đại nhân không thể sáng vô triều, chiều mới về, xử án và trị nước được; bọn sĩ đại phu tất không giữ năm chức vụ, coi sáu ti[29], mở mang đất đai[30], làm cho kho lẫm đầy được; bọn nông phu không thể sáng ra đồng, chiều về nhà, cày cấy, trồng trọt được, thợ trăm nghề không thể sửa xe thuyền, làm đồ dùng, bát đĩa được; đàn bà không thể dậy sớm thức khuya đánh sợi dệt vải được.
Chủ trương chôn cất hậu hĩ tức là chôn cất nhiều của cải, tiền bạc; chủ trương để tang lâu, tức là cấm người ta làm ăn trong một thời gian lâu, Của cải đã tạo nên bây giờ đem chôn đi, con cháu có thể tạo ra của cải được thì lại cấm chúng làm ăn trong một thời gian lâu; như vậy mà mong được giàu có thì không khác gì cấm cấy cày mà mong được thu hoạch; làm sao có thể làm giàu theo chủ trương đó được.
Vậy là muốn cho giàu có lên đã không được; muốn cho nhân dân đông lên có được chăng? Cũng không được nữa.
Theo chính sách để tang lâu thì vua chết, để tang ba năm; cha mẹ chết để tang ba năm; vợ chết và con trai trưởng chết cũng để tang ba năm; rồi tới chú bác, anh em, các con thứ để tang một năm; họ hàng gần để tang năm tháng; cô, cậu, chị, cháu gọi bằng cậu, đều để tang vài tháng; như vậy là đặt ra cái phép huỷ hoại thân thể. Khiến cho mặt mày bơ phờ, nước da đen sạm, tay mắt mờ, tay chạn bủn rủn, không dùng được nữa. Lại bảo: Hạng thượng sĩ cư tang tất phải có người đỡ mới đứng dậy được, phải chống gậy mới đi được, như vậy trong ba năm. Nếu theo đúng lời đó, thi hành đạo đó một cách nghiêm cẩn thì sẽ đói, mệt mỏi như vậy, mà rồi trăm họ mùa đông không chịu nổi lạnh, mùa hè không chịu nổi nóng, sinh bệnh và chết không biết bao nhiêu mà kể. [Trong thời cư tang] lại cấm vợ chồng ăn nằm với nhau, như vậy mà muốn cho dân số đông lên thì không khác gì dùng gươm tự tử mà mong được thọ; dân làm sao có thể đông lên được.
Vậy là muốn cho dân đông lên đã không được; muốn cho việc hình chính yên trị được chăng? Cũng không được nữa.
Theo chính sách ma chay hậu hĩ và để tang lâu, thì quốc gia tất nghèo, nhân dân tất ít, việc hình chánh tất loạn. Nếu theo đúng lời đó, thi hành đạo đó thì sẽ khiến cho người trên không trị nước được, người dưới không làm việc được. Người trên không trị nước được thì hình chính tất loạn; người dưới không làm việc được thì không có đủ tiền để ăn mặc. Ăn mặc không đủ, xin anh giúp đỡ mà không được, thì đứa em ngỗ nghịch sẽ oán anh; xin cha mẹ giúp đỡ mà không được, thì đứa con bất hiếu sẽ oán cha mẹ; xin vua giúp đỡ mà không được, thì bề tôi bất trung tất sẽ làm loạn. Thế là hạng dân phóng đãng bậy bạ, ra không có áo mặc, vô không có cơm ăn, trong lòng chứa chất xấu hổ, căm hờn, sẽ làm những điều càn giở, bạo loạn không sao cấm được. Do đó, đạo tặc nhiều, dân ít mà mong cho nước trị thì không khác gì bảo người ta quay ba vòng mà không quay lưng lại (?)[31].
Vậy là muốn cho việc hình chính yên trị đã không được; muốn ngăn cấm nước lớn đánh nước nhỏ được chăng? Cũng không được nữa.
Khi thánh vương đời xưa mất rồi, thiên hạ không biết thế nào là nghĩa, chư hầu dùng sức mạnh để tranh đạt nhau. Phía Nam có vua các nước Sở, Việt, phía Bắc có vua các nước Tề, Tấn, họ đều rèn luyện sĩ tốt để công phạt, thôn tính rồi cai trị thiên hạ. Sở dĩ nước lớn không đánh chiếm nước nhỏ tích luỹ [lương thực, binh khí] nhiều hay ít, sửa sang thành quách, trên dưới hoà hợp với nhau, nước lớn [thấy vậy] mới không đánh. Nếu không tích luỹ, sửa sang thành quách, trên dưới không hoà hợp nhau thì nước lớn mới lâm le muốn đánh. Nay theo chính sách ma chay hậu hĩ, để tang lâu thì nước tất nghèo, dân tất ít, hình chính tất loạn; nghèo thì không tích luỹ được, dân ít thì ít người sửa sang thành quách, hào, kênh, mà nước loạn thì tiến ra tấn công không thắng được, trở về thế thủ cũng không vững.
Vậy là muốn ngăn cấm nước lớn đánh nước nhỏ không được; muốn cầu xin Thượng Đế, quỉ thần ban phúc cho, có được chăng? Cũng không được nữa.
Theo chính sách ma chay hậu hĩ và để tang lâu, thì quốc gia tất nghèo, nhân dân tất ít, hình chính tất loạn. Đã nghèo thì xôi, rượu [để cúng] tất không thanh khiết; dân đã ít thì số người thờ Thượng Đế, quỉ thần cũng ít; nước loạn thì việc tế tự không đều đều đúng ngày. Nay lại cấm thờ Thượng Đế, quỉ thần; trị nước mà như vậy thì Thượng Đế, quỉ thần ở trên tất tự nhủ: “Ta có con người đó với không có con người đó [đằng nào hơn], là điều không phải lựa chọn nữa rồi”. Nếu vậy, nếu Thượng Đế, quỉ thần có giáng tai hoạ để trừng phạt mà bỏ bê thì chẳng đáng ư?
Cho nên thánh vương đời xưa đặt ra phép mai táng, bảo: “Quan dày ba tấc đủ để thân thể nát ra; áo liệm ba bộ đủ để che xác. Chôn thì dưới không tới mạch nước, trên không hôi thối xông lên, đắp nấm mộ rộng khoảng ba thước[32], thế thôi. Người chết chôn rồi, người sống không để tang lâu mà gấp lo làm ăn, đem khả năng của mình để làm lợi lẫn nhau. Đó là phép của thánh vương.
Hạng người chủ trương ma chay hậu hĩ, để tang lâu, bảo: “Ma chay hậu hĩ, để tang lâu, tuy có thể làm cho nước hoá nghèo, dân đông hoá ít, yên hoá nguy, trị hoá loạn, nhưng đó là đạo của thánh vương”. Thầy Mặc tử bảo: “Không phải! Xưa vua Nghiêu dạy dỗ tám rợ Địch ở phía Bắc, khi mất, chôn ở phía Bắc núi Cung Sơn, liệm bằng ba bộ áo, quan tài bằng gỗ dó [thứ cây vỏ dùng làm giấy, gỗ xấu]; cột bằng dây cát [dây sắn][33]; quan tài hạ huyệt rồi mới khóc, lấp đất đầy huyệt thì thôi chứ không đắp nấm; chôn rồi thì bò và ngựa dẫm lên [cho dẽ đất]; vua Thuấn dạy dỗ bảy rợ Nhung ở phương Tây, khi mất, chôn ở núi Nam Kỉ, liệm bằng ba bộ áo, quan tài bằng gỗ dó, cột bằng dây cát, chôn rồi thì người ở chợ dẫm lên; vua Vũ dạy dỗ chín rợ Di ở phía Đông, khi mất, chôn ở Cối Kê, quan tài bằng gỗ vong dày ba tấc, cột bằng dây sắn, tuy thắt nhưng không khít, tuy đào hầm nhưng không sâu, phỏng đoán sao cho dưới đừng tới mạch nước, trên đừng để hơi thối xong lên thì thôi. Chôn rồi, gom đất dư để đấp lên, nấm mộ rộng khoảng ba thước thì thôi. Xét ba vị thánh vương đó thì ma chay hậu hĩ, để tang lâu thì quả thực không phải là đạo của thánh vương. Nhờ vậy mà ba ông vua đó đều sang tới làm thiên tử, giàu tới mức làm chủ cả thiên hạ, đâu có phải là lo không đủ của cải, đồ vật [để chôn cất hậu hĩ], mà cho rằng phép chôn cất nên như vậy”.
Các vương công đại nhân chôn cất không như vậy. Tất phải có quan tài lớn ở ngoài, quan tài trung bình ở trong, da vẽ màu quấn ba vòng (?)[34], đủ ngọc bích, mác, kiếm, vạc, trống, hồ lạm, gấm thêu, lụa trắng, dây trắng buộc ở cổ ngựa, vạn bộ áo (?), xe ngựa, nữ nhạc đủ hết. Lại phải đắp đường tới huyệt, đắp nấm cao ngang gò núi, như vậy làm ngưng trệ công việc, tốn hao tiền của dân không biết bao nhiêu mà kể, vô ích như vậy đấy.
Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Cứ theo lời đó, dùng chính sách đó, ma chay hậu hĩ, để tang lâu mà quả thực làm cho nước nghèo hoá giàu, dân ít hoá đông, nguy hoá yên, loạn hoá trị, thì là việc nhân, việc nghĩa, là bổn phận của người con có hiếu, mà những người mưu tính [lợi] cho thiên hạ không thể không khuyến khích được; còn như theo lời đó, dùng chính sách đó, ma chay hậu hĩ, để tang lâu mà quả thực không làm cho nước nghèo hoá giàu, dân ít hoá đông, nguy hoá yên, loạn hoá trị, thì là việc phi nhân, phi nghĩa, trái với bổn phận của người con có hiếu, mà những người mưu tính [lợi] cho thiên hạ, không thể không ngăn cấm được.
Vậy mong cho nước giàu có hoá ra nghèo tệ, muốn cho dân đông mà hoá ra dân ít, muốn cho hình chính được yên mà hoá ra rất loạn, mong ngăn cấm nước lớn đánh nước nhỏ không được, muốn cầu xin Thượng Đế, quỉ thần ban phúc cho mà hoá ra bị hoạ. Trên thì khảo sát đạo Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ thấy ngược hẳn với đạo các vị đó; dưới thì khảo sát việc làm của Kiệt, Trụ, U, Lệ, thấy hợp với việc làm của họ. Xét vậy thì ma chay hậu hĩ, để tang lâu không phải là đạo cũng thánh vương thì tại sao các quân tử ở Trung Quốc [trỏ các nước đã văn minh sớm nhất thời đó như Chu, Lỗ, Tề, Tống…, các nước chung quanh còn lạc hậu], lại theo hoài mà không bỏ? Thầy Mặc tử đáp: “Đó là thuận theo thói quen lâu rồi cho là một tục nên giữ”.
Xưa, phía Đông nước Việt, có nước… Mộc[35]: nước đó sanh con đầu lòng thì làm thịt mà ăn, bảo như vậy lợi cho những đứa sau; ông chết thì cõng bà bỏ [trong rừng], bảo: “Vợ của quỉ không thể sống với người trong nhà được”. Hành động đó, người trên coi là phép tắc, người dưới coi là tục [lệ] nên theo hoài mà không bỏ. Phía Nam nước Sở có nước Đạm, cha mẹ chết thì lóc thịt liệng đi, còn xương đem chôn, như vậy mới là con có hiếu. Phía Tây nước Tần có nước Nghi Cừ, cha mẹ chết thì chất củi lên mà thiêu, khói bay lên bảo là cha mẹ “lên tiên”, như vậy mới là con có hiếu. Những hành động đó, người trên coi là phép tắc, người dưới coi là tục lệ nên theo hoài mà không bỏ, chứ đâu có thực là đạo nhân nghĩa? Như vậy là thuận với thói quen, lâu rồi cho là tục nên giữ. Xét việc chôn cất của ba nước đó thì là rất bạc, mà xét tục chôn cất của các bậc quân tử ở Trung Quốc thì rất hậu. Đây là rất hậu thì kia là rất bạc, như vậy là việc chôn cất tất có cái mức vừa phải, [không hậu, không bạc]. Việc ăn mặc là việc ích lợi cho người sống, mà còn có tiết độ; sao duy việc chôn cất là việc ích lợi cho người chết lại không có tiết độ?
Thầy Mặc tử đặt ra phép chôn cất, bảo: “Quan tài dày ba tấc đủ để xương nát ra, áo liệm ba bộ đủ để thịt nát ra; đào huyệt đủ sâu sao cho dưới không nứt lộ ra, trên không xông hơi thối lên được; đắp nấm sao cho đủ nhận ra được mộ, thế thôi. Khóc khi đưa ma về, và rồi tính sự ăn mặc hằng ngày trong nhà, còn dư nhiều hay ít mà lo việc tế tự cho tiện lợi, như vậy là rất có hiếu với cha mẹ”. Cho nên tôi bảo phép của thầy Mặc tử lợi cho cả người chết lẫn người sống là thế.
Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Bậc sĩ quân tử ngày nay nếu thực tâm muốn làm điều nhân nghĩa, muốn được là bậc “thượng sĩ”[36], muốn trên hợp với đạo của thánh vương, dưới hợp với cái lợi của quốc gia, trăm họ, thì nên theo chính sách tiết giảm việc ma chay mà không thể không xét việc đó”.
PHI NHẠC (thượng)
(Chê nhạc)
Thầy Mặc tử bảo: Người dân làm việc gì tất là mong được có lợi, trừ cái hại cho thiên hạ: cái gì lợi cho người thì làm, không lợi thì ngưng. Họ mưu tính cho thiên hạ không phải để cho thiên hạ đẹp mắt, vui tai, ngon miệng, yên [êm ái] thân thể: những cái đó tốn kém, cướp mất cái ăn cái mặc của người dân, nên họ không làm.
Thầy Mặc tử sở dĩ chê nhạc không phải là vì cho những tiếng chuông lớn, trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, tiếng sáo dọc sáo ngang là không vui; không phải là cho những đồ chạm khắc, văn vẻ, màu mè là không đẹp; không phải là cho những những món thịt bò, thịt dê, thịt heo xào nướng là không ngon; không phải là cho các đài cao, tạ[37] lớn, nhà sâu là không yên.Tuy thân thể biết là yên đấy; nhưng trên đem ra khảo sát thì thấy không hợp với việc làm của thánh vương; dưới đem ra suy tính thì không hợp với cái lợi của dân, vì vậy mà thầy Mặc tử bảo âm nhạc là đáng chê.
Nay các bậc vương công đại nhân chế tạo nhạc khí để dùng trong nước, đâu phải cứ việc vốc nước, moi đất lên [ý nói không tốn kém gì cả] mà làm nên được; tất phải nhờ sự đóng góp nhiều của vạn dân rồi mới có tiếng chuông lớn, trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, tiếng sáo dọc sáo ngang. Như việc thánh vương đóng thuyền và xe thì tôi không dám chê. Xưa kia, các bậc thánh vương cũng đã từng bắt dân đóng góp nhiều để đóng thuyền và xe; đóng xong rồi bảo: “Ta đem dùng nó làm gì đây?” Đáp: “Thuyền dùng trên nước, xe dùng trên bộ, để cho người quân tử [tức nhà cầm quyền] đỡ mỏi chân, kẻ tiểu nhân [tức dân thường] đỡ phải khiêng, vác”. Vì vậy dân chúng bỏ của cải ra để đóng thuyền và xe, không dám buồn tiếc. Tại sao vậy? Tại thuyền và xe có lợi lớn cho dân. Nếu nhạc khí cũng có lợi cho dân như vậy thì tôi không dám chê mà còn dùng nữa.
Dân có ba điều lo: đói không có gì ăn, lạnh không có gì mặc, mệt không được nghỉ. Ba cái đó là những điều lo lớn của dân. Thử gõ cái chuông lớn, đập cái trống kêu, gảy cây đàn cầm, đàn sắt, thổi ống sáo dọc, sáo ngang, cầm cái rìu, cái mộc mà múa xem, như vậy có sinh ra được cái ăn, cái mặc cho dân không? Tôi cho là không được.
Hãy bỏ việc đó đi, không bàn, mà xét việc này: nay một nước lớn đánh nước nhỏ, một nhà lớn đánh nhà nhỏ, kẻ mạnh cướp người yếu, số đông hiếp đáp số ít, kẻ xảo trá lừa gạt kẻ ngu, kẻ sang ngạo mạn người hèn, giặc giã, trộm cướp trong ngoài đều dấy lên, không ngăn cấm được. Thử gõ cái chuông lớn, đập cái trống kêu, gảy cây đàn cầm đàn sắt, thổi ống sáo dọc sáo ngang, cầm cái rìu cái mộc mà múa xem, như vậy có làm cho thiên hạ đương loạn hoá trị được không? Tôi cho là không được.
Cho nên thầy Mặc tử bảo: Bắt dân chúng đóng góp nhiều để tạo ra những tiếng chuông lớn, tiếng trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, tiếng sáo dọc sáo ngang, mà mong dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì thật là vô ích. Vì vậy thầy Mặc tử bảo: âm nhạc là đáng chê.
Các vương công đại nhân ngồi trên đài cao, tạ lớn mà nhìn cái chuông [chỉ treo đó mà không đánh] thì cũng không khác gì nhìn cái khuôn bằng đất để đúc vạc, không gõ, đánh lên làm sao mà vui được? Cho nên phải gõ, đánh, mà gõ đánh tất không thể sai người già và con nít[38] được vì người già và con nít tai mắt không sáng, chân tay không mạnh, thanh âm không hoà điệu, mặt mày không lanh lợi. Cho nên tất phải sai bọn tráng niên vì tai mắt họ sáng, chân tay họ mạnh, thanh âm họ hoà điệu, mặt mày họ lanh lợi. Nếu sai đàn ông làm việc ấy thì họ tất phải bỏ việc cày cấy trồng trọt; sai đàn bà làm việc ấy thì họ tất phải bỏ bê việc đánh sợi, dệt vải. [Thế là] các vương công đại nhân vì vui mà làm tổn hại, cướp mất cái ăn cái mặc của dân để tấu nhạc, như vậy nhiều lắm. Cho nên thầy Mặc tử bảo: âm nhạc là đáng chê.
Đã có đủ tiếng chuông lớn, trống kêu, tiếng đàn cầm đàn sắt, sáo dọc sáo ngang, mà vương công đại nhân vò võ nghe một mình thì còn thú gì nữa? Tất phải có hoặc kẻ tiện nhân hoặc người quân tử cùng nghe với mình. Nếu bắt người quân tử [người trị dân] cùng nghe thì người đó phải bỏ công việc xử án, trị nước; nếu bắt kẻ tiện nhân [thường dân] nghe thì người đó bỏ công việc làm ăn. [Thế là] các vương công đại nhân vì vui mà làm tổn hại, cướp mất cái ăn cái mặc của dân để tấu nhạc, như vậy nhiều lắm. Cho nên thầy Mặc tử bảo: âm nhạc là đáng chê.
Xưa vua Tề Khang công đặt ra điệu “nhạc vũ” [một điệu vũ theo tiếng nhạc], người múa không thể mặc áo vải cụt [khi làm lụng] để múa, không thể ăn cơm hẩm được, vì không ăn đồ ăn ngon thì mặt mày dung nhan coi sao được, không mặc áo đẹp thì thân thể cử động [múa may] coi sao được. Cho nên ăn phải có gạo ngon, có thịt béo, mặc phải đồ thiêu đẹp đẽ; thế là không sản xuất cái ăn cái mặc mà còn bắt người ta nuôi. Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Các vương công đại nhân làm tổn hại, cướp mất cái ăn, cái mặc của dân để tấu nhạc, như vậy nhiều lắm”. Cho nên thầy Mặc tử bảo: âm nhạc là đáng chê.
Loài người khác với loài cầm thú, hươu nai, chim bay, sâu bọ[39]. Những loài có lông vũ [lông loài cầm], lông mao [lông loài thú] để che thân như áo mỏng, áo dầy; có móng vuốt để che chân như giày ống, dép; chúng uống nước, ăn cỏ; cho nên con đực không phải cày cấy, trồng trọt, con cái không phải kéo sợi dệt vải, vì có sẵn cái ăn cái mặc rồi.
Loài người khác vậy: phải trông vào sức lao động mới sống được, nếu không thì chết. Người quân tử không gắng lo việc xử án, trị nước thì hình chính sẽ loạn, thường dân không gắng lo làm ăn thì không đủ tiêu xài.
Các bậc sĩ quân tử trong thiên hạ cho lời tôi là sai chăng? Nếu vậy thử xem vài phận sự trong thiên hạ xét xem ảnh hưởng tai hại của nhạc ra sao. Các vương công đại nhân, sáng vô triều, chiều mới về, xử án và trị nước, đó là phận sự của họ. Các sĩ quân tử tận lực dùng tay chân và trí óc để suy tư, ở trong thì trông coi các kho lẫm của nhà nước, ngoài thì thu cái lợi [tức thuế] ở cửa quan, ở chợ, cái lợi của rừng núi, chằm, cầu, để cho kho lẫm được đầy, đó là phận sự của họ. Nông dân sáng ra ngoài ruộng, chiều tối về, cày cấy trồng trọt, để thu được đậu, lúa, đó là phận sự của họ[40]. Đàn bà thức khuya dậy sớm để đánh sợi, kéo tơ dệt lụa, đó là phận sự của họ. Nếu các vương công đại nhân ham nghe nhạc thì tất không thể sáng sớm vô triều, chiều mới về, xử án trị nước, như vậy nước nhà sẽ loạn, xã tắc sẽ nguy. Các quân tử ham nghe nhạc tất không thể tận lực dùng tay chân và trí óc để suy tư, ở trong thì điều các nha, trông coi các kho, ngoài thì thu cái lợi ở cửa quan, ở chợ, cái lợi của rừng núi, chằm, cầu, để cho kho lẫm được đầy, như vậy thì kho lẫm không đầy. Nông dân ham nghe nhạc tất không thể sáng ra ngoài ruộng, chiều tối về, cày cấy trồng trọt để thu được đậu, lúa; như vậy thì đậu lúa sẽ không nhiều. Đàn bà ham nghe nhạc thì tất không thể thức khuya dậy sớm để đánh sợi, kéo tơ dệt vải và lụa; như thế thì việc dệt vải, lụa sẽ không thịnh.
Hỏi: Cái gì làm cho đại nhân bỏ bê việc xử án trị nước, làm cho dân thường bỏ bê công việc? Đáp: Âm nhạc. Cho nên thầy Mặc tử bảo: âm nhạc là đáng chê.
Làm sao biết được như vậy? Đáp: Sách của tiên vương, thiên Quan hình của vua Thang chép: “Kẻ nào thường hay múa ở cung thì là có thói đồng bóng. Hình phạt như sau: quân tử phải nộp hai bó (?) tơ; thường dân nộp gấp hai số lụa (?)”[41]. Lại chép: “Ô hô! Điệu múa đẹp đẽ, tiếng sáo rõ ràng nhưng Thượng Đế không giúp thì chín châu[42] sẽ mất. Thượng Đế không ưa, giáng trăm tai ương thì nhà cửa sẽ tang hoang”. Xét vậy thì chín châu sở dĩ mất, chỉ do thích luyện âm nhạc. Thiên Vũ Quan[43] chép: [Trước không có], nay người ta chế tạo ra cái thói dâm dật vui chơi, ăn uống ở ngoài đồng[44]; du dương véo von, tiếng sáo tiếng khánh cùng trổi, đắm mê vì rượu, ăn uống thô tục ở ngoài đồng, múa may phóng túng, Trời hay cho là không phải phép”. Cho nên trên thì Trời và quỉ thần chê mắng, dưới thì không có lợi cho dân.
Cho nên thầy Mặc tử bảo: “Các sĩ quân tử trong thiên hạ ngày nay nếu thực tâm dấy cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ thì không thể không cấm chỉ âm nhạc được”.
CANH TRỤ
1- Thầy Mặc tử rầy Canh Trụ tử [vì không làm vừa ý một việc], Canh Trụ tử đáp: “Con không hơn người khác sao?” Thầy Mặc tử bảo: “Ta muốn lên núi Thái Hàng, có một xe thắng ngựa kí [loài ngựa giỏi] với một xe thắng cừu, thì anh đánh xe nào?” Canh Trụ đáp: “Đánh xe thắng con ngựa kí” – “Tại sao vậy?” – “Tại con ngựa kí mới đủ sức leo núi”. Thầy Mặc tử bảo: “Ta cũng cho là anh có đủ sức làm việc đó”.
2- Vu Mã tử hỏi thầy Mặc tử: “Quỉ thần với thánh nhân ai sáng suốt hơn?” Thầy Mặc tử đáp: “Quỉ thần sáng suốt hơn thánh nhân, cũng như người sáng tai, sáng mắt so với người điếc, người đui”.
Xưa vua nhà Hạ là ông Khải[45] sai Phi Liêm đào quặng đồng trong núi để đúc vạc ở Côn Ngô[46], và bảo ông Bá Ích nướng mai rùa Bạch Khổ để bói[47]. Khi bói, ông Bá ích khấn: “[Xin phù hộ cho] vạc đúc xong, vuông vức có bốn chân, không đốt lửa mà nấu chín được thức ăn, không nâng lên mà nó tự cất đi được, không dời đi mà nó tự di chuyển được, để cúng tế ở gò Côn Ngô. Xin quỉ thần về hưởng!” Bói rồi lại cho biết ý nghĩ của quỉ: “Quỉ thần hưởng đây! Ùn ùn mây trắng, một ở phương Đông, một ở phương Tây, một ở phương Nam, một ở phương Bắc. Chín vạc đã xong, dời về ba nước[48]”. Nhà Hạ để mất chúng, nhà Ân nhận lấy; rồi nhà Ân lại để mất, nhà Chu nhận lấy. Ba nhà Hạ, Ân, Chu đó truyền lại cho nhau, được mấy trăm năm. Dù thánh nhân có tụ họp các bề tôi giỏi, các tướng quốc tài trí cũng không sao biết được việc mấy trăm năm sau, thế mà quỉ thần biết đấy. Cho nên bảo: “Quỉ thần sáng suốt hơn thánh nhân, cũng như người sáng tai sáng mắt so với người điếc, người đui”.
3- Trị Đồ Ngu và Huyền Tử Thạc hỏi thầy Mặc tử: “Làm việc nghĩa thì việc gì quan trọng?” Thầy Mặc tử đáp: “Cũng ví như đắp thường vậy. Người nào biết đắp thì đắp, người nào biết khuân đất thì khuân, người nào biết trông nom, tính toán thì trông nom, tính toán, như vậy thì tường sẽ đắp xong. Làm việc nghĩa thì cũng thế: ai đàm biện được thì đàm biện, ai giảng sách được thì giảng sách, ai thực hành được thì thực hành, như vậy thì việc nghĩa sẽ làm xong”.
4- Vu Mã tử bảo thầy Mặc tử: “Thầy gồm yêu thiên hạ mà chưa thấy có lợi gì cho thiên hạ, tôi không yêu thiên hạ mà chưa thấy có hại gì cho thiên hạ. Chưa thấy kết quả, sao thầy đã tự cho mình là phải mà chê tôi?”
Thầy Mặc tử đáp: “Nay có người nổi lửa lên, một người xách nước lại tưới cho tắt, một người thêm lửa vào, kết quả chưa thấy, nhưng ông quí người nào?” Đáp: “Tôi quí cái ý muốn của người xách nước tưới và chê cái ý muốn của người thêm lửa vào”. Thầy Mặc tử bảo: “Tôi cũng cho ý muốn của tôi là phải mà chê ý muốn của ông”.
5- Thầy Mặc tử lại nước Kinh [tức Sở]. Lúc ấy Canh Trụ tử đương [làm quan] ở Sở. Vài môn sinh của thầy Mặc tử lại nhà Canh Trụ tử, Canh Trụ tử cấp cho ba thăng lúa, tiếp đãi không lấy làm hậu. Những môn sinh ấy về, thưa với thầy Mặc tử: “Anh Canh Trụ tử thật là vô ích. Mấy đứa con lại nhà anh ấy, ảnh cấp cho ba thăng lúa, tiếp đãi không lấy gì làm hậu”.Thầy Mặc tử bảo: “Chưa biết được [hãy đợi xem]”.
Không bao lâu, Canh Trụ tử đem tặng thầy Mặc tử mười dật vàng[49], thưa: “Con không dám mang tội chết; xin dâng thầy mười dật vàng để thầy tiêu”. Thầy Mặc tử bảo: “Ta nói có sai đâu, hãy đợi xem mà”.
6- Vu Mã tử nói với thầy Mặc tử: “Thầy làm việc nghĩa, tôi chưa thấy ai phục thầy, cũng chưa thấy quỉ thần ban phúc cho thầy, mà thầy cứ vẫn cứ làm như vậy thì thầy mắc tật khùng rồi”. Thầy Mặc tử bảo: “Ví dụ ông có hai người bề tôi [người giúp việc], một người trước mặt ông thì làm việc, vắng mặt ông thì không làm, còn người kia dù có mặt hay vắng mặt ông cũng làm, thì ông quí người nào?”
Vu Mã tử đáp: “Tôi quí người dù có mặt tôi hay vắng mặt tôi cũng làm việc”.
Thầy Mặc tử bảo: “Vậy là ông quí người mắc tật khùng rồi”.
7- Học trò của Tử Hạ hỏi thầy Mặc tử: “Người quân tử có tranh nhau không?” Thầy Mặc tử đáp: “Không”. Học trò Tử Hạ bảo: “Chó, heo kia còn tranh nhau, sao kẻ sĩ lại không tranh nhau?”
Thầy Mặc tử đáp: “Đáng thương thế! Hễ nói thì học đòi vua Thang, vua Văn, mà hành động thì lại ví mình với heo, chó. Đáng thương thay!”.
8- Vu Mã tử bảo thầy Mặc tử: “Bỏ người ngày nay mà khen các thánh vương đời xưa, tức là khen cái bộ xương khô, không khác gì người thợ mộc chỉ thích dùng gỗ khô chứ không dùng gỗ tươi”.
Thầy Mặc tử đáp: “Thiên hạ nhờ đạo giáo của các thánh vương đời xưa mà sống, khen các vị đó tức là quí cái khiến cho thiên hạ sống. Đáng khen mà không khen, như vậy có phải là người nhân không?”
9- Thầy Mặc tử nói: “Ngọc họ Hoà và hạt châu của Tuỳ hầu[50], với chín cái vạc, các vua chư hầu đều cho là bảo vật; mà những cái đó có thể làm cho nước giàu, dân đông, việc hình chính được trị, xã tắc được yên không? Không. Sở dĩ quí bảo vật vì nó có lợi. Mà ngọc họ Hoà, hạt châu của Tuỳ hầu và chín cái vạc không ích lợi gì cho ai, vậy chúng không phải là bảo vật. Nay dùng nghĩa mà trị dân thì nước sẽ giàu, dân sẽ đông, việc hình chính sẽ trị, xã tắc sẽ yên. Sở dĩ quí bảo vật là vì nó làm lợi cho dân được, mà điều nghĩa làm lợi dân được, cho nên bảo: “Điều nghĩa là bảo vật trong thiên hạ”.
10- Diệp công Tử Cao[51] hỏi Trọng Ni [Khổng tử] về chính trị: “Như thế nào thì giỏi về chính trị?” Trọng Ni đáp: “Giỏi về chính trị thì làm cho người ở xa lại gần [qui phục] mình, cái gì cũ thì sửa cho mới”.
Thầy Mặc tử nghe được chuyện đó, bảo: “Diệp công Tử Cao chưa biết cách hỏi mà Trọng Ni cũng chưa biết cách đáp. Diệp công Tử Cao há không biết rằng giỏi về chính trị thì làm sao cho người ở xa lại gần mình và cái gì cũ thì sửa lại cho mới ư? Ông ta hỏi là muốn biết phải làm sao để được như vậy. Còn Trọng Ni không chỉ cho ông ấy điều ông ấy không biết mà lại chỉ cho ông ấy điều ông ấy biết rồi. Cho nên [tôi bảo] Diệp công Tử Cao chưa biết cách hỏi mà Trọng Ni chưa biết cách đáp”.
11- Thầy Mặc tử bảo Lỗ Dương Văn Quân[52]: “Nước lớn đánh nước nhỏ thì cũng như đứa trẻ giả làm ngựa, chỉ mệt chân nó thôi. Nước lớn đánh nước nhỏ, thì nước bị tấn công sẽ cố thủ, nông phu sẽ không được cày ruộng, đàn bà không được dệt vải, mà nước tấn công phải lo đánh chiếm, nông phu cũng không được cày ruộng, đàn bà cũng không được dệt vải. Cho nên người lớn đánh nước nhỏ cũng như đứa trẻ giả làm ngựa vậy”.
12- (Bỏ vì bài này y hệt bài 5 thiên Quí Nghĩa).
13- Thầy Mặc tử sai Quản Kiềm Ngao đưa Cao Thạch tử[53] qua Vệ [và đề cao Cao Thạch tử để vua Vệ dùng Cao Thạch tử]. Vua Vệ cho Cao làm quan khanh, đãi lộc rất hậu. Cao ba lần vào chầu, đều nói hết những điều mình muốn nói, nhưng không điều nào được thi hành cả. Cao bỏ đi, qua Tề, thưa với thầy Mặc tử:
- Vua Vệ vì thầy mà cho con làm quan khanh, đãi lộc rất hậu. Con ba lần vào chầu, nói hết những điều con muốn nói nhưng không điều nào được thi hành cả, vì vậy mà con bỏ đi. Vu