← Quay lại trang sách

Chương 3 DẠY HỌC VÀ VIẾT SÁCH

Chắc Mạnh tử dạy học non nửa thế kỉ từ khi chưa đầy bốn mươi tuổi, (vì hồi bốn mươi tuổi ông đã nổi danh và có một đám đông môn sinh) cho tới khi chết (83 tuổi). Trong khi hoạt động chính trị, đi đâu ông cũng dắt theo hàng trăm đệ tử và tiếp tục dạy họ.

Số học trò, sử không chép là bao nhiêu, nhưng chắc đông, trước sau ít nhất cũng trên số ngàn.

Trong bộ Mạnh Tử, chúng ta thấy tên của trên mười người và theo Trần Trọng Kim trong Nho giáo quyển thượng, thì có ba người giữ được ít nhiều truyền thống của thầy: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu và Vạn Chương. Trong ba người này, chỉ Nhạc Chính Khắc được ông khen một lần là người thiện và tín, nghĩa là người hành vi, nhân phẩm đáng yêu, làm điều thiện theo lương tâm, không dối trá. (Tận Tâm- hạ - bài 25)[1].

Nhưng Nhạc Chính tử cũng bị ông mắng hai lần, một lần vì đến nước Tề, không lại thăm ông ngay, lo sắp đặt chỗ ở rồi mấy ngày sau mới tới (Li lâu, thượng - bài 24); một lần nữa không hiểu nguyên do ra sao mà ông bảo Nhạc Chính tử lấy việc ăn uống làm trọng (Li Lâu, thượng - bài 25).

Công Tôn Sửu, không có gì đặc biệt, cơ hồ không hiểu chí hướng của thầy nữa, có lần hỏi thầy, nếu được quyền cao chức trọng ở Tề thì có phục hưng được công nghiệp của Quản Trọng không, không biết rằng Mạnh tử chê Quản Trọng là đê hèn (Công tôn Sửu, thượng - bài I).

Vạn Chương chắc là người hiếu học, hay suy nghĩ, thắc mắc về hành động của cổ nhân, ý nghĩa trong kinh, sách, như khi hỏi thầy rằng Tượng (em vua Thuấn) là người tàn bạo, mà sao vua Thuấn không trị tội, còn phong đất cho nữa (Vạn Chương, thượng - bài 3) hoặc khi hỏi vua Nghiêu sao lại đem thiên hạ cho vua Thuấn, có ý như trách vua Nghiêu làm một việc trái phép (Vạn Chương, thượng - bài 5).

Ngoài ba người đó ra, bộ Mạnh Tử còn chép thêm những tên Công Đô tử, Từ Tịch, Bành Canh, Di Chi, Trần Đại, Trần Trăn v.v... [2] Trần Trăn cũng tựa như Tử Lộ (môn đệ của Khổng tử), trực ngôn, thấy hành động của thầy có điều gì khó hiểu, đáng ngờ thì hỏi liền, như trong bài 3, chương Công Tôn Sửu, hạ, ông thắc mắc về điểm tại sao có lần vua Tề tặng Mạnh tử một trăm dật vàng, Mạnh Tử không nhận; rồi sau Mạnh tử lại nhận bảy chục dật vàng của vua Tống, năm chục dật của vua Tiết, như vậy: “Nếu ngày trước thầy chẳng nhận vàng là phải, thì sau nhận vàng tất là không phải; hoặc nếu sau là phải thì trước là không phải; trong hai điều đó, thế nào thầy cũng phạm một điều không phải”. Mạnh tử đáp:

- Ba lần ấy thầy đều phải cả. Hồi ở nước Tống, thầy sắp đi xa, vua Tống xin dâng ít lễ vật để thầy lên đường, lẽ nào thầy không nhận? Hồi ở nước Tiết, vì có người muốn hại thầy, vua Tiết tặng thầy vàng trả công cho quân lính bảo vệ, hộ tống thầy, như vậy lẽ nào thầy không nhận? Còn hồi ở Tề, thầy không có việc gì cần tới tiền, vua Tề tặng thầy vàng là có ý mua chuộc dụ dỗ thầy; người quân tử đâu lại để cho người ta dùng tiền mà mua chuộc mình được?

Mạnh Tử về già chỉ tìm cái vui trong việc dạy học, trong bài 20, chương Tận Tâm thượng, ông bảo:

- Người quân tử có ba điều vui, mà làm bậc vua cai trị thiên hạ không phải là một trong những cái vui ấy.

Cha mẹ còn mạnh khỏe, anh em chẳng hề gì, đó là điều vui thứ nhất. Trông lên chẳng hổ với trời, nhìn xuống chẳng thẹn với người, đó là điều vui thứ nhì. Được bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ, đó là điều vui thứ ba. (Quân tử hữu tam lạc, nhi vương thiên hạ bất dự tồn yên. Phụ mẫu câu tồn, huynh đệ vô cố, nhất lạc dã. Ngưỡng bất quí ư thiên, phủ bất tạc ư nhân, nhị lạc dã. Đắc thiên địa anh tài nhi giáo dục chi, tam lạc dã).

君子有三樂,而王天下不與存焉。父母俱存,兄弟無故,一樂也;仰不愧於天,俯不怍於人,二樂也。得天下英才而教育之,三樂也。

Trong số cả ngàn môn sinh của ông, thế nào chẳng có một số anh tài, nhưng đọc bộ Mạnh Tử, ta không thấy đoạn nào cho ta tưởng tượng được cái vui giữa thầy trò, như khi ta đọc Luận ngữ. Những trang thú nhất trong Luận ngữ là những chỗ chép lời thầy trò họ Khổng tâm sự với nhau, nói đùa với nhau, những bài Khổng tử hỏi ý chí của mỗi môn đệ, khen hoặc chê họ, có khi mỉa mai, có khi rầy mắng họ, có khi thương tiếc họ hơn con ruột, khiến cho ta như trông thấy lớp học của ông, nét vui, nét buồn của ông, mà vừa quí ông vừa cảm động[3].

Chúng ta không thấy tình thân mật như cha con đó giữa thầy trò Mạnh tử. Có lẽ vì Mạnh tử nghiêm, không khoan hòa như Khổng tử mà hơi cách biệt với môn sinh. Hình như ông không yêu một môn sinh nào hơn những môn sinh khác, như Khổng tử yêu Nhan Hồi, và hình như môn sinh của ông cũng không có người nào đặc biệt xuất sắc về tài hoặc đức.

Vậy thì cái vui dạy học của ông không sao so sánh được với cái vui của Không tử. Ông không gây được tình thắm thiết trong lòng môn đệ, môn đệ ông không ai ngưỡng mộ ông như Nhan Hồi, Tử Cống... ngưỡng mộ Khổng tử; sử sách cũng không chép khi ông mất, lòng môn sinh thương tiếc ông ra sao.

Có thể như vậy, mà cũng có thể rằng bộ Mạnh Tử do chính ông và môn sinh ông viết, nên những chuyện tâm tình giữa thầy trò không tiện chép ra chăng? Những lời thầy khen trò, trò ngưỡng mộ thầy cũng không tiện ghi lại chăng? Bộ Luận ngữ trái lại, do môn sinh hoặc môn sinh của môn sinh viết sau khi Khổng tử mất đã lâu, mà lúc đó, lòng kính mộ, nhớ tiếc thầy mới thực dào dạt, tự nhiên, cho nên cả những chi tiết vụn vặt cũng ghi hết, mà chính những chi tiết này mới làm cho lời văn linh động và cảm động.

*

* *

Cách Mạnh tử dạy học cũng không có gì đặc biệt, hoặc không được chép kỹ lưỡng. Cả bộ chỉ có chương Tận Tâm thượng là lưu lại được dăm ba bài về những lời chỉ dẫn môn sinh trong việc học.

Như bài 5 khuyên phải tìm hiểu và quan sát: “Làm việc mà không hiểu rõ tại sao mình làm như vậy, cứ theo thói quen mà không chịu quan sát, trọn đời theo đó mãi mà chẳng biết phải trái thế nào, hạng người như vậy rất nhiều”. (Hành chi nhi bất trứ yên, tập hĩ nhi bất sát yên, chung thân do chi nhi bất tri kì đạo giả, chúng dã).

行之而不著焉,習矣而不察焉,終身由之而不知其道者,眾也。

Tinh thần trong câu đó và câu “Tận tín thư tắc bất như vô thư”

盡信書則不如無書。(bài 3, chương Tận tâm, hạ)

chính là tinh thần của Descartes ở Pháp, thế kỉ XVII: bất kì một tin tưởng gì, một hành động gì cũng phải dùng lí trí để xét xem tại sao lại như vậy, làm như vậy có hợp lí không, chứ không lấy lẽ rằng cổ nhân đã nói vậy thì tất đúng, mọi người từ xưa tới nay đều làm như vậy, mình đã quen làm như vậy thì không nên sửa đổi cách làm nữa.

Bài 24 cũng chương đó khuyên học thì phải lập chí ở đạo, nhưng phải kiên nhẫn cho tới khi tâm hồn thấm nhuần đạo rồi tự nhiên biểu lộ ra ngoài (hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ) thì mới gọi là thành công. (Quân tử chi chí ư đạo dã, bất thành chương, bất đạt).

君子之志於道也,不成章,不達。

Bài 40 cùng chương, chỉ cách dạy đạo tùy hạng người:

- Hạng người nghe được đạo lí thì hiểu liền, sửa mình ngay, như cây cỏ gặp mưa phải thời.

- Hạng người vốn có đức rồi, nay phát huy thêm.

- Hạng người vốn có tài năng, nay bồi dưỡng thêm.

- Hạng người nhờ vấn đáp mà hiểu được đạo lí.

- Hạng người nhờ tự học (không trực tiếp học một thầy nào, chỉ gián tiếp nghe lời giảng truyền, hoặc đọc sách cổ nhân) mà đạt đạo.

Bài 16, chương Cáo Tử hạ, còn chỉ một cách dạy nữa. Ông bảo khi ông cự tuyệt không dạy một người nào thì đó cũng là một cách dạy. (Dư bất tiết chi, giáo hối dã giả, thị diệc giáo hối chi nhi dĩ hĩ).

予不屑之,教誨也者,是亦教誨之而已矣。

Trở lên trên là sự nghiệp dạy học của Mạnh tử, về sự nghiệp trứ thư, Sử kí của Tư Mã Thiên bảo về già ông trở về quê, cùng môn sinh là bọn Vạn Chương viết bộ Mạnh Tử.

Thuyết ấy, người đời sau bàn tán rất nhiều. Đại khái có ba chủ trương:

- Hàn Dũ đời Đường bác bỏ, bảo Mạnh tử không viết mà chỉ có Vạn Chương và Công Tôn Sửu là cùng nhau viết.

- Tô Triệt đời Tống bênh vực thuyết của Tư Mã Thiên: Mạnh tử có viết.

- Chu Hi cũng đời Tống, lưng chừng, ngờ rằng do Mạnh tử viết nhưng không chắc, vì từ đầu tới cuối bộ, cùng một “thể”, tức như chúng ta nói cùng một bút pháp.

Thôi Thuật đời Thanh đưa ra ba lí do để bênh vực chủ trương của Hàn Dũ:

1- Trong sách có những chỗ chép sai, chẳng hạn như chỗ bảo Y Doãn năm lần lại vua Thang, năm lần lại vua Kiệt (Y Doãn ngũ tựu Thang, ngũ tựu Kiệt)[4], nếu là Mạnh tử viết thì không thể sai như vậy được.

2- Theo tục, chỉ khi chết rồi, người ta mới gọi tên thụy, mà trong Mạnh Tử, các vua như Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương, Lỗ Bình Công, Đằng Văn công... đều gọi theo tên thụy; không có lẽ khi Mạnh tử chép truyện các vua đó, họ đều đã chết cả.

3- Nếu Mạnh tử viết thì không có lẽ ông lại gọi các môn đệ của ông là “tử” (một tiếng tôn xưng), như: Nhạc Chính tử, Công Đô tử v.v...

Sau cùng Lương Khải Siêu trong cuốn Cổ thư chân ngụy cập kì niên đại bác các lí lẽ của Thôi Thuật, bảo:

1 - Mạnh Tử cũng có thể lầm lẫn được, mà bảo Y Doãn năm lần lại vua Thang, năm lần lại vua Kiệt. Chính các nhà chuyên nghiên cứu về sử còn lầm tay, huống hồ là Mạnh tử.

2.- Khảo sát kĩ lưỡng rồi thì những ông vua nào trong bộ Mạnh Tử gọi bằng tên thụy, quả thực đã chết trước Mạnh tử.

Rốt cuộc ông dung hòa các thuyết, kết luận rằng trong sách, Vạn Chương, Công Tôn Sửu, không gọi tên tự, còn các môn sinh khác đều gọi tên tự, vậy là do hai người đó viết; nhưng chắc Mạnh Tử đã duyệt lại. (Chư Tử khảo sách – La Căn Trạch).

Chúng tôi đoán rằng một phần nhỏ bộ Mạnh Tử do Vạn Chương, Công Tôn Sửu viết theo kí ức; một phần lớn hơn do Mạnh Tử kể cho họ chép lại (như các cuộc đàm thoại với Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương, Đằng Văn công...), sau cùng ông duyệt lại.

Ông nhớ tới đâu, kể tới đó, chép xong rồi mới sắp đặt lại qua loa, chứ không chú ý trình bày học thuyết của mình một cách có hệ thống, cho nên nội dung hơi lộn xộn.

Bộ Mạnh Tử dày gấp rưỡi bộ Luận ngữ, gồm 14 chương:

I. Lương Huệ vương, thượng.

II. Lương Huệ vương, hạ.

III. Công Tôn Sửu, thượng.

IV. Công Tôn Sửu, hạ.

V. Đằng Văn công, thượng.

VI. Đằng Văn công, hạ.

VII. Li Lâu, thượng.

VIII. Li Lâu, hạ.

IX. Vạn Chương, thượng.

X. Vạn Chương, hạ.

XI. Cáo tử, thượng.

XII. Cáo tử, hạ.

XIII. Tận Tâm, thượng.

XIV. Tận Tâm, hạ.

Nhan đề không luôn luôn hợp với nội dung:

Chương I gồm 7 bài thì 6 bài nói về Lương Huệ vương và con là Lương Tương vương; bài cuối, bài thứ 7, nói về Tề Tuyên vương.

Chương II gồm 16 bài, nhan đề là Lương Huệ vương, hạ, nhưng lại không nói gì tới Lương Huệ vương, mà nói về Tề Tuyên vương (nhiều nhất, 11 bài), Đằng Văn công (3 bài), Lỗ Mục công (1 bài) và Lỗ Bình công (1 bài). Mười lăm bài trên xét về cách trị dân, về nhân chính, bài cuối nói về việc chôn cất cha mẹ và mạng trời. Không hiểu tại sao ba bài về Đằng Văn công, không đưa xuống chương V; mà chương VI, nhan đề là Đằng Văn công, hạ, lại không có một lời về Đằng Văn công.

Nhan đề chương III, chỉ do bài thứ nhất bắt đầu bằng câu: Công tôn Sửu vấn viết...

Xét chung thì chương I, II và chương XI (bàn về tính thiện) tương đối nhất trí (nghĩa là có một vài điểm chính trong nội dung); còn những chương khác thì tạp và lộn xộn. Hai chương cuối XIII, XIV cơ hồ gom những tư tưởng, lời khuyên vụn, không biết đặt vào đâu.

Vì những lẽ đó, chúng tôi nghĩ rằng Mạnh tử không có ý trứ thư, nghĩa là trình bày học thuyết một cách có hệ thống ít nhiều, như Lão tử trước ông, hoặc như Trang tử, đồng thời với ông, như Tuân tử sinh sau ông khoảng bốn chục năm.

Ông là một triết gia rất có nhiệt huyết, ham cứu đời, tuy suy tư nhiều, có những tư tưởng mới mẻ, sâu sắc (coi các chương sau), nhưng bản tính vẫn là người hoạt động, thích chiến đấu, thích tranh biện.

Chú thích:

[1] Hai người kia cũng được ông mến, nhưng vì cùng với ông viết chung bộ Mạnh Tử nên không tiện ghi lại những lời thầy khen chăng?

[2] Theo trang http://tieba.baidu.com/p/1558072230 thì Nhạc Chính Khắc là người nước Lỗ, Công Tôn Sửu, Vạn Chương, Trần Trăn là người nước Tề, Công Đô tử (họ Công Đô, tên không rõ) nghi là người nước Sở. Một đệ tử nữa là Cao tử (xem chương 2 và chương 8): ông này là người nước Tề. (Godfish).

[3] Coi cuốn Nhà giáo họ Khổng của Nguyễn Hiến Lê - Cảo Thơm.

[4] Trong cuốn Mạnh Tử sự thực lục, do La Căn Trạch trích dẫn trong Chư Tử khảo sách – chúng tôi chưa tra được ở bài nào, chương nào trong Mạnh Tử.

[Nếu như tôi không hiểu lầm, thì mấy chữ “Y Doãn ngũ tựu Thang, ngũ tựu Kiệt” 伊尹五就湯,五就桀 là ở trong sách Quỉ Cốc tử 鬼谷子. (Theo http://baike.baidu.com/view/9417513.htm?fromTaglist). (Goldfish)].