Chương 4 MUỐN THÀNH MỘT Á THÁNH NỐI NGHIỆP KHỔNG TỬ
Hồi Khổng tử bị người đất Khuông, một ấp trong nước Vệ, thấy dung mạo ông, tưởng lầm là Dương Hổ - một gia thần họ Quí, tàn bạo, bị dân oán ghét - túa ra vây ông và toan hãm hại ông, ông nói với môn sinh:
- Vua Văn vương đã mất, lễ nhạc, chế độ của ngài chẳng truyền lại cho thầy đây ư? Nếu Trời muốn để mất lễ nhạc, chế độ ấy thì sao lại giao phó cho thầy? Đã giao phó cho thầy thì người đất Khuông làm gì được thầy? (Luận-ngữ - Tử Hãn, bài 5).
Sau người đất Khuông thấy mình lầm, xin lỗi ông và thả ông ra.
Lần khác, Khổng Tử than thở với đệ tử:
- Thầy đã suy lắm rồi! Đã lâu, thầy không mộng thấy ông Chu công. (Luận-ngữ - Thuật nhi, bài 5).
Văn vương tức là Tây Bá, diệt vua Trụ, dùng Lữ Vọng mà dựng nên nhà Chu, truyền ngôi lại cho con là Võ vương (1134 - 1115). Chu công là em Võ vương, giúp anh trong việc trị dân, định chế độ lễ nhạc và đặt ra nghi thức các việc quan, hôn, tang, tế.
Hai bài trên cho ta thấy Khổng tử có chí kế nghiệp Văn vương và Chu công, mà không được.
Nay Mạnh tử lại có chí kế nghiệp Khổng tử.
Bài 9, chương Đằng Văn công, hạ, ông bảo:
- Xưa ông Vũ (hiền thần của vua Nghiêu và vua Thuấn) trị nước lụt mà thiên hạ được thái bình, ông Chu công thu phục các rợ Di, Địch, đuổi các loài mãnh thú mà trăm họ được an ninh. Ông Khổng tử soạn xong bộ Xuân Thu mà bọn loạn thần, tặc tử sợ sệt. Ta cũng muốn chính nhân tâm, chặn tà thuyết, đánh đổ những tật xấu, trừ tuyệt những lời bậy bạ, để tiếp tục công nghiệp của ba vị thánh ấy.
Rồi ở cuối bộ, tức bài 38, chương Tận Tâm, hạ, ông còn nói rõ hơn nữa:
- Từ vua Nghiêu, vua Thuấn tới vua Thang là tên năm trăm năm[1], ông Vũ, ông Cao Dao (hiền thần của Nghiêu, Thuấn) được thấy tận mất vua Nghiêu, vua Thuấn và biết đạo lí hai ngài. Đến vua Thang thì nghe truyền tụng mà biết.
Từ vua Thang đến vua Văn vương là trên năm trăm năm[2], ông Y Doãn, ông Lai Châu (hiền thần vua Thang) được thấy tận mắt vua Thang mà biết đạo lí của ngài. Đến vua Văn vương thì được nghe truyền tụng mà biết.
Từ vua Văn vương đến Khổng tử, là trên năm trăm năm[3], Thái công Vọng (tức Lữ Vọng) và ông Tản Nghi Sanh (đều là hiền thần vua Văn vương) được thấy tận mắt vua Văn vương và biết đạo lí của ngài. Đến Khổng tử thì được nghe truyền tụng mà biết.
Từ Khổng tử tới nay là trên một trăm năm, như vậy là cách đời thánh nhân chưa xa gì, mà chỗ ở của ngài (tức nước Lỗ) lại rất gần[4], mà đã không còn ai thấy tận mắt ngài mà biết đạo lí của ngài thì (năm trăm năm về sau) cũng không có ai được nghe truyền tụng mà biết đạo của ngài nữa.
(Do Nghiêu, Thuấn chí ư Thang, ngũ bách hữu dư tuế, nhược Vũ, Cao Dao tắc kiến nhi tri chi, nhược Thang tắc văn nhi tri chi.
Do Thang chí ư Văn vương, ngũ bách hữu dư tuế, nhược Y Doãn, Lai Châu tắc kiến nhi tri chi, nhược Văn vương tắc văn nhi tri chi.
Do Văn vương chí ư Khổng Tử, ngũ bách hữu dư tuế, nhược Thái công Vọng, Tản Nghi Sanh tắc kiến nhi tri chi, nhược Khổng Tử tắc văn nhi tri chi.
Do Khổng Tử nhi lai chí ư kim, bách hữu dư tuế. Khứ thánh nhân chi thế, nhược thử kì vị viễn dã, cận thánh nhân chi cư, nhược thử kì thậm dã, nhiên nhi vô hữu hồ nhĩ, tắc diệt vô hữu hồ nhĩ).
Giọng thật buồn man mác! Đặt bài đó ở cuối bộ như một lời than thở, kêu gọi để kết thúc, quả là có ý nghĩa và khéo?
Mạnh tử thấy đương thời không có ai nối chí Khổng tử, lo rằng sau này mỗi ngày một xa thì đạo đó sẽ thất truyền mất, nên tự cho mình trách nhiệm kế nghiệp Khổng tử; cho nên bao sở nguyện của mình là theo đòi Không Tử (nãi sở nguyện tắc học Khổng tử dã - Công tôn Sửu: thượng - bài 2), lại bảo: như có ông vua nào muốn bình trị thiên hạ, thời này đây, không dùng ta thì dùng ai? (như dục bình trị thiên hạ, đương kim chi thế, xả ngã kì thùy dã? - Công Tôn Sửu hạ - bài 13). Vì vậy mà ông bôn ba các nước chư hầu hai chục năm, đả đảo các “tà thuyết” nghĩa là những học thuyết trái với đạo Khổng, rồi hồi sáu mươi tuổi thấy các vua chúa không ai biết dùng mình, ông về quê, dạy học, viết sách để truyền lại hậu thế học thuyết Khổng tử.
Cũng như Tăng tử, Tử Tư (và tất cả các Nho gia sau này), ông chỉ lãnh hội được một phần cái đạo rộng lớn của Khổng tử, nhưng phần đó ông đã phát huy được hơn hết thảy các nhà khác, đặc biệt là về mấy điểm sau đây:
1 - Khổng tử khuyên ta phải luyện đủ cả các đức: nhân (thuộc về tình cảm), trí (về trí tuệ) và dũng (về ý chí); lại nhấn mạnh vào lễ, nhạc, mà không nói tới nghĩa. Ông dùng nhân để tu dưỡng cá nhân thôi. Mạnh tử cho nhân một công dụng rộng hơn, đưa nó vào việc trị nước và chính sách xã hội, có thể nói ông là người đầu tiên giảng kỹ lưỡng về chế độ nhân chính (trị dân bằng đức nhân); ông đề cao “nghĩa”, cho nó luôn luôn đi kèm với “nhân”.
Ngay đầu bộ Mạnh Tử, ông đã bảo Lương Huệ vương đừng nên nói tới lợi, chỉ nên nói việc nhân nghĩa thôi. (Diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ). Bốn bài sau, bài 5 - Lương Huệ vương, thượng, ông nhắc lại: “Ông vua nhân đức thì vô địch, xin nhà vua (Huệ vương) đừng nghi ngờ điều đấy (Nhân giả vô địch, vương thỉnh vật nghi).
Bài 4, chương Tận tâm, hạ, ông lại nói: “Một ông vua mà thích làm điều nhân thì không ai địch nổi” (Quốc quân hiếu nhân, thiên hạ vô địch yên.)
Trong chương sau, chúng tôi sẽ trở lại chính sách nhân trị của ông.
2.- Khổng tử chỉ bảo “quân quân, thần thần”: vua giữ đạo vua thì bề tôi mới giữ đạo bề tôi mà nước mới trị. Ông ôn nhu; Mạnh tử gay gắt hơn, bảo thẳng vào mặt Tề Tuyên vương:
- Vua coi bề tôi như tay chân thì bề tôi sẽ coi vua như bụng dạ; vua coi bề tôi như chó ngựa thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường; vua coi bề tôi như đất cỏ, thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ thù, quân giặc.
(Quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm; quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc nhân; quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù - Li Lâu, hạ - bài 3).
君之視臣如手足,則臣視君如腹心;君之視臣如犬馬,則臣視君如國人;君之視臣如土芥,則臣視君如寇讎。
Nghĩa là bề tôi bị vua làm nhục thì có thể giết vua, mà giết một kẻ tàn bạo như vua Trụ thì không mang cái tội giết vua, không phải là giết vua, chỉ là giết một tên thất phu, một tội nhân thôi. Cho nên khi Tề Tuyên vương hỏi:
- Vua Thành Thang đuổi vua Kiệt, vua Võ vương đánh vua Trụ, có thật như vậy không?
Mạnh tử đáp:
- Trong sử sách có chép vậy.
Tuyên vương hỏi thêm:
- Bề tôi mà giết vua, có nên không?
Mạnh tử đáp:
- Kẻ làm hại đức nhân thì gọi là “tặc” (giặc), kẻ làm hại đức nghĩa thì gọi là “tàn” (tàn bạo). Kẻ tàn, kẻ tặc chỉ là một người thường thôi (không đáng gọi là vua). Tôi nghe nói vua Võ vương chỉ giết một người thường tên là Trụ chứ chưa nghe nói giết vua.
(Tặc nhân giả vị chi tặc, tặc nghĩa giả vị chi tàn; tàn tặc chi nhân, vị chi nhất phu. Văn tru nhất phu Trụ hĩ, vị văn thí quân dã) - Lương Huệ vương, hạ.
賊仁者謂之賊,賊義者謂之殘;殘賊之人,謂之一夫。聞誅一夫紂矣,未聞弒君也。
Vậy dân có thể giết vua, làm cách mạng. Về điểm đó Mạnh tử cũng tiến xa hơn Khổng tử.
Không tử chỉ đưa ra thuyết chính danh (vua mà không ra vua, tàn bạo với dân thì không đáng gọi là vua), chứ không hề nói đến việc có thể giết vua; ông viết bộ Xuân Thu cũng là để làm rõ cái nghĩa chính danh. Tư tưởng cách mạng của ông mới tiềm tàng, tới Mạnh tử mới phát ra mạnh mẽ, một phần cũng vì thời đã đổi, từ Khổng tử tới Mạnh tử trên trăm rưởi năm, hạng vua không ra vua nhiều quá mà việc thí quân cũng đã quá thường.
3.- Cũng do hoàn cảnh xã hội, thời Chiến Quốc dân chúng bị nhiều nỗi điêu đứng hơn thời Xuân Thu nên Mạnh tử phẫn uất, bênh vực dân hơn Khổng tử. Khổng tử tuy khuyên vua yêu dân, làm lợi cho dân thì tự nhiên dân phục; nhưng ông vẫn cho vua là chủ động, dân chỉ là bị động.
Mạnh tử tiến một bậc, bảo quí trọng nhất là dân, rồi tới xã tắc (đất đai), còn vua là khinh, cho nên có được lòng dân rồi mới làm thiên tử. (Dân vi quí xã tắc thứ chi, quân vi khinh; thị cố đắc hồ kì dân nhi vi thiên tử). - Tận tâm, hạ - bài 14. Vì trời muốn trao quyền cho ai là tùy theo ý dân (coi thêm chương sau). Điểm đó, Khổng tử cũng chưa hề nói.
4.- Từ Không Tử trở về trước, hai chữ vương, bá chỉ có nghĩa quyền hành, không có nghĩa đạo đức, như vua nhà Chu gọi là vương, Tề Hoàn công gọi là bá, vua các nước nhỏ hơn nữa gọi là hầu, như Lỗ hầu. Mạnh tử có lẽ là người đầu tiên phân biệt vương và bá về phương diện đạo đức, chứ không xét về phương diện thế lực: đất rộng, dân nhiều, binh mạnh mà không theo nhân trị, ông cũng chỉ gọi là bá thôi; đất hẹp, dân ít, binh yếu mà theo nhân trị, ông cũng gọi là vương.
Chương Công Tôn Sửu, thượng - bài 3, ông viết:
“Người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân là bá; người làm bá tất phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là vương: người làm vương không đợi có nước lớn” (Dĩ lực giả nhân giả bá, bá tất hữu đại quốc; dĩ đức hành nhân giả vương, vương bất đãi đại).
以力假仁者霸,霸必有大國;以德行仁者王,王不待大。
Ông nói tiếp: “Dùng sức mạnh mà thu phục người thì người ta (phải theo mình nhưng) không tâm phục mình, sức mạnh không đủ (để cho người ta tâm phục)[5]. Lấy đức thu phục người thì người ta vui lòng mà thành thực phục mình, như bảy mươi đệ tử phục Khổng tử”.
Do đó ông chê Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Án tử và Quản Trọng. Khi Công tôn Sửu hỏi ông nếu được cầm quyền ở Tề thì có thể phục hưng được công nghiệp của Án tử và Quản Trọng không (Quản trọng là một chính trị gia đại tài, giúp Tề Hoàn công dựng nên nghiệp bá; Án tử cũng giúp Tề Cảnh công khiến Tề nổi danh là thịnh trị), ông mắng ngay:
- Anh quả là người nước Tề, chỉ biết Quản Trọng và Án tử mà thôi (...) Khi có người hỏi Tăng Tây (cháu nội của Tăng tử): “Thầy với Quản Trọng ai hơn?” Tăng Tây bất bình, đáp: “Sao lại ví tôi với Quản Trọng? Quản Trọng được Tề Hoàn công tín cẩn chuyên dùng, cho cầm quyền lâu như vậy, mà sự nghiệp thấp kém như vậy. Sao lại ví tôi với ông ấy? (...) Làm cho nước Tề hưng vượng (như hai ông ấy) là việc dễ như trở bàn tay mà!” (Công Tôn Sửu, thượng - bài l).
Trong bài 7, Lương Huệ vương, thượng, khi Tề Tuyên vương xin ông kể cho nghe sự nghiệp của Tề Hoàn công, Tấn Văn công (cũng là một vị bá), ông đáp:
- Đệ tử của Trọng Ni (Khổng tử) không giảng về sự nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công. Vì vậy truyện của hai ông ấy không được truyền lại, mà tôi không được nghe. Thôi thì để tôi nói về việc dựng nghiệp vương, được không? (Trọng Ni chi đồ vô đạo Hoàn, Văn chi sự giả, thị dĩ hậu thế vô truyền yên, thần vị chi văn dã. Vô dĩ tắc vương hồ?) Mạnh tử đã nghiêm khắc hơn Khổng tử, ông không thèm nói đến truyện Tề Hoàn công và Quản Trọng, nhưng chính Khổng tử đã phục Hoàn công, khen Quản Trọng: “Hoàn công kết hợp chư hầu, không dùng tới binh xa (tức uy lực), đó là nhờ công của Quản Trọng, ai có được đức nhân của ông ấy (Quản Trọng), ai có được đức nhân của ông ấy?” (Luận ngữ - Hiến vấn - bài 17). Bài sau, 18, Khổng tử lại khen nữa: “Quản Trọng làm tướng quốc cho Hoàn công, giúp Hoàn công làm bá chư hầu, thiên hạ đương loạn hóa trị, đến nay dân chúng còn được hưởng ân đức của ông. Không có Quản Trọng thì chúng ta đã phải gióc tóc, cài áo qua bên trái như người man di rồi!”.
5.- Thời Chiến Quốc có một điểm tiến bộ hơn thời Xuân Thu: vì tranh đấu để tồn tại, các vua chư hầu phải dùng những người tài giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế, võ bị... bất kì trong giai cấp nào, nên địa vị của kẻ sĩ được thăng tiến, địa vị của hạng thế tộc giảm lần, các giai cấp được tương đối bình đẳng về pháp luật. Vệ Ưởng, đồng thời với Mạnh tử, khi cầm quyền nước Tần, sửa đổi pháp luật, bắt từ trên xuống dưới ai cũng phải theo. Lần đó thái tử phạm pháp, Vệ Ưởng bảo: nhân dân bình đẳng về pháp luật. Trong nước không nên có giai cấp khác nhau. Nhưng thái tử là người sau này sẽ nối ngôi vua, (tức Huệ Văn vương) không nên đem ra trị tội, mà sư phó lãnh trách nhiệm dạy thái tử phải chịu tội thay”.
Do không khí đó của thời đại, Mạnh tử cũng trọng phép công hơn Không tử. Luận-ngữ, chương Tử Lộ, bài 18 chép: “Diệp công có lần nói với Không tử:
- Ở xóm tôi, có người ngay thẳng rất mực: như cha ăn trộm dê thì con đứng ra làm chứng, khai thật.
Khổng tử đáp:
- Ở xóm tôi, người ngay thẳng cư xử có khác: cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha, như vậy vẫn là ngay thẳng”.
Cha con không nên tố cáo lẫn nhau, nhưng như vậy vẫn là tình riêng nặng hơn phép công, hợp tình chứ không hợp pháp. Cách xử sự của Mạnh tử hơi khác, trọng pháp công hơn, không bênh vực cha khi cha có lỗi.
Đào Ứng hỏi ông:
- Ông Thuấn làm thiên tử, ông Cao Dao coi bộ hình. Nếu cha ông Thuấn là Cổ Tẩu phạm tội giết người thì ông Cao Dao xử trí ra sao?
Mạnh tử đáp:
- Cứ theo pháp luật mà thi hành (nghĩa là phải xử tử).
- Vậy vua Thuấn không ngăn cản được sao?
- Kìa, vua Thuấn làm sao ngăn cản được? Pháp luật đã truyền lại thì phải thi hành chứ.
Đào Ứng lại hỏi nữa:
- Như thế thì vua Thuấn nên làm ra sao?
- Vua Thuấn sẽ coi thiên hạ như đôi dép rách (nghĩa là chẳng màng ngôi thiên tử), lén cõng cha mà chạy, ra bờ biển mà ở, trọn đời vui vẻ mà quên thiên hạ (ngôi báu) đi.
Giải quyết sự mâu thuẫn giữa tình riêng và phép công theo cách đó, tuy tiến bộ hơn Khổng tử, mặc dù ngày nay chúng ta vẫn chưa cho là ổn thỏa, nhưng chúng ta nên nhớ rằng đạo Khổng rất trọng chữ hiếu. Tằng tử còn coi nó là cội rễ của các đức khác nữa.
6.- Sau cùng Khổng tử rất ít nói đến tính, không giảng cho môn đệ về tính và tâm. (Lời Tử Cống: Phử tử chi ngôn tính (...) bất khả đắc nhi văn dã - Luận-Ngữ - Công Dã Tràng - bài 12). Mạnh tử trái lại, bàn rất nhiều về tâm và tính khí, mở đường cho các nhà nho đời Tống sau này. Có lẽ ông cũng chịu ảnh hưởng của Tử Tư, hơi quan tâm tới phần siêu hình học. Điểm đó là một phát huy lớn của Mạnh tử, chúng tôi sẽ xét riêng trong một chương sau.
*
Mạnh tử còn có công đả đảo các đạo khác mà ông gọi là tà thuyết, để bảo vệ đạo Khổng.
Như trên chúng tôi đã nói, thời Mạnh tử là thời “Bách hoa tề khai”, cả chục học thuyết phát ra như nấm gặp mưa cả trăm nhà đi thuyết phục các vua chư hầu theo chính sách của mình, mà chính sách của họ thường trái ngược nhau, khiến cho từ vua chúa tới dân chúng đều hoang mang. Vì vậy Mạnh tử tự cho có bổn phận bảo vệ đạo Khổng.
Trong bài 9, chương Đằng Văn công, hạ, một môn đệ là Công Đô tử hỏi Mạnh tử:
- Người ngoài ai cũng bảo rằng thầy ưa biện luận. Con xin hỏi thầy tại sao vậy?
Ông đáp:
- Thầy đâu có ưa biện luận. Chẳng qua là bất đắc dĩ đấy thôi (...). Thầy muốn sửa lại lòng người cho ngay, chặn tà thuyết, đánh đổ những nết bất chính, trừ tuyệt những lời bậy bạ, để tiếp tục công nghiệp của ba vị thánh (thời xưa: vua Vũ, ông Chu Công và Khổng tử). Thầy đâu có ưa biện luận. Chẳng qua là bất đắc dĩ đấy thôi. (Ngã (...) dục chính nhân tâm, tức tà thuyết, cự bí hạnh, phóng dâm từ, dĩ thừa tam thánh giả, khởi hiếu biện tai? Dư bất đắc dĩ dã).
Ông ghét nhất là học thuyết của Dương Chu và Mặc Địch, bảo ai mà đánh đổ được học thuyết của hai nhà đó thì đáng là môn đồ của thánh nhân (Khổng tử):
“Dương tử giữ chủ nghĩa vị ngã, dù nhổ một chiếc lông trên mình mà làm lợi cho thiên hạ thì cũng không chịu.
Mặc tử chủ trương thuyết kiêm ái, dù mòn tấm thân từ đầu tới gót chân mà có lợi cho thiên hạ thì cũng làm.”
Như vậy đều là cực đoan, chấp nhất, không chấp trung, quyền biến. Sự chấp nhất đáng ghét vì hại cho đạo, được một bề thì hỏng cả trăm bề. (Sở ố chấp nhất giả, vị kì tặc đạo dã, cử nhất nhi phế bách dã - Tận tâm, thượng - bài 26).
Bài 9, Đằng Văn công, hạ, giọng ông còn gay gắt hơn: “Ngày nay bậc thánh vương không ra đời, các vua chư hầu thì luông tuồng, mà hạng xử sĩ (kẻ sĩ không ra làm quan) thì bàn ngang luận càn. Học thuyết của Dương Chu và Mặc Địch lan tràn thiên hạ, khi bàn bạc người nào không theo Dương thì theo Mặc. Họ Dương vị ngã, như vậy là không có vua, họ Mặc kiêm ái, như vậy là không có cha. Không vua, không cha, tức là cầm thú”. (Thánh nhân bất tác, chư hầu phóng tứ, xử sĩ hoành nghị. Dương Chu, Mặc Địch chi ngôn doanh thiên hạ, thiên hạ chi ngôn bất qui Dương tắc qui Mặc. Dương thị vị ngã, thị vô quân dã; Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ dã. Vô phụ vô quân, thị cầm thú dã).
聖王不作,諸侯放恣,處士橫議,楊朱、墨翟之言盈天下,天下之言,不歸楊則歸墨。 楊氏爲我,是無君也;墨氏兼愛,是無父也。無父無君,是禽獸也。
Có lẽ Mạnh tử khinh môn đồ của Dương và Mặc, nên không tiếp xúc với họ. Một người theo đạo Mặc là Di Chi, muốn được yết kiến ông, ông từ chối. Chỉ dùng một môn sinh là Từ Tịch, làm trung gian để nhắn Di Chi và Di Chi nhắn lại ông thôi. Ông chê thuyết kiêm ái của đạo Mặc coi người thân và người dưng cũng như nhau, hỏi Di Chi có thể coi con của anh mình cũng thân như con hàng xóm không?
Trời sinh ra con người chỉ có một gốc (tức cha mẹ, dòng họ), mà Di Chi thì dường như có hai gốc (vì thương cha mẹ cũng như người dưng). Lầm lẫn ở chỗ đó. Và Di Chi bị ông thuyết phục, nhận rằng ông đã khai thông cho mình.
Di Chi có lẽ vào hạng tầm thường, không phải là đối thủ của ông, cuộc “tranh luận cách bức” ấy không gây cho ta chút hứng thú nào cả.
Mạnh tử cũng cay độc mạt sát bọn ẩn sĩ, sống khổ hạnh, môn đồ của Lão,Trang. Như trong bài 10 - Đằng Văn công, hạ, có người khen Trần Trọng tử là kẻ sĩ có đức liêm, ông bảo:
Trọng tử là dòng thế gia ở nước Tề. Anh ruột là Đái, cai trị đất Cáp, hưởng lộc một vạn chung thóc. Trọng tử chê lộc của anh là của bất nghĩa, không chịu ăn, chê dinh thất của anh là của bất nghĩa, không chịu ở, cho nên lánh anh, rời mẹ, ra ở đất Ô Lăng (mà sống khổ hạnh). Nhưng rồi một ngày nọ, Trọng tử về nhà anh, thấy một con ngỗng của ai biếu anh, bực mình về tiếng kêu “quạc quạc” của nó. Ít bữa sau, bà mẹ mổ thịt con ngỗng (không cho Trọng tử hay), dọn cho Trọng tử ăn. Đúng lúc đó, người anh từ ngoài đi vào, bảo: “Em ăn thịt con vật kêu quạc quạc đó”. Trọng tử vội chạy ra ngoài mửa ra hết.
Để kết luận, Mạnh tử mỉa: “Như Trọng tử, thức ăn của mẹ cho thì chẳng ăn, nhưng của vợ mua thì ăn. Dinh thất của anh thì không ở, nhưng nhà cửa ở Ô Lăng thì ở (...) Muốn giữ cho trọn tiết tháo thanh liêm thì Trọng tử phải làm con giun ở dưới đất (trên ăn đất khô, dưới uống nước suối vàng) mới được. Vậy ông chê bọn môn đồ Lão, Trang ở ẩn, muốn được tiếng là liêm khiết mà cư xử không hợp nghĩa.
Mạnh tử còn đả thuyết của Hứa Hành, một triết gia tự xưng là theo thuyết Thần Nông, chủ trương mọi người từ vua tới dân đều phải trồng lúa lấy mà ăn, dệt vải lấy mà mặc, điểm này chúng tôi sẽ dành riêng để xét trong chương sau.
Mặc dầu có rất nhiều nhiệt huyết, lại có tài ăn nói, lúc thì hùng hồn, lúc thì mỉa mai. Mạnh tử vẫn thất bại trong việc đả đảo các “tà thuyết”. Lẽ ấy dễ hiểu. Ở một thời loạn mà ngôn luận được hoàn toàn tự do, có cả chục học thuyết khác nhau, có khi trái ngược nhau thì một học thuyết trung dung, trọng nhân nghĩa như đạo Khổng không thể nào được các vị vua chúa áp dụng, và dân chúng theo đông. Lời của Mạnh tử “thời nay, học thuyết của Dương Chu và Mặc Địch lan tràn thiên hạ” rất có thể đúng sự thực, chứ không phải là lời nói quá. Cho tới hết thời Chiến Quốc, đạo Khổng không được hoan nghênh gì hơn các đạo khác, và phải đợi đến đời Hán Vũ Đế (khoảng 150 năm sau khi Mạnh tử chết), nhờ thích hợp với một chế độ quân chủ mà đạo Khổng mới gần như được độc tôn, mặc dầu ảnh hưởng của Lão, Trang trong dân gian vẫn còn mạnh. Còn học thuyết của Mạnh tử, suốt ngàn năm sau cũng không lấn át nổi học thuyết của Tuân tử, tới đời Đường bộ Mạnh Tử mới được sắp vào hàng tứ thư mà Tuân tử mới mất ảnh hưởng[6]. Nhưng từ khi đạo Khổng, Mạnh được coi là quốc giáo thì nó cũng bắt đầu ngạnh kết. Thiếu sự cạnh tranh thì sinh khí không còn.
Chú thích:
[1] -2357 -1783 = 574 năm
[2] -1783 -1185 = 598 năm
[3] -1185 -551 năm
[4] Mạnh tử muốn nói gần ấp Trâu (nơi ông sinh), ở sát nước Lỗ.
[5] Nguyên văn là “lực bất thiệm dã”. Có sách giải nghĩa rằng “tại người ta không đủ sức đương cự với mình nên phải miễn cưỡng theo mình”
[6] Trong cuốn Tuân tử, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê cho biết thêm: “… ảnh hưởng của Tuân giảm sút từ sau đời Hán (có lẽ ảnh hưởng của Mạnh cũng giảm sút – Goldfish), vì Lục Triều là thời thịnh của Huyền học. Qua đời Đường, các Nho gia như Hàn Dũ, Lí Cao đề cao chủ trương “Tận tâm tri tính” của Mạnh Tử, để hoá giải hấp dẫn lực của thuyết bình đẳng tính cùng phương pháp “minh tâm kiến tính” của Phật giáo mà sĩ thứ đương thời đương say mê. Tuy nhiên, Hàn, Lí không hề mạt sát quá lời thuyết tính ác của Tuân.
“Đến đời Tống, các nhà “Lí học” như Trình, Chu mới công kích Tuân tàn nhẫn, coi học thuyết của ông ghê như thú dữ, hại như hồng thuỷ. Văn hào Tô Tuân căm Lí Tư, học trò của Tuân Tử, bảo “Thầy nào trò ấy”, “cha (ám chỉ Tuân) giết người thì con (ám chỉ Lí Tư) mới ăn cướp”.
“Tô Tuân nghiêm khắc như vậy, chứ Tô Triệt và Tư Mã Quang công bình hơn, chê Tuân mà cũng chê Mạnh, cho rằng cả hai đều cực đoan hết, như chúng tôi đã nói trong chương Tính Ác (chương 5). Nhưng thời đó vẫn trọng các Chu, Trình hơn, nên học thuyết của Tuân bị nghi kị mà tiếng tăm của Tuân bị tiêu trầm”. (Godfish).