Chương 5 TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
Suốt hai chục năm bôn ba, có lần tới một nước nhỏ nhất, chỉ bằng một ấp, như nước Đằng, mà không khi nào Mạnh tử đặt chân tới nước của “Thiên tử” tức nước Chu. Trong bài 6, Lương Huệ vương, thượng, ông bảo Lương Tương vương “ ai không thích giết người thì thống nhất được thiên hạ” (Bất thị sát nhân giả năng nhất chi). Vậy ông cho rằng bất kì ông vua chư hầu nào hễ thi hành nhân chính là đáng thay vua Chu mà làm thiên tử, nghĩa là ông không tôn Chu, thấy rõ các vua Chu đều bất lực, vận nhà Chu sắp hết. Không tôn Chu, nhưng ông vẫn “tòng Chu”, muốn giữ chế độ của Chu.
Khi Bắc Cung Ỷ (người nước Vệ) hỏi ông:
- Nhà Chu (hồi mới lập), ban tước vị và bổng lộc ra sao?
Ông đáp:
- Không sao biết được rõ ràng vì các vua chư hầu thấy có hại cho quyền lợi của họ, nên hủy bỏ hết sổ sách, nhưng Kha tôi có được nghe đại khái như sau:
Về tước vị các vua trong thiên hạ thì có năm bậc: 1.- thiên tử, 2.- công, 3.- hầu, 4.- bá và 5.- tử với nam cùng một bậc. Về tước vị các vua, quan trong một nước thì có sáu bậc: 1.- vua (tức thiên tử, công hầu hay bá, tử, nam, tùy nước lớn nhỏ). 2.- quan khanh, 3.- quan đại phu, 4.- quan thượng sĩ, 5.- quan trung sĩ, 6.- quan hạ sĩ.
Về phép phong đất thì có bốn hạng: 1.- đất của thiên tử vuông vức một ngàn dặm; 2.- đất của công và hầu, vuông vức một trăm dặm, 3.- đất của bá bảy chục dặm, 4.- của tử và nam năm chục dặm. Chư hầu nào đất vuông vức không được năm chục dặm thì không được trực tiếp triều cống thiên tử, phải tùy thuộc một chư hầu (có từ năm chục dặm trở lên); và nước nhỏ ấy gọi là phụ dung.
Ở nước thiên tử thì quan khanh được lãnh phần đất ngang với một vị tước hầu, quan đại phu được phần đất ngang với một vị tước bá, quan sĩ hạng nhất được phần đất ngang với một vị tước tử hay nam.
Ở một nước lớn vuông vức một trăm dặm, vua hưởng lộc bằng mười lần quan khanh, quan khanh hưởng lộc bằng bốn lần quan đại phu, quan đại phu bằng hai thượng sĩ, thượng sĩ bằng hai trung sĩ, trung sĩ bằng hai hạ sĩ[1]. Hạ sĩ với bình dân mà làm quan thì bổng lộc ngang nhau. Bổng lộc cấp cho người bình dân làm quan để thế cho số hoa lợi lúa thóc nếu họ không làm quan mà làm ruộng.
Ở một nước vừa vừa, vuông vức bảy chục dặm, vua hưởng lộc bằng mười lần quan khanh, quan khanh bằng ba lần quan đại phu, quan đại phu bằng hai quan thượng sĩ, thượng sĩ bằng hai trung sĩ, trung sĩ bằng hai hạ sĩ. Hạ sĩ với bình dân mà làm quan thì bổng lộc ngang nhau. Bổng lộc cấp cho người bình dân làm quan là để thế cho số hoa lợi lúa thóc nếu họ không làm quan mà làm ruộng.
Ở một nước nhỏ vuông vức năm chục dặm, vua hưởng lộc bằng mười lần quan khanh, quan khanh bằng hai lần quan đại phu, quan đại phu bằng hai quan thượng sĩ, thượng sĩ bằng hai trung sĩ, trung sĩ bằng hai hạ sĩ. Hạ sĩ với bình dân mà làm quan thì bổng lộc ngang nhau. Bổng lộc cấp cho người bình dân mà làm quan là để thế cho số hoa lợi lúa thóc nếu họ không làm quan mà làm ruộng.
Ai làm ruộng thì mỗi chủ gia đình được cấp cho trăm mẫu. Nếu khéo bón phân thì hạng người giỏi nhất có thể nuôi một gia đình chín miệng ăn, hạng người giỏi bậc nhì nuôi nổi một gia đình tám miệng ăn, hạng người trung bình nuôi nổi bảy miệng ăn, kém hơn thì nuôi nổi sáu miệng ăn, dở hơn hết cũng nuôi được năm miệng ăn. Hạng bình dân mà làm quan thì lãnh bổng lộc nhiều hay ít, bằng số hoa lợi của một trong năm hạng làm ruộng kể trên. (Vạn Chương, hạ - bài 2).
Đó là trên nguyên tắc, trên thực tế thì đầu đời Chu có thể đúng như vậy, rồi sau mỗi đời mỗi sai đi, tới đời Mạnh tử chắc đã khác hẳn, nên ông muốn phân phối lại lợi tức quốc gia.
Một qui tắc Mạnh tử rất tôn trọng là sự phân công: trong xã hội, phải phân biệt hai hạng người, hạng “quân tử”- tức hạng có tài có đức - lo việc trị dân, và hạng bình dân lo cấp dưỡng cho hạng trên, hai hạng đó mỗi hạng lãnh một nhiệm vụ, nhưng cũng là giúp đỡ lẫn nhau để đạt chung một mục đích: làm cho xã hội bình an, thịnh trị. Ông bác thuyết “vua tôi đều cầy cấy” của Hứa Hành.
Hứa Hành là một triết gia, từ nước Sở lên nước Đằng, tự xưng là theo thuyết vua Thần Nông, tự cày cấy lấy mà ăn, tự dệt chiếu, bện dép để dùng. Một môn đệ phái Hứa Hành tên là Trần Tương lại thăm Mạnh tử, khen thuyết “quân thần tịnh canh” của thầy, bảo:
- Vua Đằng là một ông vua tốt, nhưng chưa biết đạo lí. Bậc vua hiền thì vừa trị dân vừa cày ruộng với dân mà sống, nấu cơm lấy mà ăn. Nhưng vua Đằng hiện nay chứa lúa đầy lẫm, của cải đầy kho, bắt dân phải cực khổ nuôi mình, như vậy làm sao gọi là hiền được?
Mạnh tử dùng thuật đưa ra một loạt câu hỏi để dồn Trần Tương vào chỗ bí:
- Chắc Hứa tử trồng lúa lấy mà ăn, phải không?
- Phải.
- Chắc ông ta cũng tự dệt vải mà mặc nữa?
- Không. Hứa tử bận áo bằng lông chiên.
- Thế, ông ta có đội mũ không?
- Có.
- Mũ bằng gì?
- Bằng lụa trắng.
- Ông ta tự dệt lấy phải không?
- Không, đem lúa đổi lấy mũ.
- Thế tại sao không tự dệt lấy?
- Vì dệt lấy thì hại cho công việc cày cấy.
- Hứa tử có dùng nồi đồng, trách đất mà nấu ăn không?
- Có.
- Những thứ đó, ông ta chế tạo lấy?
- Không, ông đem lúa mà đổi.
- Nếu ông ta đem lúa đổi lấy đồ dùng mà chẳng làm thiệt hại gì cho người làm đồ gốm và người thợ đúc, thợ rèn thì ngược lại, những người này đem đồ vật chế tạo ra đổi lấy lúa, có làm thiệt hại gì cho người làm ruộng đâu? Vả lại tại sao Hứa tử không học nghề thợ gốm, thợ đúc, thợ rèn, để chế tạo lấy đồ mà dùng? Sao phải rắc rối đổi chác với các người làm thủ công như vậy, chẳng sợ làm phiền mình và người ư?
- Nếu làm mọi nghề thủ công thì không làm sao đồng thời cày cấy được nữa.
Bây giờ Mạnh tử mới đưa ra kết luận, trở về việc trị nước của bậc vua chúa:
- Vậy thì bậc cai trị thiên hạ có thể nào một mình vừa cày ruộng vừa hành chính không? Có phần việc của người lớn (tức hạng người trị dân), có phần việc của người nhỏ (hạng bình dân, bị trị). Mỗi người phải nhờ vào sự cung cấp vật cần dùng của mọi ngành thủ công; nếu mỗi người phải tự mình chế tạo lấy mọi vật thì khắp thiên hạ phải chạy đôn chạy đáo mất. Cho nên bảo: Có hạng người lao tâm, có hạng người lao lực. Người lao tâm cai trị những người khác; người lao lực bị người khác cai trị. Người bị trị phải cung cấp cho bề trên; người cai trị được người dưới phụng dưỡng. Đó là lẽ thông thường trong thiên hạ. (Nhiên tắc trị thiên hạ, độc thả canh thả vi dư? Hữu đại nhân chi sự, hữu tiểu nhân chi sự. Thả nhất nhân chi thân thi bách công chi sở vi bị, như tất tự vi nhi như hậu dụng chi, thị suất thiên hạ nhi lộ dã. Cố viết: Hoặc lao tâm, hoặc lao lực. Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân. Trị ư nhân giả tự nhân, trị nhân giả tự ư nhân, thiên hạ chi thông nghĩa dã?) - Đằng Vằn công, thượng - bài 41.
Nguyên tắc phân công là nguyên tắc căn bản cho mọi xã hội, không có phân công thì không có xã hội. Nó dựa trên luật tự nhiên này: vạn vật không giống nhau, không đồng đều nhau về tính chất.
Cuối bài kể trên, Mạnh tử đả đảo một thuyết nữa của Hứa tử. Trần Tương bảo:
- Theo thuyết của Hứa tử thì hàng hóa ở chợ chỉ có một giá thôi, như vậy khỏi xảy ra các sự gian lận. Dù sai một đứa trẻ năm thước[2] đi chợ cũng không bị ai gạt. Như vải lụa, dài ngắn bằng nhau thì giá tiền như nhau. Dây gai, chỉ vải, sợi tơ mịn và sợi tơ thô nặng nhẹ bằng nhau thì giá tiền như nhau. Năm giống lúa nhiều ít bằng nhau thì giá tiền như nhau. Giày dép lớn nhỏ bằng nhau thì giá tiền như nhau.
Mạnh tử bác:
- Bản chất của mọi vật là không đồng đều nhau. Có vật đáng giá gấp hai hoặc năm lần vật khác, có vật đáng giá gấp mười gấp trăm, hoặc gấp ngàn gấp vạn vật khác. Anh muốn cho mọi vật đồng giá với nhau tức là làm loạn thiên hạ. Nếu giày dép lớn hay nhỏ bán bằng giá nhau thì ai chịu làm giày dép lớn nữa? Vậy theo thuyết của Hứa Tử thì chỉ khiến cho người ta hóa ra gian trá mà thôi, làm sao trị được nước? (Phù vật chi bất tề, vật chi tình dã. Hoặc tương bội, tỉ; hoặc tương thập, bách; hoặc tương thiên vạn. Tử tỉ nhi đồng chi, thị loạn thiên hạ dã. Cự lũ, tiểu lũ đồng giá, nhân khỏi vi chi tai? Tòng Hứa chi đạo, tương suất nhi vi ngụy giả dã, ố năng trị quốc?)
夫物之不齊,物之情也。或相倍,蓰;或相什百;或相千萬。子比而同之,是亂天下也。巨屨,小屨同賈,人豈爲之哉?從許子之道,相率而爲僞者也,惡能治國?
Trang tử nhỏ hơn Mạnh tử khoảng mười hai tuổi, có viết thiên Tề vật luận, đứng về phương diện triết học, bảo lớn nhỏ, thọ yểu, thiện ác gì thì cũng như nhau, vì cái gì cũng tương đối hết, chẳng hạn ông Bành Tổ thọ bảy trăm tuổi, so với thời gian vô cùng thì cũng không hơn gì một em bé chết yểu.
Không rõ Mạnh tử có biết thuyết đó không, nếu biết thì trong bài này ông cũng không có ý đả Trang tử, chỉ đứng về phương diện xã hội, kinh tế mà bác thuyết bình đẳng của Hứa Hành thôi. Và ông có lí.
Ngay các nước cộng sản ngày nay cũng phải nhận rằng con người sinh ra vốn bất bình đẳng, hơn nữa chính tổ chức xã hội của họ cũng dựng trên thuyết bất bình đẳng nữa. Chúng ta chỉ có thể giảm sự bất bình đẳng một phần nào bằng luật pháp (mọi giai cấp, nam nữ bình đẳng trước pháp luật), chính sách xã hội, thuế khóa (giúp đỡ người nghèo, trợ cấp người thất nghiệp, giảm sự quá cách biệt về lương giữa cấp trên cấp dưới, khép bớt cây quạt lương bổng lại, đánh thuế lũy tiến vào lợi tức, đánh thuế nặng vào di sản...), nhất là bằng cách phổ thông giáo dục giúp con nhà nghèo có những phương tiện để học như con nhà giàu; còn sự bình đẳng bẩm sinh về trí tuệ, tài năng - nguyên nhân của sự bất bình đẳng trên thang xã hội – thì không làm sao cho mất được.
Sự phân biệt ra hai hạng người: lao tâm thì cai trị người, lao lực thì bị người cai trị, không có ý nghĩa là khinh hạng bình dân, vì Mạnh tử chủ trương “dân vi quí”. Thượng đế sinh ra vạn vật, làm chủ vạn vật, nhưng không thể săn sóc riêng từng vật, đặc biệt là từng người một, cho nên mới giao quyền cho vua thay mình để trị dân. Nhưng vua cũng không thể trông nom mọi việc được, cần có các quan giúp đỡ. Vậy vua và quan, tức hạng cai trị người, sở dĩ có là vì có hạng “bị cai trị” và bổn phận của họ là phải làm lợi cho hạng này, tức cho dân chúng. Tư tưởng đó diễn trong hai chữ “thiên mệnh” đã thấy trong kinh Lễ, không phải là mới mẻ.
Sự phát huy của Mạnh tử ở điểm dưới đây: ở trên chúng ta đã biết ông theo chế độ tước lộc đầu đời Chu, nhưng có điểm khác là nhà Chu ban tước lộc cho hạng quí tộc, còn ông thì ông muốn ban cho người hiền, có tài, có đức.
Ông phân biệt “thiên tước” (tước trời ban cho) và “nhân tước” (tước người ban cho mình). Nhân, nghĩa, trung, tín, vui làm điều thiện mà không chán, đó là thiên tước; còn những chức công, hầu, khanh, tướng, đại phu là nhân tước. (Hữu thiên tước giả, hữu nhân tước giả. Nhân, nghĩa, trung, tín lạc thiệt bất quyện, thử thiên tước dã; công, khanh, đại phu thử nhân tước dã.) - Cáo tử, thượng - bài 16.
有天爵者,有人爵者。仁義忠信,樂善不倦,此天爵也;公卿大夫,此人爵也。
Bài 2, Công tôn Sửu, hạ, ông lại nói: “Thiên hạ đều trọng ba cái này: tước vị, tuổi tác và đạo đức.”
Tại triều đình tước vị được quí nhất, ở làng xóm, tuổi tác được trọng nhất, về việc giúp đời dạy dân thì đức được trọng nhất. (Thiên hạ hữu đạt tôn tam: tước nhất, xỉ nhất, đức nhất. Triều đình mạc như tước, hương đảng mạc như xỉ, phụ thế trưởng dân mạc như đức.)
天下有達尊三:爵一,齒一,德一。朝廷莫如爵,鄉黨莫如齒,輔世長民莫如德。
Vậy ông cho đức cũng đáng trọng ngang với tước mà lại có ích cho dân hơn cả. Và khi thiên hạ có đạo, nghĩa là bình trị, có kỉ cương thì kẻ đức nhỏ thờ người đức lớn, kẻ hiền ít thờ người hiền nhiều; nói cách khác, người có đức lớn phải ở trên cả, phải làm vua hoặc giữ những chức lớn nhất ở triều đình. (Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền.) - Li Lâu, thượng - bài 7.
天下有道,小德役大德,小賢役大賢。
Đó là thiên lí (lẽ tự nhiên), thuận theo thiên lí thì còn, nghịch với thiên lí thì mất.
Cho nên vua phải trọng người hiền: bậc hiền vương thời xưa quí các hiền sĩ, trong khi tiếp xúc với họ, quên địa vị, quyền thế của mình. Mà các hiền sĩ đời xưa lẽ nào không vậy? Họ cũng vui cái đạo của mình mà quên địa vị, quyền thế của người. Cho nên bậc thiên tử và các vua chư hầu, nếu không hết lòng kính trọng lễ độ thì không được thường gặp các hiền sĩ (Cổ chi hiền vương, hiếu thiện nhi vong thế. Cổ chi hiền sĩ hà độc bất nhiên? Lạc kì đạo như vong nhân chi thế. Cổ vương công bất tri kính, tận lễ, tắc bất đắc cức kiến chi - Tận tâm, thượng - bài 8).
Hơn nữa, vua chúa có bổn phận phải nuôi hiền sĩ một cách trọng hậu. Bành Canh, một môn đệ của Mạnh tử, thấy thầy mình đi đâu thì dắt theo cả trăm cỗ xe, mấy trăm người tùy tùng, đến nước chư hầu nào thì vua nước ấy phải cung phụng đầy đủ, hỏi Mạnh tử:
- (...) Như vậy chẳng là thái quá ư?
Mạnh tử đáp:
- Nếu mình không giữ đạo thì dù là một giỏ cơm cũng không được nhận của người. Nếu mình giữ đạo thì dù như ông Thuấn được ông Nghiêu trao cho cả thiên hạ, cũng không phải là thái quá. Sao anh lại cho (sự cung phụng của các vua chư hầu) là thái quá?
Bành Canh đáp:
- Ông Thuấn nhận thiên hạ không phải là thái quá. Nhưng kẻ sĩ chẳng làm được việc chi cho vua mà ăn lộc vua thì là điều không nên.
Mạnh tử giảng:
- Nếu anh không trao đổi sản phẩm, đem món dư của mình mà đổi lấy món mình thiếu thốn, thì nông dân sẽ thừa thãi lúa thóc, mà người đàn bà dệt vải sẽ dư vải. Nếu cho trao đổi sản phẩm thì người thợ rừng, thợ mộc, thợ làm bánh xe, đóng thùng xe đều có đủ món để sống. Bây giờ có người hiếu thảo với cha mẹ, kính thuận với huynh trưởng, gia đạo của tiên vương, đem đạo đó ra truyền lại cho học giả[3] đời sau, mà lại không được cung cấp vật thực. Sao anh lại tôn trọng các thợ rừng, thợ mộc, thợ làm bánh xe, đóng thùng xe, mà khinh những bậc làm nhân làm nghĩa như vậy? (Ư thử hữu nhân yên, nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, thủ tiên vương chi đạo dĩ đãi hậu chi học giả, nhi bất đắc tự ư tử. Tử hà tôn tử, tượng, luận, dư, nhi khinh vi nhân nghĩa giả tai?)
Ông cho rằng bậc hiền sĩ, dù chẳng lãnh chức vụ gì ở triều đình, chỉ thi hành và giảng điều nhân điều nghĩa thôi, để dạy đời và làm gương cho đời thì cũng đáng được nhà vua phải cung phụng mọi sự cần thiết rồi. Và nếu có việc cần tiền mà nhà vua tặng hàng chục, hằng trăm dật vàng thì cũng có thể nhận được; không cần tiền thì không nhận, phải giữ tiết tháo đừng để người ta mua chuộc mình bằng đồng tiền[4]. Sau cùng khi nhà vua muốn lựa bậc hiền tài để giao trách nhiệm thì phải rất cẩn thận: Các quan hầu cận đều cho người nào đó là bậc hiền tài thì đừng vội tin. Các quan đại phu đều cho người đó là bậc hiền tài thì cũng đừng vội tin. Người trong nước đều cho người đó là bậc hiền tài thì lúc đó mới xét.
Xét rồi, thấy người đó quả là hiền tài thì lúc đó mới dùng (Tử hữu giai viết hiền, vị khả dã. Chư đại phu giai viết hiền, vị khả dã. Quốc nhân giai viết hiền nhiên hậu sát chi, kiến hiền yên, nhiên hậu dụng chi - Lương Huệ vương, hạ - bài 7).
Bài đó cho ta thấy hai điểm trong tư tưởng Mạnh tử:
1. - Đáng gọi là người hiền thì phải là bậc có đức rất cao, làm được gì cho quốc dân để quốc dân ngưỡng mộ, có vậy ta mới hiểu được tại sao bậc hiền sĩ đáng được vua cung phụng đầy đủ.
2. - Khi dùng người, vua phải tôn trọng ý dân, một lẽ vì qui tắc dân vi quí, một lẽ nữa vì ý cá nhân có thể sai, ý toàn dân mới có phần chắc đúng hơn, chứ chưa nhất định là đúng, vì vậy mà vua phải xét lại lần cuối cùng nữa rồi mới dùng. Cách dùng người của Mạnh tử quả là thận trọng.
Vì tôn trọng đức hơn cả nên Mạnh tử nghĩ rằng chức vị cao nhất trong thiên hạ, tức ngôi thiên tử, phải thuộc về người có đức cao nhất, vào hạng thánh nhân. Do đó chính sách “thiện nhượng” (truyền ngôi cho người hiền) của Nghiêu, Thuấn được ông coi là chế độ chính trị lí tưởng.
Chương Vạn Chương, thượng, có hai bài 5 và 6, đều rất quan trọng, diễn một cách cặn kẽ chủ trương ấy.
Bài 5. - Vạn Chương, một môn đệ của ông, hỏi:
- Vua Nghiêu đem thiên hạ cho vua Thuấn, việc ấy có không?
Ông đáp:
- Không. Thiên tử không thể đem thiên hạ cho người khác được.
- Vậy thì vua Thuấn có thiên hạ là ai cho?
- Trời cho.
- Trời cho thì chăm chắm bảo rõ ra hay sao?
- Không. Trời không nói, chỉ lấy đức hạnh và sự nghiệp của ông Thuấn mà tỏ ra vậy thôi.
(Ta để ý ba chữ “Trời không nói”. Mạnh tử cũng như Khổng tử và tất cả các triết gia khác thời đó không có quan niệm “thiên khải” (révélation pine) cho một vị tiên tri (Moise hoặc Mahomet) như các đạo Do Thái, Ki Tô và Hồi).
Vạn Chương lại hỏi:
- Lấy đức hạnh và sự nghiệp của ông Thuấn mà tỏ ra, là ra làm sao?
Mạnh tử đáp:
- Thiên tử có thể tiến cử một người với Trời chứ không thể khiến Trời phải đem thiên hạ cho người ấy. (Cũng như) vua chư hầu có thể tiến cử một người với thiên tử mà không thể khiến thiên tử phải đem ngôi chư hầu cho người ấy (...) Thời xưa vua Nghiêu tiến cử ông Thuấn với Trời thì Trời nhận, rồi tuyên bố với dân (rằng ông Thuấn sẽ kế vị mình), dân cũng chịu. Cho nên ta bảo rằng Trời không nói, chỉ lấy đức hạnh và sự nghiệp của ông Thuấn mà tỏ ra vậy thôi.
- Con xin hỏi thêm: “Tiến cử với thời mà Trời nhận, tuyên bố với dân mà dân chịu, là làm sao?”
- Vua Nghiêu sai ông Thuấn thay mình làm chủ tế thì chư thần đều hưởng lễ vật, đó là Trời nhận ông Thuấn. Khi vua Nghiêu sai ông Thuấn thay mình cai quản việc nước thì việc nước được ổn trị, trăm họ được yên vui đó là dân chịu ông Thuấn.
Như thế tức Trời và dân đều đem thiên hạ cho ông Thuấn, cho nên ta mới nói: Thiên tử không có quyền đem thiên hạ cho người khác.
Ông Thuấn giúp vua Nghiêu cai trị hai mươi tám năm, việc đó chẳng phải sức người làm được, là do ý Trời đấy. Vua Nghiêu băng, sau ba năm cư tang, ông Thuấn tự nhường quyền cho con vua Nghiêu, lánh về miền nam sông Nam Hà. Nhưng khi triều cận (yết kiến thiên tử), thì các vua chư hầu trong thiên hạ chẳng đến con vua Nghiêu mà tìm đến ông Thuấn; khi có việc thưa kiện thì chẳng đưa nhau đến con vua Nghiêu mà tìm đến ông Thuấn (để ông Thuấn phân xử); khi có lễ ca tụng công đức thiên tử thì người ta chẳng ca tụng con vua Nghiêu mà ca tụng ông Thuấn. Vì vậy ta nói là do ý Trời đấy. Sau đó, ông Thuấn trở về kinh đô Trung Quốc, lên ngôi thiên tử. Nếu ông Thuấn (khi vua Nghiêu băng), ở luôn trong cung vua Nghiêu, bức hiếp con vua Nghiêu, thì là tiếm ngôi chứ không phải là Trời cho. Thiên Thái thệ (trong kinh Thư) có câu: “(Trời không có mắt có tai) dân nhìn tức là Trời nhìn, dân nghe tức là Trời nghe” là nghĩa vậy.
Bài 6. - Vạn Chương lại hỏi:
- Người ta thường nói: “Đến đời vua Vũ thì đức suy cho nên chẳng truyền ngôi cho người hiền mà truyền ngôi cho con, có phải vậy chăng?”.
Mạnh tử đáp:
- Không, không phải vậy. Trời cho người hiền thì cho người hiền. Trời cho con thì cho con. Thời xưa, vua Thuấn tiến cử (một hiền thần là) ông Vũ với[5] Trời. Mười bảy năm sau vua Thuấn băng. Hết ba năm cư tang, ông Vũ tự nhường quyền cho con ông Thuấn, mà lánh ra ở đất Dương Thành. Lúc ấy, dân chúng trong thiên hạ theo ông Vũ cũng như sau khi vua Nghiêu băng, người ta theo ông Thuấn, chứ không theo con vua Nghiêu.
Rồi ông Vũ tiến cử (một bề tôi là) ông Ích với Trời. Bảy năm sau vua Vũ băng. Hết ba năm cư tang, ông Ích tự nhường quyền cho con vua Vũ (là ông Khải), lánh vào ở chân núi Kì Sơn. Lúc ấy, các vua chư hầu tới triều cận, hoặc trăm họ thưa kiện nhau, đều chẳng đến với ông Ích mà đến với ông Khải, bảo: “Ngài là con của vua chúng tôi”. Và khi có lễ ca tụng công đức thiên tử, người ta chẳng ca tụng ông Ích mà ca tụng ông Khải, bảo: “Ngài là con của vua chúng tôi”.
Đan Châu (con vua Nghiêu) là người bất tiếu (không giống cha, tức người xấu), con vua Thuấn (là Thương Quân) cũng là người bất tiếu (vì vậy mà vua Nghiêu và vua Thuấn đều không truyền ngôi cho con, mà dân chúng không theo con hai ông ấy). Ông Thuấn cai trị giúp vua Nghiêu, ông Vũ cai trị giúp vua Thuấn, trải qua nhiều năm, thi ân cho dân đã lâu. Đến ông Khải, con ông Vũ, là người hiền có thể kính cẩn thừa kế đạo của cha. Mà ông Ích giúp vua Vũ cai trị dân chưa được bao năm, thi ân cho dân chưa được lâu. Ông Thuấn và ông Vũ nhiếp chính lâu hơn ông Ích, mà con vua Nghiêu và con vua Thuấn bất tiếu, con vua Vũ thì hiền, mấy việc ấy đều do ý Trời, không phải sức người mà làm được. Việc gì mình không cố ý làm mà tự nhiên làm được, đó là ý Trời; mình không cầu mà tự nhiên nó tới, đó là mạng Trời”.
Vậy thiên tử muốn tự ý truyền ngôi lại cho con đã không được mà muốn nhường ngôi cho người ngoài cũng không được. Muốn nhường ngôi phải thuận ý Trời, thuận ý dân. Cho nên Khổng tử nói:
“Các đời Đường (Nghiêu), Ngu (Thuấn) nhường ngôi cho người hiền, các vua nhà Hạ (Vũ), Ân, Chu, truyền ngôi cho con cháu, ý nghĩa như nhau (nghĩa là đều theo mạng Trời và lòng dân)” (Đường, Ngu, thiền; Hạ hậu, Ân, Chu kế, kì nghĩa nhất dã).
唐,虞,禪;夏後,殷,周繼;其義一也。
Vậy chế độ chính trị lí tưởng của Mạnh tử là ngôi thiên tử phải thuộc về người có cái đức của thánh nhân; khi thánh nhân ấy bắt đầu già thì lựa một người bề tôi có tài đức, giao lần trách nhiệm trị dân, thấy có kết quả thì khi chết sẽ truyền ngôi cho.
Truyền thuyết về các vua Nghiêu, Thuấn, một số học giả Trung Hoa gần đây ngờ rằng chưa đáng tin, nhưng trong các bộ lạc thời cổ ở nước nào cũng có tục khi tù trưởng chết thì dân trong bộ lạc cử người tài giỏi nhất lên thay. Và ở La Mã thời cổ, cũng đã có một thời ngôi vua không truyền tử mà truyền hiền. Will và Ariel Durant trong cuốn Bài học của lịch sử, chương X (Lá Bối - 1973) viết:
“Sau hoàng đế Auguste (sinh năm -63, mất năm +14), các hoàng đế Caligula, Néron và Domitien làm cho chế độ quân chủ mất thanh thế, nhưng họ được những người kế vị: Nerva, Trajan, Hadrien, Antonin và Marc Aurèle, mà Renan phải khen là thế giới chưa bao giờ được một loạt “minh quân tài giỏi như vậy”.
Sử gia Gibbon cũng bảo:
“Nếu phải chỉ ra một thời đại mà nhân loại được sung sướng nhất, thịnh vượng nhất thì người ta nghĩ ngay tới thời từ khi Nerva lên ngôi tới khi Marc Aurèle chết.[6] Mấy triều đại đó gom lại thành một thời đại duy nhất trong lịch sử mà nhà cầm quyền chuyên lo tới hạnh phúc một đại dân tộc.”
Trong thời đại rực rỡ ấy, các dân tộc qui phục La Mã, lấy làm sung sướng về thân phận của họ, chế độ quân chủ không có tính cách thế tập mà có tính cách lập tự, nghĩa là ngôi vua không truyền tử mà truyền hiền; nhà vua lựa người nào có tài năng nhất mà nhận làm con nuôi, chỉ bảo cho việc trị nước rồi tuần tự giao phó quyền hành cho. Chính sách ấy không gặp trở ngại, một phần vì cả Trajan lẫn Hadrien đều không có con trai, còn các con trai của Antonin thì lại chết sớm. Marc Aurèle có một người con trai tên là Commode, nối ngôi ông. Vị hoàng đế hiền triết ấy quên không chỉ định một người kế vị, tức thì cảnh hỗn loạn phát ra liền. Vậy chế độ ngôi vua truyền hiền đó của La Mã không do một lí tưởng chính trị, chỉ do một sự may mắn đặc biệt, khó tái diễn trong lịch sử: nếu Trajan và Andrien đều có con trai thì có phần chắc chắn là họ đã truyền tử chứ không truyền hiền.
Một điểm tiến bộ nữa trong học thuyết Mạnh tử là ông dõng dạc tuyên bố phải phế bỏ những ông vua làm hại dân và nếu là bạo chúa thì có thể giết, nghĩa là có thể làm cách mạng (nghĩa cổ là đổi mệnh vua, đổi triều vua).
Có ba trường hợp:
1 - Truất ngôi vua. Một lần Tề Tuyên vương hỏi về đạo nghĩa của quan khanh (ở địa vị thủ tướng hoặc bộ trưởng ngày nay).
Mạnh tử đáp:
- Vua muốn hỏi về hạng quan khanh nào?
- Có những hạng quan khanh khác nhau sao?
- Khác nhau. Có quan khanh trong dòng họ nhà vua, và có quan khanh không có họ hàng với vua.
- Xin hỏi về hạng quan khanh trong dòng họ nhà vua.
- Hạng đó, nếu vua có lỗi lớn thì can gián, can gián nhiều lần mà vua không nghe thì (phải họp cộng tộc, triều đình) để (truất vua mà) tôn người khác lên.
Nghe xong, Tề Tuyên vương kinh sợ biến sắc (...); một lát định thần lại rồi hỏi tiếp về hạng quan khanh không có họ hàng với vua. Mạnh tử đáp:
- Vua có lỗi thì họ phải can gián, can gián nhiều lần mà không nghe, thì họ nên trả chức mà đi.
(Hữu quí thích chi khanh, hữu dị tánh chi khanh... [Quí thích chi khanh], quân hữu đại quá tắc gián, phản phúc chi nhi bất thính, tắc dịch vị... [dị tánh chi khanh] quân hữu quá tắc gián; phản phúc chi nhi bất thính, tắc khứ. -Vạn Chương hạ - bài 9).
有貴戚之卿,有異姓之卿.... [貴戚之卿] 君有大過則諫,反覆之而不聽,則易位... [異姓之卿] 君有過則諫;反覆之而不聽,則去。
Khổng tử cũng cho rằng vua không làm điều nhân nghĩa thì quan không những có quyền, mà còn có bổn phận phải bỏ nữa, nếu không thì mang tiếng là làm quan vì bổng lộc; nhưng ông không nghĩ tới việc truất vua, hoặc nghĩ tới mà không tiện nói thẳng ra. Tinh thần tôn quân của ông còn mạnh, nhiều lần ông đã từ chức một cách khéo léo để giữ thể diện cho vua, như khi ông thấy Lỗ hầu say mê gái dẹp, ca nhạc mà bỏ bê việc nước, ông muốn bỏ đi, nhưng đợi lúc vua làm lễ tế giao không chia thịt cho các quan, ông mới xin từ chức; như vậy người ta không trách vua vì ham thanh sắc mà bị ông bỏ, trái lại trách ông vì một việc nhỏ mọn (không chia thịt) mà bỏ vua. Ông muốn che lỗi cho vua.
Mạnh tử có thái độ gay gắt hơn nhiều, bảo quan khanh không phải trong tôn thất thì phải bỏ đi, mà quan khanh trong tôn thất thì có bổn phận phải truất ngôi vua.
2 - Hơn nữa, một hiền thần, dù không phải trong tôn thất, cũng có thể phóng trục một ông vua tàn bạo, như trường hợp vua Thái Giáp với ông Y Doãn.
Bài 31, Tận Tâm, thượng, chép: Công Tôn Sửu thưa với Mạnh tử:
- Ông Y Doãn (tướng quốc nhiếp chính nhà Thương sau khi vua Thang băng) bảo: “Tôi không chịu được hạng người không tôn thuận nghĩa lí”. Rồi ông dời vua Thái Giáp (cháu nội vua Thang) ra đất Đồng, mà dân chúng mừng rỡ. Vua Thái Giáp hối hận, trở nên hiền đức, ông Y Doãn bèn mời về triều, dân chúng cũng lại mừng rỡ nữa. Vậy bậc hiền nhân làm bề tôi, nếu gặp một ông vua không hiền thì có thể đuổi vua đi hay sao?
Mạnh tử đáp:
- Phải có chí tiết như ông Y Doãn mới được đuổi vua, nếu không thì là thoán nghịch.
(Công Tôn Sửu viết: Y Doãn viết: “Dư bất hiệp, vu bất thuận”. Phóng Thái Giáp vu Đồng, dân đại duyệt. Thái Giáp hiền, hựu phản chi, dân đại duyệt. Hiền giả chi vi nhân thần dã, kì quân bất hiền, tắc cố khả phóng dư?
Mạnh tử viết: Hữu Y Doãn chi chí tắc khả, vô Y Doãn chi chí, tắc thoán dã...)
公孫丑曰:伊尹曰:"予不狎,于不順。"放太甲于桐,民大悅。太甲賢,又反之,民大悅。賢者之爲人臣也,其君不賢,則固可放與?
孟子曰:有伊尹之誌則可,無伊尹之誌,則篡也。
Tiến lên một bực nữa, một bậc hiền nhân có quyền giết vua mà lên ngôi. (Đây là cách thứ ba để nhận ngôi, hai cách kia là được nhường ngôi, và được truyền ngôi đã trình bày ở trên). Như vua Thang giết vua Kiệt, vua Vũ diệt vua Trụ, hai ông ấy thay Trời trừ bạo chúa, nên được làm thiên tử.
Cách này hợp đạo, hợp lí nếu có đủ ba điều kiện như sau:
a) Phải theo ý dân. Dân phải tỏ lòng oán chính sách tàn ngược của bạo chúa và mong mỏi người giải phóng; như khi vua Thang sắp thảo phạt vua Kiệt thì nhân dân đâu đâu cũng ca thán: “Vua (Kiệt) không thương chúng ta, bỏ việc ruộng nương của chúng ta mà chính trị thì bạo ngược” (Thư - Thang thệ). Về việc vua Vũ diệt Trụ, Thư - Thái thệ cũng chép: “Vua Trụ cự tuyệt với Trời mà kết oán với dân.”
Vua tuy thay Trời, nhưng khi đã không làm tròn nhiệm vụ, lại tàn bạo thì không phải là vua nữa, mà là một tội nhân, cho nên Mạnh tử nói:
“Nghe nói giết một kẻ tên là Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua.”
b) Phải theo mệnh Trời, nghĩa là phải tin rằng việc mình làm thuận ý Trời, như khi vua Thang giết Kiệt, có nói: “Đạo Trời giáng tai ương cho Kiệt để tỏ rõ tội hắn (...), ta theo mệnh Trời mà tỏ rõ uy của Trời, nên không dám tha hắn” (Thư - Thang cáo). Vũ vương khi giết Trụ cũng nói: “Trời nổi giận, sai ta xét tội của Trụ, ta phải kính sợ mệnh lệnh và uy của Trời” (Thư - Thái thệ); lại nói: “Tội Trụ đã đầy, mệnh Trời là giết hắn đi, nếu ta không thuận ý Trời thì tội cũng như hắn” (Thư - Thái thệ). Mệnh Trời đó hiện trong ý dân và trong những tai ương Trời giáng cho quốc gia nào có bạo quân như núi đổ, sông lụt, sấm to, bão lớn...
c) Phải là người có đức, được dân tín nhiệm, như vua Thang trước khi khởi quân diệt vua Kiệt, đã nổi danh là khoan đại, nhân nghĩa; vua Vũ trước khi giết vua Trụ cũng nổi tiếng là người hiền.[7] Hạng người đó, Mạnh Tử gọi là “thiên lại”, người vâng lệnh Trời mà trị an. (Công Tôn Sửu, thượng, bài 5). “Thiên lại” cao hơn “thiên dân” (dân của Trời) một bực. Thiên dân là hạng tính trước rằng nếu mình ra làm quan mà có thể giúp thiên hạ, thì lúc đó mới chịu nhận trách nhiệm; nếu không thì ở ẩn chờ thời (Tận tâm, thượng, bài 19).
Chương Công Tôn Sửu, hạ, bài 8 dưới đây còn nói rõ rằng “thiên lại” có quyền giết vua, đánh một nước vô đạo, cũng như quan sĩ sư (thượng thư bộ hình) có quyền ra lệnh kẻ giết phạm trọng tội:
Thẩm Đồng (một cận thần của vua Tề) lấy ý riêng mà hỏi Mạnh tử:
- Nên đánh Yên không?
Mạnh tử đáp:
- Nên. Vì Tử Khoái (vua Yên) không có quyền đem nước Yên giao cho Tử Chi (tể tướng của Yên), mà Tử Chi cũng không có điều kiện để nhận của Tử Khoái. Tỉ như bây giờ có một viên quan yêu ông mà không tâu với vua, tự ý đem bổng lộc, tước vị của mình nhường cho ông; hoặc có một kẻ sĩ không được lệnh vua phong, cứ nhận chức quan ông cấp cho, thì như vậy có phải phép không? Việc Tử Khoái trao quyền cho Tử Chi có khác gì vậy?
Sau đó Tề đánh Yên. Có người hỏi Mạnh tử:
- Có phải ông xúi Tề đánh Yên không?
Ông đáp:
- Tôi chưa hề xúi như vậy. Chẳng qua Thẩm Đồng hỏi tôi: “Nên đánh nước Yên không?” Tôi đáp “Nên”. Thế là Tề đem quân đánh Yên. Nếu ông ta hỏi thêm: “Ai có quyền đánh nước ấy?” thì tôi sẽ đáp chỉ có bậc thiên lại mới có quyền ấy. Lấy ví dụ ngày nay có kẻ giết người. Có người hỏi tôi: “Nên giết kẻ ấy chăng?” thì tất tôi sẽ đáp: “Nên”. Nếu người đó lại hỏi: “Ai có quyền giết kẻ ấy?”, thì tôi sẽ đáp: “Chỉ quan sĩ sư mới có quyền ấy”. Ngày nay (Tề thì cũng như Yên, đều là chư hầu, vua Tề không phải là bậc thiên lại, mà lại đánh Yên thì) cũng như Yên đánh Yên, tôi lẽ nào xúi giục một việc như vậy. (Tề nhân phạt Yên. Hoặc vấn chi viết: “Khuyến Tề phạt Yên, hữu chư?” Viết: “Vị dã.” Thẩm Đồng vấn Yên khả phạt dư? Ngô ứng chi viết khả. Bỉ nhiên nhi phạt chi dã. Bỉ như viết: Thục khả dĩ phạt chi? Tắc tương ứng chi viết: Vi thiên lại, tắc khả dĩ phạt chi.
Kim hữu sát nhân giả, hoặc vấn chi viết: Nhân khả sát dư? Tắc tương ứng chi viết: Khả. Bỉ như viết: Thục khả dĩ sát chi? Tắc tương ứng chi viết: Vi sĩ sư tắc khả dĩ sát chi. Kim dĩ Yên phạt Yên, hà vi khuyến chi tai?)[8]
齊人伐燕。或問曰:“勸齊伐燕,有諸?”曰:“未也。”沈同問燕可伐與?吾應之曰可。彼然而伐之也。彼如曰:孰可以伐之?則將應之曰:爲天吏,則可以伐之。
今有殺人者,或問之曰:人可殺與?則將應之曰:可。彼如曰:孰可以殺之?則將應之曰:爲士師則可以殺之。今以燕伐燕,何爲勸之哉?
Bài đó cho ta hiểu thêm về hạng “thiên lại” mà cũng bổ túc bài 5, Vạn Chương, thượng về việc nhường ngôi: không phải ông vua nào muốn nhường ngôi cho ai cũng được, nhường không phải phép (nghĩa là không hợp ý Trời, ý dân) thì có tội với dân. Vua Yên chỉ vì muốn được người ta khen là có đức như vua Nghiêu, vua Thuấn, mà đem nước nhường cho Tử Chi, nhưng Tử Chi không có tài, đức, cầm quyền được ba năm thì nước Yên đại loạn, mà bị Tề đem quân đánh, chiếm được một cách dễ dàng. Các vua chư hầu cùng tính với nhau đem binh cứu Yên. Tề Tuyên vương lo lắng, hỏi Mạnh tử.
Mạnh tử khuyên:
- Các nước trong thiên hạ vẫn đều sợ sức mạnh của Tề; nay đất Tề lại rộng gấp hai (vì chiếm được Yên), nhưng không thi hành nhân chính, nên các chư hầu mới động binh đánh Tề. Vậy thì nhà vua nên mau mau ra lệnh phóng thích các người già cả và các trẻ em của Yên, ngưng lại việc dời (tức cướp) các bảo vật của Yên, mà bàn tính với dân Yên đặt lên một vị vua rồi rút quân về, như vậy thì còn kịp tránh việc binh đao với các nước khác. (Lương Huệ vương, hạ - bài II).
Trước đời Xuân Thu từ lâu, dân tộc Trung Hoa, cũng như mọi dân tộc trong nền văn minh nông nghiệp, đã có quan niệm hết thịnh thì tới suy, hết suy tới thịnh. Vì thịnh suy hữu thời là một hiện tượng thiên nhiên, dân tộc làm ruộng, trồng trọt nào cũng để ý tới rất sớm: trăng khuyết rồi tròn, nước ròng rồi lớn, hết ngày tới đêm, bốn mùa qua lại, cây cỏ tươi tốt về xuân hạ rồi tàn tạ về thu đông, còn con người trẻ rồi già, hết đời cha tới đời con...
Nhưng áp dụng luật đó vào chính trị, ôn lại quá khứ mà định cho mỗi thời một khoảng là bao nhiêu năm thì là sáng kiến của Mạnh tử, sau này được nhiều người tin, chẳng hạn Tư Mã Thiên, đầu đời Hán.
Thuyết “nhất trị nhất loạn” được Mạnh tử trình bày cặn kẽ trong bài 9, Đằng Văn công, hạ. Ông bảo một môn đệ là Công Đô tử:
Từ khi Trời sinh ra loài người đến nay đã lâu rồi, cứ một đời trị lại một đời loạn. (Thiên hạ chi sinh cửu hĩ, nhất trị nhất loạn).
天下之生久矣,一治一亂.
“Đương thời vua Nghiêu, các dòng nước bị ngăn chảy nên chảy nghịch, nước ngập tràn cõi Trung Quốc. Các giống rắn rồng ở lẫn lộn với người trên mặt đất, dân không có nơi để ở yên. Kẻ ở dưới thấp phải làm chòi mà ở, kẻ ở trên cao phải đào hang mà trú ngụ. Kinh Thư chép: nước tràn, ta nên phòng bị. Nước tràn bờ là nạn lụt (hồng thủy) đấy”.
Đó là một thời loạn.
“Vua Thuấn sai ông Vũ trị thủy. Ông Vũ đào vét những chỗ bế tắc để cho nước sông chảy ra biển. Ông đuổi rắn rồng ra nơi đồng xa cỏ rậm. Các dòng nước mới theo chiều đất mà chảy, đó là mấy sông Giang, Hoài, Hà, Hán. Những cái ngăn trở sông rạch đã dẹp xong, loài chim loài thú hại người đều bị tiêu diệt, từ đó nhân dân mới được đất bằng mà ở”. Đó là một thời trị.
“Vua Nghiêu, vua Thuấn đã mất, đạo trị quốc của hai bậc thánh đó mỗi ngày một suy. Những ông vua bạo ngược nối nhau mà ngất ngưởng trên ngai; họ phá cung tường, nhà cửa của bách tính để đào ao xây hồ, dân chúng chẳng có chỗ an nghỉ. Họ lấy ruộng đất của bánh tính làm vườn bách thảo, bách thú, khiến dân thiếu ăn thiếu mặc. Lại thêm những tà thuyết, bạo hạnh nổi lên. Vườn bách thảo, bách thú, ao, hồ, bái (hồ trồng hoa), đầm càng nhiều thì các giống chim và thú qui tụ càng đông. Tới đời vua Trụ, loạn đến cực điểm”. Đó lại là một thời loạn nữa.
“Bấy giờ ông Chu Công giúp ông Võ Vương, giết vua Trụ, phạt nước Yên, ba năm mới giết được vua nước Yên, đuổi Phi Liêm (kẻ sủng ái của vua Trụ) ra tận góc biển mà giết. Năm chục vua chư hầu (theo nhà Thương, tức theo vua Trụ) bị Võ Vương tiêu diệt hết. Những đoàn thú như cọp, beo, tê, voi (vua Trụ nuôi), ông thả ra và đuổi đi xa. Thiên hạ rất mừng rỡ”. Đó là một thời trị nữa.
“Rồi đời càng suy, gạo càng kém, những tà thuyết, bạo hạnh lại nổi lên, có kẻ bề tôi giết vua, có kẻ làm con giết cha”. Đó lại là một thời loạn nữa. Khổng tử sợ, mới soạn bộ Xuân Thu, chép hành vi các vua để răn đời (...).
“Ngày nay bậc thánh vương không ra đời, các vua chư hầu thì luông tuồng, mà hạng xử sĩ thì bàn ngang luận càn, học thuyết của Dương Chu và Mặc Địch lan tràn thiên hạ, khi bàn bạc người nào không theo Dương thì theo Mặc. Dương chỉ biết có mình, như vậy là không có vua. Mặc thương tất cả mọi người như nhau, như vậy là không có cha. “Không vua, không cha, tức là cầm thú”. Loạn cực rồi.
Thuyết nhất trị nhất loạn đó đúng. Nhưng Mạnh tử còn bảo thêm rằng cứ 500 năm lại trở lại một thời trị, rồi lấy sử ra để chứng thực (coi lại chương IV). Và ông tính từ Thành Thang đến ông, được non 1.500 năm, nên hi vọng đã đến thời thịnh.
Hồi ông mới tới nước Tề, thấy Tề Tuyên vương thành thực, có thiện chí, có chút lòng trắc ẩn đối với loài vật nên tin rằng nếu thuyết phục được Tuyên vương theo ông thì Tề có thể thống nhất Trung Quốc, chấm dứt một thời loạn đã kéo dài mấy trăm năm.
Có lần ông bảo Tuyên vương không phải là người “bất trí” nghĩa là cũng sáng suốt đấy, nhưng ông chỉ yết kiến, khuyên bảo nhà vua trong những buổi họp triều, rồi khi ông thoái triều thì những kẻ tiểu nhân xen vào, làm nguội lạnh chí khí của vua đi, nên Tuyên vương chưa làm được gì cả (Cáo tử, thượng - bài 9).
Nếu Tuyên vương theo ông thì lập nên vương nghiệp dễ như lật bàn tay:
“Người nước Tề có câu: “Làm việc gì tuy cần có trí tuệ mà không bằng thừa được cái thế, tuy cần có tư cơ (tài liệu, nền tảng để làm việc), nhưng không bằng chờ được cái thời”. Theo như thời bây giờ thì dễ làm lắm. (Là vì) Đời nhà Hạ, nhà Ân, nhà Chu vào lúc đương thịnh, chưa có đất rộng hơn ngàn dặm, mà Tề bây giờ có đất rộng hơn ngàn dặm rồi. Tiếng gà gáy, chó sủa liên tiếp nhau suốt đến bốn bề trong cõi, thế thì Tề lại có dân đông nữa rồi. Đất chẳng cần mở mang thêm nữa vì đã rộng rồi, dân cũng chẳng cần phải gia tăng nữa vì đã đủ rồi. Sẵn có thế lực như thế, nếu thi hành nhân chính thì dựng nên nghiệp vương (gồm thâu thiên hạ), chẳng ai ngăn cản nổi.
Vả lại đời vương giả (nghĩa là bậc vua thi hành nhân chính) mà không dấy lên, chưa bao giờ lâu hơn lúc này; nhân dân đói khổ điêu đứng vì ngược chính, chưa bao giờ tệ hơn lúc này. Lẽ thường, kẻ đói quá thì dễ dãi đối với thức ăn, kẻ khát quá thì dễ dãi đối với thức uống; Khổng tử bảo: “Ân đức lưu hành trong dân gian mau hơn mạng lệnh do trạm truyền đi”. Đương lúc này, một nước có vạn cỗ chiến xa (nước rất lớn như Tề) mà thi hành nhân chính thì dân vui mừng như bị treo ngược mà được mở dây trói vậy. Cho nên việc làm chỉ bằng nửa đời xưa mà thành công gấp hai người thời xưa, chỉ lúc này mới làm được như thế “. (Thả vương giả chi bất tác, vị hữu sơ ư thử thời giả dã, dân chi tiều tụy ư ngược chính, vị hữu thậm ư thử thời giả dã. Cơ giả dị vi thực, khát giả dị vi ẩm. Khổng tử viết: “Đức chi lưu hành tốc ư trí bưu nhi truyền mệnh”.
Đương kim chi thời, vạn thặng chi quốc hành nhân chính, dân chi duyệt chi, do giải đảo huyền dã. Cố sự bán cổ chi nhân, công tất bội chi. Duy thử thời vi nhiên. - Công tôn Sửu, thượng - bài I).
且王者之不作,未有疏於此時者也;民之憔悴於虐政,未有甚於此時者也。飢者易爲食,渴者易爲飲。孔子曰:德之流行,速於置郵而傳命。
當今之時,萬乘之國行仁政,民之悅之,猶解倒懸也。故事半古之人,功必倍之。惟此時爲然。
Rốt cuộc, đạo ông chẳng thực hiện được chút gì, ông hoàn toàn thất vọng, rồi bỏ Tề, rầu rĩ tới nỗi một đệ tử là Sung Ngu phải hỏi:
- Thưa thầy, cơ hồ thầy không được vui? Trước kia, Ngu này thường nghe thầy dạy: “Người quân tử không oán Trời, không trách người”.
Mạnh tử đáp:
- Trước kia là thời khác, nay là thời khác. Cứ năm trăm năm có một bậc thánh vương ra đời mà thống nhất thiên hạ; trong thời gian ấy tất có những bậc hiền tài để danh ở đời. Từ vua Văn, vua Võ nhà Chu tới nay, đã trên bảy trăm năm[9]. Tính theo kì hạn 500 năm thì đã quá số rồi. Xét theo thời này là thời cực loạn thì có thể có một cuộc cách mạng để thiên hạ được bình trị rồi.
Nhưng Trời chưa muốn cho thiên hạ bình trị.
Nếu muốn thì hiện nay, không dùng thầy thì dùng ai? Được vậy thì lẽ nào chẳng vui?
Mạnh tử khứ Tề. Sung Ngu lộ vấn viết:
Phu tử nhược hữu bất dự sắc nhiên. Tiền nhật, Ngu văn chư phu tử viết: Quân tử bất oán thiên, bất vưu nhân.
Viết:
- Bỉ nhất thời, thử nhất thời dã. Ngũ bách niên tất hữu vương giả hưng, kì gian tất hữu danh thế giả. Do Chu nhi lai, thất bách hữu dư tuế hĩ, dĩ kì số tắc quá hĩ, dĩ kì thời khảo chi, tắc khả hĩ.
Phù thiên vị dục bình trị thiên hạ dã. Như dục bình trị thiên hạ, đương kim chi thế, xá ngã, kì thùy dã? Ngô hà vi bất dự tai?- Công tôn Sửu, hạ - bài 13).
孟子去齊。充虞路問曰:夫子若有不豫色然。前日,虞聞諸夫子曰:君子不怨天,不尤人。
曰:彼一時,此一時也。五百年必有王者興,其間必有名世者。由周而來,七百有余歲矣,以其數則過矣,以其時考之,則可矣。
夫天未欲平治天下也。如欲平治天下,當今之世,舍我其誰也?吾何爲不豫哉?
Bài 38, Tận Tâm hạ, ở cuối bộ, ông cũng than thở loạn đã lâu quá cái hạn 500 năm rồi mà sao chưa thấy có mòi trị. (Coi chương IV ở trên).
Ông thật là người ưu thời mẫn thế. Không rõ về già ông có nhận thấy cái luật 500 năm đó của ông sai không? Ông mất (-289) rồi, Trung Quốc còn loạn thêm 68 năm nữa, đến khi Tần Thủy Hoàng diệt được Tề mà thống nhất toàn cõi (-221). Nhưng thực ra, suốt triều Tần, Trung Hoa không thể gọi là trị được, phải đợi đến năm -206. Hán Cao tổ lên ngôi, mới bắt đầu một thời bình trị, mà về tài đức Cao tổ khó làm cho một người như Mạnh tử phục được. Vậy là từ khi Võ vương mất, phải đợi 909 năm mới có một thời trị, chứ không phải 500 năm (-1115 –206).
Chú thích:
[1] Tức như ngày nay một bộ trưởng (quan khanh) lãnh lương bằng 4 x 2 x 2 x 2 = 32 lần một thư kí (hạ sĩ ). Ví dụ một thư kí lãnh lương 10.000 $ thì một bộ trưởng lãnh 320.000$. “Cây quạt lương bổng” (éventail des salaires) thời đó mở rộng hơn thời nay.
[2] Mỗi thước thời đó dài khoảng một gang tay, vậy năm thước dài khoảng một mét bây giờ.
[3] Học giả ở đây theo nghĩa xưa chỉ có nghĩa là người học đạo.
[4] Nên so sánh chính sách trọng hiền đó với chủ trương của bọn bần sĩ thời biện sĩ thời Chiến quốc trong bài Trọng kẻ hiền thì nguy cho nước - (Chiến Quốc sách - Trung-sơn sách: bài 7).
Một biện sĩ, Lí Tì, khuyên Triệu đánh Trung Sơn (vì vua Trung Sơn trọng hiền sĩ ) bảo Vũ Linh vương: “Đề cử hiền sĩ thì dân vụ danh mà bỏ cái gốc, vời kẻ hiền về triều thì kẻ cày ruộng làm biếng mà chiến sĩ hóa yếu hèn. Như vậy mà không mất nước, là việc chưa từng thấy”.
[5] Sách in “của”, tôi sửa lại thành “với”. (Goldfish).
[6] Từ năm 96, năm Nerva lên ngôi Hoàng đế đến năm 181, năm Marc Aurèle mất.
[7] Nho giáo, một triết lí chính trị (Nguyễn Hiến Lê, 1958).
[8] Truyện này chép lại trong Chiến quốc sách - (Yêu sách -9), nhưng lại bảo Mạnh tử khuyên Tề Tuyên vương: “Lúc này mà đánh Yên là dùng thời cơ của vua Văn vua Võ: không nên bỏ lỡ. (Chiến quốc sách không đáng tin).
[9] Võ vương mất - 1115; mà lúc này Mạnh tử khoảng sáu chục tuổi, tức vào khoảng năm -310. Vậy có thể tính là non 800 năm.