Chương 6 TƯ TƯỞNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Mạnh tử là người đầu tiên dùng chữ nhân chính “仁 政” và hai phần ba hay ba phần tư bộ Mạnh Tử nói về nhân chính. Ông lại cho nghĩa “義” luôn luôn đi kèm với “仁” nhân, và tuyệt nhiên không nói tới lợi, dù là lợi cho nước, vì muốn mưu lợi cho nước mình thì phải cướp của nước người, loạn do đó mà phát. Mở đầu bộ Mạnh Tử, ông bảo Lương Huệ vương:
- Vua cần gì phải nói tới lợi? Chỉ nên nói tới nhân nghĩa mà thôi. Nếu bậc quốc vương bảo: Có cách gì để làm lợi cho nước ta? Thì quan Đại phu cũng sẽ bảo: Có cách gì làm lợi cho nhà ta? và kẻ sĩ và hạng bình dân cũng sẽ bảo: Có cách gì làm lợi cho thân ta? Thế là trên dưới đều tranh nhau vì lợi mà nước sẽ nguy.
Nguy ở chỗ kẻ dưới sẽ vì lợi mà giết bề trên. Chủ một đại tộc có ngàn cỗ xe (nước chư hầu) sẽ giết vua một nước có vạn cỗ xe (thiên tử), chủ một gia tộc có trăm cỗ xe (đại phu) lại giết vua một nước có ngàn cỗ xe. Như bề trên có một vạn mà mình được một ngàn, có một ngàn mà mình được một trăm, không phải là không nhiều rồi. Cho nên, nói đến lợi trước, đến nghĩa sau thì không đoạt hết của kẻ kia, mình không vừa lòng.
Trái lại, chưa có người nào trọng điều nghĩa mà lại bỏ bê cha mẹ, chưa có người nào trọng điều nghĩa mà lại nghĩ tới mình trước rồi mới nghĩ tới vua. Vậy thì vua nên nói về nhân nghĩa mà thôi.
Cần gì phải nói tới lợi?
Vương hà tất viết lợi? diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ. Vương viết: Hà dĩ lợi ngô quốc? Đại phu viết: Hà dĩ lợi ngô gia? Sĩ, thứ nhân viết: Hà dĩ lợi ngô thân? Thượng hạ giao chính lợi, nhi quốc nguy hĩ.
Vạn thặng chi quốc, thí kì quân giả tất thiên thặng chi gia. Thiên thặng chi quốc, thí kì quân giả tất bách thặng chi gia. Vạn thủ thiên yên, thiên thủ bách yên, bất vi bất đa hĩ. Cẩu vi hậu nghĩa nhi tiện lợi, bất đoạt bất yếm.
Vị hữu nhân nhi di kì thân giả dã, vị hữu nghĩa nhi hậu kì quân giả dã. Vương diệc viết nhân nghĩa thi dĩ hĩ, hà tất viết lợi? - Vương Huệ vương, thượng - bài I).
王何必曰利?亦有仁義而已矣。王曰:何以利吾國?大夫曰:何以利吾家?士庶人曰:何以利吾身?上下交徵利而國危矣。
萬乘之國,弒其君者,必千乘之家。千乘之國,弒其君者,必百乘之家。萬取千焉,千取百焉,不爲不多矣。苟爲後義而先利,不奪不饜。
未有仁而遺其親者也,未有義而後其君者也。王亦曰仁義而已矣,何必曰利?
Trong toàn bộ có trên hai chục bài đề cao nhân nghĩa mà đả đảo lợi. Tôi chỉ xin dẫn một bài nữa, bài 4, Cáo tử, hạ.
Tống Khanh (có sách chép là Tống Kiên, hoặc Tống Vinh), một người theo phái Mặc tử, (lớn hơn Mạnh tử độ mười tuổi) sắp đi qua nước Sở. Mạnh tử gặp ở Thạch Khâu, hỏi:
- Tiên sinh đi đâu đó?
Tống Khanh đáp:
- Tôi nghe nói Tần và Sở sắp tấn công nhau.Tôi định yết kiến vua Sở, khuyên nên bãi binh đi. Nếu vua Sở không bằng lòng thì tôi sẽ yết kiến vua Tần, khuyên bãi binh. Trong hai vua ấy, tất có một ông nghe lời tôi.
Mạnh tử bảo:
- Kha tôi xin được hỏi rõ một điều, lí lẽ chính ông sẽ đưa ra như thế nào? Ông sẽ thuyết phục hai vua đó ra sao?
- Tôi sẽ vạch rõ chiến tranh bất lợi cho hai nước ra sao.
- Ý chí của ông rất lớn, nhưng lí lẽ ông đưa ra thì không tốt. Ông đem cái lợi mà nói với vua Tần, vua Sở, mà họ vui về điều lợi, bãi binh, thì binh lính sẽ vui vẻ nghỉ ngơi mà thích cái lợi; kẻ làm bề tôi sẽ chỉ vì ham lợi mới thờ vua, kẻ làm con sẽ chỉ vì ham lợi mới thờ cha, kẻ làm em sẽ chỉ vì ham lợi mới thờ anh. Vậy là vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc bỏ hết điều nhân, điều nghĩa, chỉ nghĩ đến lợi trong sự giao thiệp với nhau. Như thế mà nước chẳng diệt vong thì là điều chưa từng có.
Còn như ông đem nhân nghĩa mà nói với vua Tần, vua Sở, họ vui về điều nhân điều nghĩa mà bãi binh thì binh lính sẽ vui vẻ nghỉ ngơi mà thích nhân nghĩa; kẻ bề tôi sẽ vì nhân nghĩa mà thờ vua, kẻ làm con sẽ vì nhân nghĩa mà thờ cha, kẻ làm em sẽ vì nhân nghĩa mà thờ anh. Vậy là vua tôi, cha con, anh em sẽ bỏ cái lợi đi, nghĩ đến nhân nghĩa mà giao thiệp với nhau. Như thế mà nước chẳng hưng vượng, là điều chưa từng có. Cần chi phải nói tới lợi?”
Tôi chưa từng thấy triết gia vào thâm oán chữ lợi như Mạnh tử; cứ nghe ai nói đến lợi là ông đả đảo: “Hà tất viết lợi?”
Trái lại, ông rất trọng nhân, nghĩa:
- Có nhân thì được vinh dự, bất nhân thì chịu nhục nhã. (Công Tôn Sửu, thượng - bài 4).
- Đức nhân là chỗ ở yên ổn của người đời; đức nghĩa là con đường chính đại của người đời (Nhân, nhân chi an trạch dã; nghĩa, nhân chi chính lộ dã - Li Lâu, thượng - bài 10).
仁, 人之安宅也; 義, 人之正路也。
- Con người chỉ khác cầm thú vì biết nhân nghĩa mà thôi. Li Lâu, hạ - bài 19).
Sống thì ta vẫn muốn, làm việc nghĩa thì ta cũng ham. Nếu chẳng được hai cái đó một lượt thì ta đành bỏ mạng sống mà giữ lấy tiết nghĩa. (Sinh diệc ngã sở dục dã, nghĩa diệc ngã sở dục dã. Nhị giả bất khả đắc kiêm, xả sinh nhi thủ nghĩa giả dã - Cáo tử, thượng - bài 10).
生,亦我所欲也,義,亦我所欲也,二者不可得兼,舍生而取義者也。
- “Một ông vua mà thích làm điều nhân thì không ai địch nổi” (Tận Tâm, hạ - bài 4).
Vì vậy yết kiến ông vua nào, ông cũng chỉ đem đạo nhân nghĩa ra giảng, hi vọng tìm được hoặc đào tạo được một vị nhân quân.
Hai nhiệm vụ quan trọng nhất của vị nhân quân là dưỡng dân (nuôi dân) và giáo dân (dạy dân), tức là nhiệm vụ “phú, giáo” của Khổng tử. Mà hễ dưỡng dân, bảo vệ dân thì không vô cớ gây chiến tranh. Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt xét từng điểm đó một.
*
* *
Dưỡng dân và giáo dân
Thời Xuân Thu rồi thời Chiến Quốc, trong ba bốn trăm năm chiến tranh liên tiếp, dân chúng Trung Hoa chịu biết bao nỗi điêu đứng, lời ta oán, giọng thổn thức chắc phải đầy trong ca dao mà sao đời sau không lưu lại được bài nào cả, như những bài Kích cổ, Dương chi thủy, Quân tử vu dịch... trong kinh Thi? Không có ai sưu tầm hay bị Tần Thủy Hoàng đốt hết? Mà trong số “bách gia chư tử”, cũng chẳng thấy ai cất tiếng mạt sát bọn cầm quyền, bênh vực dân đen, ngoài Mạnh tử. Lòng thương dân của ông thật thắm thiết, trong mười bốn chương, gần như chương nào cũng biểu lộ nỗi ưu ái của ông, yết kiến vua chư hầu nào, ông cũng nhắc họ cái bổn phận dưỡng dân. Ông là người đầu tiên, có lẽ duy nhất nữa, vạch rõ một chế độ kinh tế để cứu dân. Ông quả là một bậc “đại nhân” (có đức nhân rất lớn).
Có nhiều bài trình bày chế độ kinh tế ấy; ba bài quan trọng nhất là bài 3, Lương Huệ vương, thượng, để giảng cho Lương Huệ vương nghe, bài 7, Lương Huệ vương, thượng, để thuyết Tề Tuyên vương, và bài 3, Đằng Văn công, hạ, để trả lời Đằng Văn công.
Ba bài ấy có những chỗ trùng nhau, nhưng tôi cũng xin chép cả lại dưới đây (vì theo tôi đều là những bài rất quan trọng trong bộ Mạnh Tử, rồi sẽ phân tích sau.
Bài 3, Lương Huệ vương, thượng.
“(...) Nếu không làm trái thời tiết của kẻ làm ruộng, (chẳng hạn đương mùa cấy, gặt mà bắt họ làm xâu), thì lúa thóc ăn chẳng hết.
Nếu cấm dân bủa lưới mắt nhỏ quá trong các bưng, hồ thì cá ăn chẳng hết. Nếu cấm đốn cây phá rừng sái mùa thì cây dùng chẳng hết. Lúa thóc, cá, rùa, ba ba mà dư ăn, cây mà dư dùng thì dân nuôi được người sống, chôn được người chết, không có gì oán hận cả.
Khiến cho dân nuôi được người sống, chôn được người chết, không có gì oán hận, thì là bắt đầu thực hiện được vương đạo rồi.
“Nếu mỗi người dân được cấp cho năm mẫu đất để ở và trồng dâu thì người năm chục tuổi có lụa mà mặc. Nếu chẳng làm hại sự sinh sản của gà, heo, chó thì người bảy chục tuổi có thịt mà ăn. Nếu không chiếm mất thì giờ cấy gặt của những gia đình làm trăm mẫu[1] ruộng thì những người trong gia đình ấy không phải đói khổ. Lo việc giáo dục cẩn thận trong các trường tường và tự[2], dạy cho trẻ biết hiếu, đễ thì những người đầu bạc hoa râm khỏi phải nặng nhọc đội, gánh ở ngoài đường.
Trong nước mà người bảy chục tuổi có lụa mà mặc, có thịt mà ăn, dân chúng khỏi đói, khỏi lạnh mà không lập được nghiệp vương, thì là điều chưa thấy” (Ngũ mẫu chi trạch, thụ chi dĩ tang, ngũ thập giả khả dĩ ý bạch hĩ. Kê, đồn cẩu trệ chi súc, vô thất kỳ thời, thất thập khả dĩ thực nhục hĩ. Bạch mẫu chi điền, vật đoạt kì thì, sổ[3] khẩu chi gia khả dĩ vô cơ hĩ. Cẩn tường tự chi giáo, thân chi dĩ hiếu đễ chi nghĩa, ban bạch giả bất phụ đái ư đạo lộ hĩ. Thất thập giả[4] ý bạch, thực nhục, lê dân bất cơ, bất hàn, nhiên nhi bất vương giả, vị chi hữu dã. Bài 7, Lương Huệ vương, thượng).
五畝之宅,樹之以桑,五十者可以衣帛也。雞,豚狗彘之畜,無失其時,七十者可以食肉矣。百畝之田,勿奪其時,數口之家可以無飢矣。謹庠序之教,申之以孝悌之義,頒白者不負戴於道路矣。七十者衣帛,食肉,黎民不飢,不寒,然而不王者,未之有也。
“Không có hằng sản (hằng sản là lúc nào cũng có sẵn tiền) mà có hằng tâm (hằng tâm là lòng lúc nào cũng tốt) thì chỉ có bậc “sĩ” (tức có đạo đức, học vấn cao) mới được như vậy. Còn hạng thường dân hễ không có hằng sản thì không có hằng tâm.
Không có hằng tâm thì phóng túng, gian dối, bậy bạ, chẳng cái gì là chẳng làm, đến khi họ phạm pháp thì người cầm quyền vin vào đó mà chém giết họ, không khác gì đặt lưới mà bẫy họ. Bậc nhân đức ngồi ở trên trị dân mà lại đặt lưới bẫy dân sao?”
(Vô hằng sản nhi hữu hằng tâm giả, duy sĩ vi năng. Nhược dân tắc vô hằng sản, nhân vô hằng tâm. Cẩu vô hằng tâm, phóng tịch tà, xỉ, vô bất vi dĩ. Cập hãm ư tội, nhiên hậu tòng nhi hình chi, thị võng dân dã. Yên hữu nhân nhân tại vị, võng dân nhi khả vi dã?).
無恆產而有恆心者,惟士爲能。若民則無恆產,因無恆心。苟無恆心,放辟邪,侈,無不爲已。及陷於罪,然後從而刑之,是罔民也。焉有仁人在位,罔民而可爲也?
“Vì vậy mà bậc minh quân phải điều chế điền sản cho dân để trên thì đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới thì đủ sức nuôi vợ con, năm được mùa thì mãi mãi no đủ, năm mất mùa thì cũng khỏi chết đói. Như vậy rồi đưa họ vào con đường thiện, họ mới dễ theo.
“Ngày nay, điều chế điền sản cho dân, trên họ không đủ sức phụng dưỡng cha mẹ, dưới không đủ sức nuôi vợ con, năm được mùa thì vẫn khổ hoài, năm mất mùa thì không khỏi chết đói. Như vậy dân chỉ lo khỏi chết mà còn sợ không được thay, đâu có rảnh mà làm việc lễ, nghĩa? Vua muốn thi hành nhân chính thì sao bằng trở về phép căn bản”.
(Tiếp theo là một đoạn y hệt đoạn tôi đã phiên âm và chép chữ Hán ở cuối bài 3, Lương Huệ vương, thượng, đầu trang 110 chỉ khác có vài chữ)[5].
Bài 3, Đằng Văn công, thượng. Bài này dài hơn cả. Đằng Văn công hỏi về cách trị nước. Mạnh tử đáp:
“Nhà cầm quyền không thể bỏ lỡ việc sinh nhai của dân (...) Thường tình của dân là có hằng sản thì mới có hằng tâm, không có hằng sản thì không có hằng tâm. Không có hằng tâm thì phóng túng, gian dối, bậy bạ, chẳng cái gì là chẳng làm, đến khi phạm pháp thì người cầm quyền vin vào đó mà chém giết họ, như vậy không khác gì đặt lưới mà bẫy họ. Bậc nhân đức ngồi ở trên mà trị dân mà lại đặt lưới bẫy dân sao?”[6]
Vậy cho nên bậc hiền quân phải khiêm cung, tiết kiệm, lễ độ với người dưới, lấy thuế của dân có chừng mực.
Dương Hổ nói: “Làm giàu thì bất nhân, làm điều nhân thì không giàu”.
Đời nhà Hạ, mỗi người chủ gia đình được phát cho năm chục mẫu ruộng, mỗi mùa phải đóng thuế cống bằng huê lợi của năm mẫu. Đời Ân, mỗi người chủ gia đình được phát cho bảy chục mẫu mà được hưởng trọn huê lợi nhưng tám gia đình phải chung sức làm một khoảng ruộng công ở giữa, phép đó gọi là trợ. Đời Chu, mỗi chủ gia đình được phát cho trăm mẫu, được hưởng trọn huê lợi, nhưng tám gia đình phải chung sức làm một khoảng ruộng công ở giữa, phép đó gọi là triệt. Ba cách đó tuy có khác nhưng đều là lấy một phần mười huê lợi của dân. Triệt có nghĩa là thông dụng, [7] mà trợ có nghĩa là giúp”.
(Theo một số học giả Trung Hoa gần đây thì phép trợ và triệt là chế độ cộng sản nguyên thủy còn sót lại của Trung Hoa. Mỗi miếng đất vuông vức 630 mẫu (phép trợ) hoặc 900 mẫu (phép triệt) chia làm chín phần bằng nhau, mỗi phần 70 hoặc 100 mẫu. Tám phần chung quanh chia cho tám gia đình; phần ở giữa để lại một ít làm chỗ ở cho tám gia đình còn lại bao nhiêu thì tám nhà cầy cấy chung nộp lúa cho nhà vua.[8] Hình miếng đất khi chia như vậy, giống chữ tỉnh, nên gọi là phép tỉnh điền).
Ông Long Tử - một người hiền thời xưa - nói:
“Về việc chia đất và thu thuế, phép trợ dễ chịu hơn hết, tệ nhất là phép cống. Vì theo phép cống, người ta lấy số trung bình thu hoạch được trong nhiều năm mà định số thuế phải nộp mỗi năm, như vậy năm được mùa, lúa thóc dư dật, dù chính phủ có thu nhiều cũng không phải là bạo ngược, thế mà chính phủ lại thu ít. Tới năm mất mùa, huê lợi chỉ đủ trả tiền bón phân mà chính phủ vẫn bắt phải nộp đủ số (Độc hại như vậy). Làm cha mẹ dân mà để cho dân lấm lét ngó mình, để cho họ cực nhọc suốt năm mà không đủ nuôi cha mẹ, rồi phải đi vay nợ để đóng đủ số thuế, khiến người già và trẻ con chết ở đường mương, rãnh nước, thì làm cha mẹ dân ở chỗ nào? (...)
Ngoài ra, chính quyền phải lập những trường tường, tự, học, hiệu, để dạy dân. Tường là trường dạy dân biết phụng sự người già cả; hiệu là trường dạy dân về văn hóa, đạo đức; tự là trường dạy bắn cung. Đời Hạ gọi là hiệu, đời Ân gọi là tự, đời Chu gọi là tường. Còn học là trường Quốc học ở kinh đô, cả ba đời Hạ, Ân, Chu đều dùng tên ấy. Các trường ấy đều dạy cho dân rõ nhân luân (đạo luân thường).
Bề trên mà hiểu rõ và giữ luân thường thì kẻ dưới thân mến, hòa mục với nhau. Sau này có bậc vương giả ra đời tất lại dùng phép ấy, mà vua Đằng (tuy chẳng làm chủ thiên hạ, cũng) sẽ là bậc thầy làm khuôn mẫu cho các bậc vương giả ấy” (...).
Sau đó, Đằng Văn công lại sai một viên quan tên là Tất Chiến tới hỏi về phép tỉnh điền. Mạnh tử đáp:
“(...) Muốn làm nhân chính thì trước hết phải vạch ranh giới ruộng đất. Nếu ranh giới không minh thì mỗi khu trong tỉnh địa (đất chia theo phép tỉnh điền) không đều nhau, thuế không đều nhau mà số lúa phát cho quan không được công bình. Vì vậy bọn vua tàn bạo và quan tham nhũng lơ là về việc vạch ranh giới (để ép dân đóng góp cho nhiều). Vạch ranh giới cho phân minh thì sự chia ruộng cho dân và phát bổng lộc cho quan sẽ được ổn định một cách dễ dàng”.
Và đây là đề nghị của Mạnh tử để áp dụng cho nước Đằng:
“Xin vua đối với người làm ruộng ở thôn quê thì dùng phép trợ, thâu một phần chín huê lợi; đối với người kinh thành thì để họ tự nộp một phần mười huê lợi[9]. Các quan khanh trở xuống đều được cấp khuê điền (ruộng để lấy huê lợi mà cúng tổ tiên) là năm chục mẫu mỗi người[10].
“Đối với những người trai chưa thành gia thất thì phát cho mỗi người hai mươi lăm mẫu.
“Người chết thì chôn ở làng, người sống không được bỏ làng mà đi nơi khác. Những người trong một làng và cùng chung một “tỉnh địa”, sáng cùng ra ruộng, chiều cùng về nhà, thân cận với nhau, tương trợ mà giữ gìn làng xóm, đau ốm thì nâng đỡ nhau, như vậy trăm họ sẽ thân ái, hòa mục với nhau.
“Đất vuông vức một dặm là một tỉnh, mỗi tỉnh có chín trăm mẫu[11]. Khu ở giữa là công điền. Tám nhà đều được cấp mỗi nhà 100 mẫu làm tư điền, và đều chung sức để làm khu công điền. Việc công làm xong rồi mới dám làm việc tư (...) Đại khái như vậy, còn muốn thi hành cho rộng rãi, hoàn toàn hơn thì tùy nhà vua và ông”.
Phân tích ba bài trích dẫn ở trên, chúng ta thấy:
1 - Mạnh tử đặc biệt chú trọng đến vấn đề kinh tế: không thể bỏ lơ công việc sinh nhai của dân được, vì đó là vấn đề căn bản cho sự sống còn của dân, là điều kiện cốt yếu cho tinh thần đạo đức của dân. Nếu dân đói rét, lo cứu sống không xong thì còn nghĩ gì đến liêm sỉ, lễ nghĩa nữa. Vậy phải làm sao cho dân có hằng sản rồi mới mong họ có hằng tâm được. Dưỡng dân và giáo dân là hai việc liên quan mật thiết với nhau; cho nên cả trong ba bài, hễ nói tới dưỡng dân, ông luôn luôn kèm thêm giáo dân vì ông nghĩ rằng ăn no mặc ấm, ở không mà không được dạy dỗ thì không khác gì cầm thú (Đằng Văn công, thượng - bài 4), và chính trị tốt không bằng giáo dục tốt. (Tận tâm, thượng - bài 14).
Nhưng ông cho dưỡng dân là việc cần nhất.
2 - Muốn dưỡng dân thì phải cho dân đủ đất làm ruộng, phải “chế sản” cho công bình. Ông theo chính sách tỉnh điền của đời Chu. Theo Maspéro trong cuốn La Chine antique (PUF - 1965), thì Tấn là nước đầu tiên bỏ chính sách tỉnh điền từ đời Xuân Thu (trang 267). Và theo Từ Hải thì Tần Hiếu công năm -350 bắt đầu bỏ chính sách tỉnh điền.
Tấn là đất cũ, Tần là đất mới. Vậy ta có thể đoán rằng thời Chiến Quốc, khi Mạnh tử đi thuyết các vua Lương, Tề, Đằng, đa số các nước đã bỏ chính sách tỉnh điền rồi, nước nào còn giữ thì cũng không được đúng nguyên tắc buổi đầu nữa. Người ta cho dân tự do khai thác thêm những đất mới để thu thuế được nhiều, mà nuôi binh lính. Vậy việc ông đề nghị với vua Đằng Văn công là một cuộc chia đất lại cho công bình, khỏi có người giàu quá người nghèo quá.
Không rõ vua Đằng có theo lời ông không, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng Mạnh tử đã ảnh hưởng đến hậu thế vì việc chia ruộng lại đó, các vua Trung Quốc, sau này cứ lâu lâu đem ra áp dụng lại.
Như đời Hán, Võ Đế và Vương Mãng đều muốn lấy đất của địa chủ lớn chia cho dân nghèo theo phép tỉnh điền; đời Lục Triều, nhà Tấn hạn chế số ruộng của hạng vương tôn và phát cho dân nghèo mỗi chủ gia đình bảy chục mẫu; đời Ngụy, mỗi chủ gia đình được cấp bốn chục mẫu, khi chết phải trả lại triều đình, thêm hai chục mẫu nữa cho đứt để truyền tử lưu tôn; đời Tống, Vương An Thạch cũng chủ trương nhiều cải cách xã hội để cho tình trạng “bất quân” bớt được phần nào. Chẳng riêng ở Trung Hoa, khắp thế giới, sự tập trung tài sản là một điều tự nhiên, không sao tránh được: những người tài giỏi, khôn lanh, siêng năng bao giờ cũng mỗi ngày một giàu thêm, và cái hố phân cách người nghèo và người giàu càng tăng, tới một lúc nào đó, sự “bất quân bất công” có thể gây nội loạn và nhà cầm quyền phải phân chia lại tài sản hoặc bằng cách bạo động, hoặc bằng cách ôn hòa. Như Will Durant đã nói trong chương VIII cuốn Bài học của lịch sử, lịch sử kinh tế không khác gì trái tim của xã hội, nó đập chậm chậm: trong thời gian trái tim phồng ra, của cải được một thiểu số tập trung lại, để rồi tới thời gian trái tim bóp lại thì nhất định sẽ phải phân phát ra để lưu thông. Mạnh tử hiểu luật đó và ông đề nghị với các vua chư hầu một cải cách ôn hòa.
3 - Ông không phải chỉ là một triết gia, mà còn là một chính trị gia, kinh tế gia nữa, nghĩ cả tới những tiểu tiết như: phải đạc điền lại mà vạch ranh giới ruộng đất cho phân minh, công bình, chia cho mỗi gia đình bao nhiêu mẫu ruộng và một số đất vườn để nhà nào cũng có thể trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa mặc, nuôi heo, gà lấy thịt ăn. Chế độ lí tưởng đó, không thời nào nhân loại thực hiện được và ngày nay càng khó thực hiện hơn nữa vì nạn kĩ nghệ hóa, nạn chiến tranh, nhất là nạn nhân mãn. Chúng ta có vô số tiện nghi mà ông cha chúng ta không có, nhưng đời sống của chúng ta ở đô thị không sung sướng bằng đời các cụ thời xưa có một khu vườn chung quanh nhà trồng giàn bàu, luống cải, nuôi mấy con gà, con vịt.
- Cấm dân dùng những lưới nhặt quá để bắt cá, bắt rùa, cấm đốn rừng không hợp thời, để cho những nguồn lợi đó khỏi bị tiêu diệt; về điểm đó, bài học của ông ngày nay vẫn còn đáng cho chúng ta nhớ: nhiều nhà chuyên môn về hải học, ngư nghiệp đã lo rằng chẳng bao lâu nữa vài loại cá biển như cá voi sẽ mất giống.
- Bổn phận nhà cầm quyền là không được làm trái thời cấy gặt của dân (nghĩa là đừng bắt họ làm xâu khi họ mắc công việc đồng áng); phải tiết kiệm, đừng xa xỉ mà bắt dân phải nai lưng ra đóng thuế. Có hai đoạn ông mạt sát bọn cầm quyền sống xa xỉ trên xương máu của dân. Một đoạn trong bài 4, Lương Huệ vương, thượng, ông mang Lương Huệ vương, mà tôi đã dẫn trong chương đầu; một đoạn nữa trong bài 4, Lương Huệ vương, hạ, ông mắng hết cả các vua chư hầu đương thời:
“(Ngày nay...) vua chư hầu khi xuất du thì dắt theo một đoàn hộ vệ rất đông, bắt dân chúng cung cấp lương thực, khiến cho dân đã đói lại phải nhịn ăn, đã làm cực nhọc lại phải hầu hạ nữa, không được nghỉ, họ liếc nhau mà cùng nhau trách vua. Vì vậy dân sinh oán vua. Vua đã trái lệnh thiên tử lại ngược đãi dân, đoàn tùy tùng ăn uống phung phí như nước đổ, mắc những tật lưu, liên, hoang, vong, đó là điều vua chư hầu đáng lo.
Lưu là thả trôi theo dòng mà quên về; liên là ngược dòng nước mà quên về; hoang là ham săn bắn mà không chán; vong là mê rượu trà mà không chán. (Sư hành nhi lương thực. Cơ giả phất thực, lao giả phất tức, quyến quyến tư sàm. Dân nãi tác thắc. Phương mệnh, ngược dân, ẩm thực nhược lưu; lưu, liên, hoang, vong, vi chư hầu ưu. Tòng lưu hạ nhi vong phản, vị chi lưu; tòng lưu thướng nhi vong phản, vị chi liên; tòng thú vô yếm vị chi hoang, lạc tửu vô yếm, vị chi vong)[12].
- Về thuế ruộng, ông dung hòa phép trợ và phép cống tùy nơi (thôn quê hay thành thị), nhưng qui tắc là phải đánh thuế sao cho dân đủ sức nộp.
Bài 27, Tận tâm, hạ, ông bảo: “Có thứ thuế nộp bằng vải hoặc sợi tơ (nhà trồng dâu và bông vải nộp trong mùa hạ); có thứ thuế nộp bằng lúa thóc (mùa thu); có thứ thuế nữa là sưu dịch (trong mùa đông, khi công việc đồng áng đã xong). Nhà cầm quyền chỉ nên thâu một thứ mà hoãn lại hai thứ kia, nếu thâu cả hai một lúc thì dân sẽ có kẻ chết đói, nếu thâu cả ba thứ một lúc thì dân sẽ cùng quẫn, cha con phải lìa nhau”.
- Ông mạt sát chế độ quan thuế, bảo: “Ngày xưa, đặt ra cửa quan để phòng ngừa trộm cướp, ngày nay đặt ra cửa quan cốt để làm trộm cướp. (Cổ chi vi quan dã, tương dĩ ngự bạo; kim chi vi quan dã, tương dĩ vi bạo - Tận tâm, hạ - bài 8).
古之爲關也,將以禦暴;今之爲關也,將以爲暴。
Là vì xưa đặt ra chỗ tuần phòng ở cửa ải, cửa sông, cửa bể để ngừa trộm cướp, ngày nay chỉ để thu thuế cho nhiều, khác gì cướp của dân.
- Chính sách xã hội của ông là đặc biệt cưu mang bốn hạng người quan, quả, độc, cô. Ông bảo Tề Tuyên vương: “Già mà góa vợ gọi là quan, già mà góa chồng gọi là quả, già mà không có con gọi là độc, trẻ mà mồ côi cha gọi là cô. Đó là bốn hạng cùng khổ nhất trong thiên hạ, không biết nhờ cậy vào ai. Vua Văn vương bắt đầu trị nước, thi nhân, lưu tâm tới bốn hạng người ấy trước nhất “ (Lão nhi vô thê viết quan, lão nhi vô phu viết quả, lão nhi vô tử viết độc, ấu nhi vô phụ viết cô. Thử tứ giả, thiên hạ chi cùng dân nhi vô cáo giả. Văn vương phát chính thi nhân, tất tiên tư tứ giả - Lương Huệ vương, hạ - bài 5).
老而無妻曰鰥,老而無夫曰寡,老而無子曰獨,幼而無父曰孤。此四者,天下之窮民而無告者。文王髮政施仁,必先斯四者。
Người già mà không quan, quả hay độc, thì cũng được ông rất ưu ái, lo cho chu đáo: trong ba bài dẫn ở đầu chương này, có hai bài ông nhắc tới họ, mong cho họ được mặc áo lụa, ăn thịt và khỏi phải đội, gánh nặng ở ngoài đường.
Chương trình kinh tế và xã hội của ông thật đầy đủ, công bằng, nhân từ, ngày nay chúng ta còn xa mới đạt được lí tưởng của ông: những người già trong xã hội chúng ta, nhất là ở phương Tây thật cô độc, bị xã hội sa thải, con cháu bỏ bê, sống trong các dưỡng lão viện mà chờ chết. Tình cảnh họ thê thảm tới nỗi nữ văn hào Mĩ Pearl Buck đã phải mạt sát văn minh Âu, Mĩ đối với người già thật bất nhân, nên noi gương thời cổ của Trung Hoa mà cải tạo lại xã hội.
*Không vô cớ gây chiến
Chiến Quốc sách, bài Tề V.l, có một đoạn tả được một phần nhỏ cái họa của chiến tranh:
“Chiến tranh là tàn mạt: nghe tin có chiến tranh, kẻ sĩ thì gom của riêng mà cấp cho binh đội; người ở chợ thì gom lương thực mà cấp cho lính cảm tử; quan trên ra lệnh chặt đòn ngang của xe để làm củi, giết bò (cày) để đãi lính, như vậy là đưa binh đội đến chỗ suy nhược. Người thường thì cầu khấn, vua chúa thì tế lễ các tử sĩ, từ kinh đô tới các huyện nha đều đặt bàn thờ cúng vái, ấp nào có chợ thì cũng ngưng mọi hoạt động mà phục vụ nhà vua, như vậy là làm cho nước hóa rỗng không. Hôm trước hết chiến tranh thì hôm sau lo chôn người, giúp đỡ kẻ bị thương; dù có công thắng trận, nhưng hao tổn về quân phí, nhân dân bi thảm khóc lóc, cũng đau lòng cho vua. Nhà nào có người chết thì khuynh gia, bại sản vì việc ma chay; nhà nào có người bị thương thì dốc hết tiền lo việc thuốc thang; nhà nào không có người chết hoặc bị thương thì bày tiệc mừng, rượu chè chơi bời, phí tổn cũng không kém những nhà kia. Phí tổn vào chiến tranh, mười năm thu lúa cũng chưa đủ bù. Quân đội mà chiến đấu xong thì mâu và kích gãy, vòng và dây cung đứt, nỏ hao tổn, xe hư hỏng, ngựa mệt mỏi, tên mất đi già nửa, áo giáp cùng binh khí triều đình phát ra, kẻ sĩ và đại phu giấu đi một phần, sĩ tốt lấy trộm một phần[13], dù thu thuế ruộng mười năm cũng chưa đủ bù vào.
Đánh thành là việc tốn kém, quần áo dân chúng rách hết, đem binh xa và chiến xa để phá thành, người dân ở nhà thì phải cùng nhau làm việc, trốn dưới hang, hầm, tiền của dùng hết, chiến sĩ khốn khổ vì công việc xây đắp, tướng thì không lúc nào bỏ áo giáp, một vài tháng mà hạ được thành đã là mau rồi. Người trên mệt mỏi, không còn lo việc giáo hóa dân được nữa, dân chúng thì vì chiến tranh mà bỏ cả việc làm ăn; cho nên ít khi hạ được ba thành mà thắng được địch”.
Hạ được ba thành mà chưa thắng được địch thì sức mình đã suy nhiều, khó mà chiến thắng được nữa; phải lo rút quân về, vì vậy chiến tranh thời đó ít khi kéo dài tới một năm, thường chỉ năm ba tháng, không như chiến tranh ngày nay kéo dài cả mấy chục năm.
Tai hại như vậy cho nên trừ bọn pháp gia và bọn biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi là hiếu chiến (Vệ Ưởng bảo: Nước sở dĩ được trọng, vua sở dĩ được tôn là nhờ sức mạnh), còn Khổng, Lão, Mặc đều ghét chiến tranh.
Lão tử chủ trương “bất tranh”, mà phải tự hạ mình (khiêm hạ), phải nhường nhịn: “Nước lớn cũng như dòng nước dưới thấp, là chỗ thiên hạ dồn về. Cho nên nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ thì tất được nước nhỏ thần phục, nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn thì tất được nước lớn che chở”.
Như vậy chiến tranh không thể xảy ra được nữa.
Mặc tử viết cả một chương “Phi công “ để mạt sát chiến tranh, bảo đánh nước người là việc đại bất nghĩa, vì giết hằng ngàn hằng vạn người, đáng bị hằng ngàn hằng vạn tử tội, mà lại khen, ghi công trận để lại đời sau thì quả là ngu muội. Có lần ông đi từ nước Tề, luôn mười ngày mười đêm đến kinh đô nước Sở để can vua Sở đừng đánh Tống.
Không những vậy, ông còn hô hào các vua chư hầu tới cứu một nước nhỏ, sửa sang thành quách, cung cấp vải thóc, khi nước nhỏ bị nước lớn đánh.
Mạnh tử cũng như Khổng tử cho võ bị là không cần thiết, nhưng thời của ông loạn hơn thời Khổng tử nhiều (có những trận hằng sáu vạn, tám vạn người) nên ông còn oán chiến tranh hơn.
Trong bài 6, Lương Huệ vương, thượng, ông bảo:
“Hiện nay trong thiên hạ chẳng có vị chăn dân nào mà chẳng ham giết người; nếu có một vị nào chẳng ham giết người thì mọi người trong thiên hạ sẽ quay đầu, ngoảnh cổ ngóng vị ấy, và vị ấy sẽ thống nhất thiên hạ.”
Tiến lên một bực nữa, ông còn kết tội hạng bề tôi không hướng dẫn vua chúa bằng nhân nghĩa, chỉ lo luyện tập binh mã để thắng nước khác, cho họ không phải là lương thần mà là kẻ thù của dân (dân tặc), không phải là giúp vua, mà là giúp kẻ tàn bạo như Kiệt (Cáo tử, hạ - bài 19).
Nhất là đoạn dưới đây thì khắp cổ kim, chưa có lời kết tội nào mạnh mẽ hơn:
“Vua không làm nhân chính mà theo làm giàu cho vua, Khổng tử đã cho là bậy, huống chi lại vì vua mà gây chiến. Đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành, như thế gọi là cho đất ăn thịt người, đem xử tử còn chưa hết tội. Cho nên kẻ thiện chiến chịu tội nặng nhất, kẻ liên hiệp chư hầu để đánh nhau chịu tội nhẹ hơn, kẻ bắt dân đi mở rừng rậm để làm ruộng đất cho vua, chịu tội nhẹ hơn nữa.” (Quân tử bất hành nhân chính nhi phú chi, giai khí ư Khổng tử giả dã, huống ư vị chi cường chiến. Tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã; tranh thành dĩ chiến, sát nhân doanh thành, thử sở vị suất thổ địa nhi thực nhân nhục, tội bất dung ư tử. Cố thiện chiến giả phục thượng hình, liên chư hầu giả thứ chi, tịch thảo lai, nhiệm thổ địa giả thứ chi - Li Lâu, thượng - bài 14).
君不行仁政而富之,皆棄於孔子者也,況於爲之強戰。爭地以戰,殺人盈野;爭城以戰,殺人盈城,此所謂率土地而食人肉,罪不容於死。故善戰者服上刑,連諸侯者次之,辟草萊,任土地者次之。
Vì vậy, khi vua Lỗ sai Thận tử đem quân đánh Tề, ông khuyên Thận tử: chẳng giáo hóa dân mà dùng họ để đánh giặc, như thế gọi là hại dân. Đời vua Nghiêu vua Thuấn, những kẻ hại dân chẳng được dung tha. Dù chỉ đánh một trận mà thắng Tề, lấy được đất Nam Dương, ông cũng không nên đánh (...) Người có đức nhân dù lấy đất đai của người này cấp cho người khác cũng không nỡ làm, huống chi lại giết người để lấy đất sao? (Cáo tử, hạ - bài 8).
Ông ghét chiến tranh xâm lăng, mà ngay cả trường hợp tự vệ, chống kẻ xâm lăng, cũng là điều bất đắc dĩ; một vị nhân quân không vui lòng khi bắt dân phải chết cho đất đai, đất đai đâu quí bằng nhân mạng. Đúng với qui tắc “dân vi quí, xã tắc thứ chi” của ông.
Một môn đệ, Vạn Chương, hỏi ông:
- Tống là một nước nhỏ, vua nước ấy muốn thi hành nhân chính, Tề và Sở (là những nước lớn) thấy vậy ghét, muốn đem quân đánh, vậy phải làm sao?
Ông kể những truyện vua Thành Thang, Võ vương thời xưa thi hành nhân chính mà được khắp thiên hạ qui phục, hoan nghênh, rồi bảo:
- Thày chỉ sợ vua Tống không chịu thi hành nhân chính của các vị vua đó thôi, nếu chịu thì dân trong bốn biển sẽ ngửng đầu trông lên, mong được nhà vua cai trị thiên hạ, dù cho Tề và Sở lớn thì cũng chẳng đáng sợ.
Trường hợp nước Đằng còn nguy hơn Tống, vì Đằng rất nhỏ, mà Tề ở sát một bên, lăm le muốn chiếm. Trong chương II, tôi đã chép lại truyện Đằng Văn công thấy Tề đã chiếm đất Tiết, hỏi ông nên đối phó ra sao, ông cũng lại khuyên nữa: “Nhà vua cứ cố gắng làm điều thiện đi, như vậy đủ rồi”.
Lời đó không đủ làm cho Đằng Văn công vững bụng, công lại hỏi nữa, ông bảo chỉ còn có hai cách:
- Một là cùng với dân liều chết mà giữ thành, hai là bỏ ngôi vua mà đi sống ở nơi khác, như vua Thái vương thời trước: xưa Thái vương ở đất Mân, bị rợ Địch xâm chiếm, đem da thú dâng nó, nó không tha, đem châu ngọc dâng nó, nó cũng không tha, mới hội họp các bô lão mà bảo: rợ Địch muốn chiếm đất đai của ta. Tôi nghe nói người quân tử không lấy vật dùng để nuôi người mà hại người. Các ông lo gì không có vua. Tôi đi đây”. Rồi ông bỏ đất Mân, vượt núi Lương Sơn, lập ấp ở chân núi Kì Sơn.
Người nước Mân nói: ông ấy là người nhân, không nên bỏ ông ấy, và người ta theo ông đông như đi chợ. Đó là một cách, còn một cách nữa là cố giữ lấy đất, giữ không được thì chết. Xin nhà vua lựa lấy một trong hai cách ấy. (Lương Huệ vương, hạ - bài 15).
Vậy thì có vẻ như Mạnh tử cho chống xâm lăng là việc chính đáng, nhưng vua không quí bằng đất đai, đất đai lại không quí bằng dân. Khi không chống cự nổi quân địch thì vua có thể dứt dân đi tới một miền khác mà sống, rồi cứ thi hành nhân chính, một ngày kia, không phải mình thì con cháu mình sẽ thu phục được nhân tâm bốn bể mà thống nhất được Trung Quốc, dựng được nghiệp vương.
Một trường hợp nữa là chiến tranh giải phóng một dân tộc bị cái họa bạo chúa, tức trường hợp Tề muốn đánh Yên mà tôi đã kể trong chương IV.
Trường hợp này cũng bất đắc dĩ. Và phải là bậc “thiên lại” (bậc thế thiên hành đạo) mới có đủ tư cách để trừ một ông vua vô đạo, như vua Thang đánh Cát Bá. Cát Bá được vua Thang giúp cho đồ cúng mà cũng không tế lễ quỉ thần, còn xúi dân cướp bóc dân của ông. Ông đánh mười một trận đều thắng. Đánh ở phương Đông thì rợ phương Tây oán, đánh phương Nam thì rợ phương Bắc oán: “Tại sao không giải thoát cho nước tôi trước?” Dân mọi nơi ngóng ông như đại hạn trông mưa. Ông đánh nước nào thì dẹp vua nước đó và vỗ về dân, cho nên dân rất vui vẻ (Đằng Văn công, hạ - bài 5).
Mặc tử chủ trương hơi khác. Một lần, Dương Văn quân nước Lỗ sắp đánh nước Trịnh, ông đến can, Dương Văn quân bảo:
- Ta đánh nước Trịnh là thuận chí Trời. Nước Trịnh ba đời giết cha, Trời đã làm tội, khiến cho ba năm không được yên ổn, ta phải giúp vào sự làm tội của Trời.
Mặc tử vặn lại:
- Ba năm không được yên ổn thế là Trời đã làm tội đủ rồi. Nay lại đem quân đánh họ, bảo rằng “thuận với chí Trời”, có khác gì có một đứa con làm bậy, cha nó đã đánh nó, rồi cha nhà láng giềng lại vác gậy đánh thêm và nói: “Ta đánh nó là thuận với chí cha nó”, như thế chẳng trái lẽ ư? (Thiên Lỗ vấn). Vậy Mặc tử có vẻ cho rằng thời ông, không có ông vua nào đủ đức hạnh để vấn tội những ông vua tàn bạo khác, không ai đủ tư cách làm “thiên lại” mà thế thiên hành đạo. Có thể ông nhận việc diệt bạo quân là đáng, nhưng ông không khuyến khích hành động ấy, sợ có kẻ vin vào lời ông mà làm càn.
Ông giữ đúng chủ trương “phi công” của ông.
Lạc ưu dĩ thiên hạ
Dân đủ ăn đủ mặc, được giáo hóa, kẻ khốn cùng có nơi nương tựa rồi, lại được sống yên ổn khỏi phải hi sinh cho những kẻ hiếu chiến, thì dân sẽ vui; và lúc đó nhà cầm quyền có thể vui chơi với dân mà dân không oán:
“Vua mở cuộc chơi nhạc ở đây, bách tính nghe tiếng chuông tiếng trống, tiếng sáo tiếng tiêu của nhà vua, mà lộ vẻ vui mừng, bảo nhau: “Vua ta chắc mạnh khỏe nên mới chơi nhạc được”.
Vua mở cuộc săn bắn ở đây, bách tính nghe tiếng xe tiếng ngựa, thấy cờ xí đẹp đẽ, mà lộ vẻ vui mừng, bảo nhau: “vua ta chắc mạnh khỏe nên mới đi săn như vậy được”. Có do lẽ gì khác đâu, chỉ do vua cùng vui với dân vậy”.
(Kim vương cổ nhạc ư thử, bách tính văn vương chung cổ chi thanh, quản thược chi âm, cử hân hân nhiên hữu hỉ sắc, nhi tương cáo viết: “Ngô vương thứ cơ vô tật bệnh dư? Hà dĩ năng cổ nhạc dã?.
Kim vương điền liệp ư thử, bách tính văn vương xa mã chi âm, kiến vũ mao chi mĩ, cử hân hân nhiên hữu hỉ sắc, nhi tương cáo viết: “Ngô vương thứ cơ vô tật bệnh dư? Hà dĩ năng điền tiệp dã? Thử vô tha: dữ dân đồng lạc dã.- Lương Huệ vương, hạ - bài I).
今王鼓樂於此,百姓聞王鍾鼓之聲,管籥之音,舉欣欣然有喜色,而相告曰:吾王庶幾無疾病與?何以能鼓樂也?
今王田臘於此,百姓聞王車之音,見羽旄之美,舉欣欣然有嘉色,而相告曰:吾王庶幾無疾病與?何以能田臘也?此無他:與民同樂也?
Hơn nữa, dân sẽ vui vẻ góp sức cất đài, đào hồ cho vua hưởng, như trường hợp vua Văn vương cất Linh đài, đào Linh chiểu, dân tự nguyện tới giúp công. Vua bảo họ đừng làm gấp mà họ cũng tận lực làm, chỉ trong mấy ngày là xong, chẳng khác chi con cái phụng sự cha mẹ vậy. Từ đài, nhìn ra vườn thấy hươu nai nằm trên bãi cỏ, nhìn xuống hồ Linh chiểu thấy cá lội thung thăng, vua Văn vương rất vui, vì cùng vui với dân. (Lương Huệ vương, thượng - bài 2).
Như vậy thì tốn kém bao nhiêu, dân cũng không cho là xa xỉ; trái lại nếu để dân khổ mà vua vui riêng một mình thì dù chỉ tốn kém ít, dân cũng oán ghét.
Bài 2, Lương Huệ vương, hạ, chép:
Tề Tuyên vương hỏi:
- Vườn hoa của vua Văn vương thời xưa vuông vức bảy chục dặm, phải vậy không?
Mạnh tử đáp:
- Truyện có chép vậy.
- Như vậy có lớn quá không?
- Thế mà dân còn cho là nhỏ đấy.
Còn vườn của quả nhân chỉ rộng có bốn chục dặm mà dân cho là lớn, tại sao?
- Vườn vua Văn vương vuông bảy chục dặm nhưng người cắt cỏ, kiếm củi vào được, kẻ bắt trĩ bắt thỏ vào được. Dân được chơi trong vườn của vua, nên dân cho là nhỏ, cũng là phải chứ? Hồi tôi mới tới biên giới nước Tề, hỏi những điều đại cấm trong nước rồi mới dám vào. Tôi nghe nói ở ngoài kinh đô có vườn vuông bốn chục dặm, mà kẻ nào vào đó giết hươu nai thì bị trị tội như giết người, như vậy vuông bốn chục dặm, có khác gì cái hầm để bẫy dân không? Dân cho là rộng cũng là phải chứ? “
(Văn vương chi hữu phương thất thập lí, sô nghiêu giả vãng yên, trĩ thỏ giả vãng yên. Dữ dân đồng chi, dân dĩ vi tiêu, bất diệc nghi hồ?
Thần thủy chí ư cảnh, vấn quốc chi đại cấm nhiên hậu cảm nhập. Thần văn giao quan chi nội hữu hậu phương tứ thập lí, sát kì mi lộc giả như sát nhân chi tội, tắc thị phương tứ thập lí vi tịnh ư quốc trung, dân dĩ vi đại, bất diệc nghi hồ?).
文王之囿方七十里,芻蕘者往焉,雉兔者往焉。與民同之,民以爲小,不亦宜乎?
臣始至於境,問國之大禁然後敢入。臣聞郊關之內有囿方四十里,殺其麋鹿者如殺人之罪,則 是方四十里爲阱於國中,民以爲大,不亦宜乎?
Nếu vua vui thú một mình, sống xa hoa để dân chết đói thì tức là giết dân, như trong đoạn “bếp vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập” tôi đã dẫn ở chương 1 (Lương Huệ vương, thượng - bài 4).
Tóm lại, nếu “bậc ở trên cùng vui cái vui của dân, thì dân cũng vui cái vui của mình; cùng buồn nỗi buồn của dân thì dân cũng buồn nỗi buồn của mình. Chung vui với thiên hạ (bách tính), chia buồn với thiên hạ, mà không dựng được nghiệp vương, thì việc ấy chưa hề thấy”.
(Lạc dân chi lạc giả, dân diệc lạc kì lạc; ưu dân chi ưu giả, dân diệc ưu kì ưu. Lạc dĩ thiên hạ, ưu dĩ thiên hạ, nhiên nhi bất vương giả, vị chi hữu dã - Lương Huệ vương, hạ - bài 4.)
樂民之樂者,民亦樂其樂;憂民之憂者,民亦憂其憂。樂以天下,憂以天下,然而不王者,未之有也。
Chú thích:
[1] Mỗi mẫu theo Wieger bằng 600 mét vuông; nhưng theo tôi, con số đó chỉ là phỏng chừng, còn tùy thời, tùy miền nữa.
[2] Tường và tự đều là trường để dạy dân chúng, coi bài 3 Đằng Văn công, thượng ở sau.
[3] Trong bài 7, Lương Huệ vương, thượng (coi ở sau), đây là chữ bát 八 = tám.
[4] đây là chữ lão giã 老者 = người già. [Chú thích trên và chú thích này, trong sách đánh dấu * và dấu ** ở cuối đoạn trích dẫn (tức sau …vị chi hữu dã). (Goldfish)].
[5] Ý nói: 數 (sổ) -> 八 (bát), 七十者 (thất thập giả) -> 老者 (lão giả). Xin xem thêm: http://www.eywedu.com/classic/mz006.htm. (Goldfish).
[6] Đoạn này y hệt bài 7. Lương Huệ vương thượng.
[7] Theo Phan Bội Châu trong Khổng học đăng II, trang 479 thì phép triệt tựa như phép quân điền ngày nay. Vì vậy phép trợ và triệt cũng lấy vào khoảng 1 phần 10 hoa lợi của dân.
[8] Vì vậy phép trợ và triệt cũng lấy vào khoảng 1 phần mười hoa lợi của dân.
[9] Theo chú thích của Chu tử thì đây là phép công. Vậy ta phải hiểu huê lợi đây là huê lợi trung bình do chính quyền định, chứ không phải huê lợi thực sự sau mỗi mùa.
[10] Vậy là chưa kể bổng lộc vì dân thường được chia mỗi gia đình 100 mẫu?
[11] Dặm (lí) có sách nói là khoảng 500 mét. có sách bảo là 360 bước. nếu mỗi bước trung bình là 0.7 mét thì một lí bằng khoảng 250 mét ; nếu là 250 mét thì mỗi dặm vuông là 62.500 mét vuông. Và mỗi mẫu bằng khoảng 600 mét vuông, hợp với con số của Wieger trong cuốn Caractère chinois, 7è édition - Taiwan 1963.
[12]師行而糧食,飢者弗食,勞者弗息。睊睊胥讒,民乃作慝。方命⑾虐民,飲食若流。流連荒亡,為諸侯憂。從流下而忘反謂之流,從流上而忘反謂之連,從獸無厭謂之荒,樂酒無厭謂之亡。(Theo http://www.shuzhai.org/gushi/mengzi/6037_2.html). (Goldfish)
[13] Thời xưa cũng như thời nay ư?