Chương 7 TÍNH THIỆN
Hiện nay chúng ta vẫn chưa biết có cái gì gọi là bản tính con người không. Nếu có thì người ta chỉ có thể nói rằng nó “không phải là thiên thần, cũng không phải là cầm thú”. Ý niệm “bản tính” mơ hồ quá, cho nên chúng ta phân biệt ra bản năng và tính tình.
Bản năng (instinct) là những xu hướng tự nhiên ai cũng có từ khi mới sinh. Ví dụ bản năng sinh tồn (instinct de conservation) mà ta có chung với loài vật; nhờ bản năng đó sinh vật tự bảo vệ tính mạng và duy trì nòi giống: đói thì kiếm ăn, khát thì đòi uống, và tới khi bộ phận sinh dục đã phát triển đầy đủ thì tự nhiên thấy cái nhu cầu phối hợp với một vật khác giống (sexe) để truyền chủng.
Như một triết gia Trung Hoa nói, bản năng là một cái gì “tiên nghiệm”[1].
Có học giả như Will Durant (Bài học của lịch sử - chương IV) cho rằng con người có sáu bản năng tích cực và sáu bản năng tiêu cực (chẳng hạn tích cực là hoạt động, tiêu cực là ngủ, nghỉ ngơi; tích cực là chiến đấu, tiêu cực là chạy trốn; tích cực là thủ đắc, tiêu cực là nhịn...); tích cực và tiêu cực đều có tác dụng duy trì cá nhân gia đình, tập thể hoặc chủng loại (như hoạt động là làm việc để mưu sinh, mà nghỉ ngơi, ngủ là để lấy lại sức hầu duy trì cơ thể, sức hoạt động của mình...). Hầu hết mọi người đều có đủ hai nhóm bản năng tích cực và tiêu cực ấy để tránh né hoặc thích ứng (tùy theo tính khí hoặc hoàn cảnh) với những thách đố quan trọng hoặc những cơ hội thuận tiện của đời sống. Mỗi bản năng gây một số thói quen và kéo theo một số tình cảm.
Tất cả những cái đó tạo nên tính tình mỗi người tùy theo di truyền, giáo dục, hoàn cảnh, cho nên bảo tính tình là có tính cách “thực nghiệm”.
Có học giả, như tâm lí gia Heymans (1858- 1930) không nói tới bản năng mà nói tới khả năng, và phân biệt: khả năng cảm xúc (émotivité) khả năng hoạt động (activité) và khả năng phản ứng (retentissement) gồm hai hạng trực phản ứng và gián phản ứng[2]. Những khả năng đó kết hợp với nhau thành tám hạng tính tình (caractère hay tempérament):
- Vô khí lực (không có khả năng cảm xúc và khả năng hoạt động, mà trực phản ứng) như vua Louis XV của Pháp;
- Lãnh đạm (không có khả năng cảm xúc và khả năng hoạt động, mà gián phản ứng) như vua Louis XVI của Pháp;
- Đa huyết, thực tế (không có khả năng cảm xúc, có khả năng hoạt động, mà trực phản ứng) như Bacon, Voltaire;
- Bình thản (không có khả năng cảm xúc, có khả năng hoạt động, mà gián phản ứng) như Kant, Renan;
- Tinh thần mẫn tiệp (có khả năng cảm xúc, không có khả năng hoạt động, mà trực phản ứng) như Byron, Verlaine;
- Đa cảm (có khả năng cảm xúc, không có khả năng hoạt động, mà gián phản ứng) như Amiel, Jean Jacques Rousseau;
- Nóng nảy (có cả hai khả năng cảm xúc và hoạt động, mà trực phản ứng) như Danton, Balzac, Gambetta;
- Đam mê (có cả hai khả năng cảm xúc và hoạt động, mà gián phản ứng) như Napoléon, Racine.
Chúng ta nên nhớ rằng những chữ không và có trong bảng liệt kê đó chỉ có nghĩa là có ít và có nhiều, chứ không ai hoàn toàn vô cảm xúc, hoặc hoàn toàn không hoạt động. Vả lại sự chia loại như vậy chỉ là đại khái, có người vừa ở trong hạng này như đam mê vừa ở trong hạng khác như đa huyết, thực tế... Vì tính tình con người nhiều khi mâu thuẫn lắm: đam mê trong việc này (trong việc viết văn chẳng hạn) mà thực tế trong việc khác (như việc hiếu danh, hiếu lợi).
Điều quan trọng nhất ta nên nhận định là bản năng không có tốt có xấu (hoặc có thể nói rằng bản năng nào cũng tốt hết vì đều giúp chúng ta duy trì bản thân, nòi giống); còn tính tình thì có xấu, có tốt, mà xấu tốt do sự nhận định theo thói quen của xã hội; và có khi xấu trong hoàn cảnh này mà tốt trong hoàn cảnh khác: như vua Louis XVI là một ông vua nhu nhược, không biết trị nước, nhưng có thể là người chồng, người cha tốt; Byron, Verlaine không “đứng đắn”, phóng túng, không phải là người chồng người cha tốt, nhưng đều là những thi sĩ đại tài. Ý niệm thiện ác, xấu tốt của chúng ta do xã hội tạo nên và có tính cách rất tương đối. Chúng ta cần biết qua như vậy rồi mới xét được những cuộc tranh luận về “tính” ở thời Mạnh tử.
Hai chương trên là những tư tưởng chính trị, xã hội của Mạnh tử, tuy tiến bộ hơn thời Khổng tử nhiều, nhưng ông chỉ có công phát huy thêm; từ đây trở đi mới là phần độc đáo, uyên nguyên ông cống hiến cho triết học Trung Hoa: phần tâm học, trong đó ông là người đầu tiên đem những vấn đề tính, tâm, khí ra xét, mở đường cho những triết gia mười ba, mười bốn thế kỉ sau cho đến hết đời Tống.
Chúng ta hãy xét trước hết thuyết “tính thiện” của ông.
Trước ông, chỉ có Khổng tử là ngẫu nhiên nói tới tính. Đầu chương Dương Hóa (bộ Luận ngữ), Khổng tử bảo: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã”. Ba chữ “tính tương cận” thật quá vắn tắt, ai muốn hiểu sao cũng được, và chúng tôi đoán rằng ông chưa đặt ra vấn đề tính thiện hay tính ác, chỉ muốn nói con người sinh ra không khác nhau bao nhiêu, nhưng cũng có khác, có hạng dễ hóa thiện, có hạng dễ hóa ác, rồi do sự giáo dục, tập tành, thói quen mà sau mới khác nhau xa.
Mặc tử, khi thấy tơ nhuộm, than: Nhuộm xanh thì hóa xanh, nhuộm vàng thì hóa vàng, cái chất vào lụa mà thay đổi thì màu lụa cũng thay đổi (...), cho nên sự tiêm nhiễm không thể không thận trọng. Ông không nói đến tính, chỉ xét hậu quả của sự tiêm nhiễm, nhưng hình như cho rằng tính vốn không thiện, không ác có thể hóa thiện mà cũng có thể hóa ác.
Tới thời Mạnh tử vấn đề mới được nêu lên rõ ràng và gây nhiều cuộc tranh luận.
Chương Cáo tử, thượng, bài 6, Công Đô tử thưa với thầy là Mạnh tử:
- Có người như Cáo tử bảo: “Tính không phải thiện mà cũng không bất thiện”, lại có người bảo: “Tính có thể làm thành thiện, có thể làm thành bất thiện” cho nên vua Văn, vua Võ (minh quân) dấy lên thì dân ưa điều thiện, đến khi vua U, vua Lệ (hôn quân) dấy lên thì dân ưa làm điều bạo ngược”. Lại có một hạng khác nói rằng “có tính thiện, có tính bất thiện” cho nên ông Nghiêu (đại hiền) làm vua, mà em là Tượng lại đại ác[3].
Đoạn đó cho ta biết ngoài thuyết tính thiện của Mạnh tử ra, thời đó có thêm ba thuyết nữa, ấy là chưa kể thuyết “tính siêu thiện, ác” của Trang tử và thuyết “Tính ác” của Tuân tử, xuất hiện sau khi Mạnh tử mất độ vài chục năm.
Chúng ta có thể sắp sáu thuyết đó như sau:
1. - Tính không thiện không ác của Cáo tử.
2. - Tính siêu thiện ác của Trang tử.
Hai thuyết này hiểu tính là cái bản “thiên tiên nghiệm”, tức như chúng ta gọi là bản năng.
3. - Tính vừa thiện vừa ác (không biết của ai).
4. - Tính có thiện, có ác (không biết của ai), hai thuyết này cho tính là “tính thực nghiệm”, tức như ngày nay chúng ta gọi là tính tình.
5. - Tính thiện của Mạnh Tử.
6. - Tính ác của Tuân Tử.
Hai thuyết này chỉ lấy một phần của “tính thực nghiệm” (phần thiện hay phần ác) như vậy là cực đoan.
Vì các triết gia thời đó chỉ dùng mỗi một chữ tính để trỏ những ý niệm khác nhau như vậy, nên khi tranh luận, không ai thuyết phục được ai, và ai khéo nói, khéo bác thì có vẻ như thắng. Tuân tử sinh sau Mạnh tử khoảng bốn chục năm nên Mạnh tử không biết thuyết tính ác; nhưng Trang tử chỉ kém Mạnh tử khoảng mười tuổi, mà thầy trò Mạnh tử không nhắc tới thuyết tính “siêu thiện ác” thì cũng hơi lạ: Trang tử ẩn dật, ít môn sinh, đương thờí ít ai biết chăng? Còn hai thuyết 3, và 4, Mạnh tử không đả đảo có lẽ vì thấy không cần: những người chủ trương hai thuyết ấy hoặc không có ưu thế, hoặc không ham tranh luận? Rốt cuộc chỉ còn cuộc tranh luận giữa Cáo tử và ông.
Theo Vũ Đồng (sách đã dẫn) thì Cáo tử sinh vào khoảng -425 và mất vào khoảng -339, vậy có thể lớn hơn Mạnh tử tới bốn chục tuổi. Chương Công Tôn Sửu, thượng - bài 2, Công tôn Sửu hỏi Mạnh tử chỗ “bất động tâm” của Cáo tử với của Mạnh tử khác nhau ra sao. Như vậy thì Cáo tử là một triết gia có đạo đức và danh tiếng đương thời.
Bốn bài đầu chương Cáo Tử, thượng, chép những lời Mạnh tử bác thuyết về “tính” của Cáo tử.
Bài 1, Cáo tử bảo tính người như cây kỉ cây liễu, mà điều nghĩa như cái bát cái thìa. Lấy tính người làm việc nhân việc nghĩa cũng như dùng cây kỉ, cây liễu làm cái bát, cái thìa. Mạnh tử đáp nếu vậy thì phải chặt đẽo người ta rồi mới làm được việc nghĩa cũng như phải đẽo cây kỉ cây liễu để thành cái bát cái thìa ư? Lời bác bẻ của Mạnh tử không nhằm: ông phải nói chặc đẽo cái tính của người, chứ sao lại bảo chặt đẽo con người? Chúng ta nên nhớ Cáo tử cho tính là bản năng. Bản năng không thiện, không ác, nhờ giáo dục, tập quán mới hóa thiện; việc giáo dục đó có thể so sánh với đẽo cây kỉ cây liễu được. Cáo tử có lí.
Bài 2, Cáo tử bảo tính người ta như dòng nước, khơi cho nó qua phương đông thì nó chảy qua phương đông, khơi cho nó chảy qua phương tây thì nó chảy qua phương tây; tính người không phân biệt được thiện với bất thiện, cũng như tính nước không phân biệt đông với tây. Trình bày một thuyết mà dùng cách so sánh, ví von thì chẳng đi tới đâu cả, mà dễ bị hớ lắm. Cáo tử đã hớ. Mạnh tử bẻ: Nước không phân biệt đông tây thật, nhưng không phân biệt cao thấp ư? Tính con người vốn thiện cũng như tính của nước là chảy xuống chỗ thấp.
Có lẽ lần đó Cáo tử bí, nên bài 3, đổi ý, bảo “sinh chi vị tính”. Bốn chữ này rất tối nghĩa, Chu Hi chú thích chữ “sinh” là những tri giác, vận động của con người. Phải Chu Hi muốn nói “sinh” là cuộc sống không? Có người lại hiểu khác: cái gì trời sinh ra thì gọi là tính. Không rõ Mạnh tử hiểu cách nào mà bẻ: “Nếu vậy thì hễ vật gì trắng đều gọi là trắng phải không?” Cáo tử đáp: Phải.
Mạnh tử bủa lưới, hỏi thêm: Vậy thì màu trắng của chiếc lông trắng cũng giống màu trắng của tuyết, màu trắng của tuyết cũng giống màu trắng của bạch ngọc ư?” Cáo tử lại đáp: Phải.
Và Mạnh tử đập: Vậy thì tính của con chó giống tính của con bò, tính của con bò giống tính của người ư?”.
Mạnh tử đập bậy. Cáo tử cho tính là bản năng, thì quả thực loài chó, loài bò và loài người đều giống nhau ở bản năng sinh tồn. Cáo tử có lí.
Bài 4, Cáo tử lại bảo: “Tự, sắc, tính dã”: ai cũng thích ăn ngon, thích sắc đẹp. Nếu chỉ nói vậy thì Mạnh tử khó mà đả được, nhưng lại nói thêm đức nhân là do nơi mình (nội dã), điều nghĩa là do nơi người (ngoại dã), nên lại bị Mạnh tử đả, và Mạnh Tử có lí: nhân với nghĩa đều do trong lòng mình ra cả, có khác chăng, chỉ khác ở một chút này: nhân hoàn toàn là tình cảm, nghĩa có một chút lí trí trong đó; và nếu quả vậy thì Cáo Tử không phải là hoàn toàn vô lí.
Tôi tóm tắt lại bốn bài như trên để tỏ rằng cuộc tranh luận của hai nhà đó chỉ là một “đàm đạo giữa người điếc”; cùng dùng một danh từ “tính” mà mỗi người hiểu một khác thì chẳng đi tới đâu. Bốn bài ấy đọc thấy vui vui chứ thực ra không bổ ích gì cả.
Điều bổ ích là Mạnh tử định nghĩa “tính” ra sao rồi đưa ra những áp dụng nào vào giáo dục.
Trước hết chúng tôi lưu ý độc giả về điểm này.
Bài 38, Tận tâm, thượng, Mạnh tử dùng chữ tính với nghĩa cái gì của Trời sinh ra. Ông bảo: “Hình sắc, thiên tính dã”. Thân thể, dung mạo, nét mặt của ta là do Trời sinh (thiên tính). Nghĩa chữ tính ở đó khác hẳn nghĩa chữ tính trong tính thiện, ở đây chúng tôi không xét tới, mà chỉ xét thuyết “tính thiện”.
Bài 19, Li Lâu, hạ, Mạnh tử bảo: “Loài người khác cầm thú chỉ có mảy may thôi. Cái mảy may đó, bọn bình dân bỏ đi mà người quân tử (tức có đạo đức) thì biết bảo tồn”. (Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú giả, cơ hi. Thứ dân khử chi, quân tử tồn chi). Cái mảy may đó là nhân, nghĩa.
Bài 14, Cáo tử, thượng, ông lại viết: “Trong thân thể người ta, có phần cao quí, có phần đê tiện, có phần to tát, có phần nhỏ nhen. Đừng lấy cái nhỏ làm hại cái lớn, lấy cái đê tiện làm hại cái cao quí (...). Kẻ nào chỉ lo việc ăn uống thì sẽ bị người ta khinh bỉ vì lo nuôi cái phần nhỏ nhen mà làm mất cái phần to tát (tức tâm chí)”. (Thể hữu quí tiện, hữu tiểu đại. Vô dĩ tiểu hại đại, vô dĩ tiện hại quí. Dưỡng kì tiểu giả vi tiểu nhân, dưỡng kì đại giả vi đại nhân... ẩm thực chi nhân tắc nhân tiện chi hĩ, vị kì dưỡng tiểu dĩ thất đại dã).
體有賣賤,有小大。無以小害大,無以賤害貴。養其小者爲小人,養其大者爲大人... 飲食之人則人賤之矣,爲其養小以失大也。
Hai bài đó không dùng chữ “ác”, nhưng xét ý nghĩa thì ta thấy ông cho rằng trong con người có một phần thiện, chỉ con người mới có, và một phần ác (nghĩa là xấu) mà người và cầm thú đều có chung. Tuy nhiên ông chỉ gọi cái phần thiện, phần cao quí đó là tính của con người, còn phần ác, phần đê tiện thì ông cho là thú tính. Đó là điểm ông khác Cáo tử và các nhà chủ trương tính vừa thiện vừa ác, hoặc tính có thiện có ác.
Một lẽ nữa: hễ đồng loại với nhau thì có những điểm giống nhau; mà mình đồng loại với thánh nhân, thì cái tính của mình phải là cái tính của thánh nhân, nghĩa là chỉ cái phần thiện trong bản tính loài người mới đáng gọi là nhân tính (Cáo tử, thượng - bài 7).
Để cho ta thấy ai cũng có mầm thiện ở trong lòng, có khả năng thành thánh nhân như Nghiêu, Thuấn được, ông đưa ra bằng chứng cụ thể này mà học giả Trưng Hoa gọi là “tứ đoan thuyết” (thuyết bốn mối):
“Ai cũng có lòng thương người (...). Sở dĩ tôi bảo vậy là vì có chứng cứ. Nếu thình lình thấy một đứa nhỏ sắp ngã xuống giếng thì ai cũng có lòng bồn chồn, thương xót. Bồn chồn thương xót không phải là vì muốn cầu thân với cha mẹ đứa nhỏ, không phải là mong tiếng khen của hàng xóm, bạn bè, cũng không phải là sợ người ta chê cười”.
Do đó mà xét, không có lòng trắc ẩn (thương xót) thì không phải là người, không có lòng tu, ố (thẹn, ghét) thì không phải là người, không có lòng từ, nhượng thì không phải là người, không có lòng biết phải biết trái, thì không phải là người. Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu, ố là đầu mối của nghĩa, lòng từ, nhượng là đầu mối của lễ, lòng biết phải biết trái là đầu mối của trí. Người ta có bốn mối đó như là có tứ chi. Có bốn mối ấy mà bảo là không sửa mình được, là tự mình hại mình (...) Có bốn mối ấy mà biết khuếch sung ra thì như lửa bắt đầu cháy, như suối bắt đầu chảy, mỗi ngày một lớn ra, mạnh lên; không biết khuếch sung ra thì dầu việc thường như thờ cha mẹ cũng không được”.
(Sở dĩ nhân giai hữu bất nhẫn nhân chi tâm giả, kim nhân sạ kiến nhụ tử tương nhập ư tỉnh, giai hữu truật dịch trắc ẩn chi tâm. Phi sở dĩ nạp giao ư nhụ tử chi phụ mẫu dã; phi sở dĩ yêu dự ư hương đảng bằng hữu dã, phi ố kì thanh nhi nhiên dã.
Do thị quan chi, vô trắc ẩn chi tâm, phi nhân dã; vô tu ố chi tâm, phi nhân dã; vô từ nhượng chi tâm, phi nhân dã; vô thị phi chi tâm, phi nhân dã; trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã; tu ố chi tâm, nghĩa chi đoan dã; từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã, thị phi chi tâm, trí chi đoan dã. Nhân chi hữu thị tứ đoan dã, do kì hữu tứ thể dã. Hữu thị tứ đoan nhi tự vị bất năng giả, tự tặc giả dã (...) Phàm hữu tứ đoan ư ngã giả, tri giai khuếch nhi sung chi hĩ, nhược hỏa chi thủy nhiên tuyền chi thủy đạt. Cẩu năng sung chi, túc dĩ bảo tứ hải; cẩu bất sung chi, bất túc dĩ sự phụ mẫu. Công Tôn Sửu, thượng, bài 6)
所以謂人皆有不忍人之心者,今人乍見孺子將入於井,皆有怵惕惻隱之心。非所以內交於孺子之父母也;非所以要譽於鄉黨朋友也,非惡其聲而然也。
由是觀之,無惻隱之心,非人也;無羞惡之心,非人也;無辭讓之心,非人也;無是非之心,非人也。惻隱之心,仁之端也;羞惡之心,義之端也;辭讓之心,禮之端也;是非之心,智之端也。人之有是四端也,猶其有四體也。有是四端而自謂不能者,自賊者也(…)凡有四端於我者,知皆擴而充之矣,若火之始然,泉之始達。苟能充之,足以保四海;苟不充之,不足以事父母。
Đoạn đó rất quan trọng. Thuyết “tứ đoan” ấy chính là cơ sở tâm học của Mạnh tử. Ông thí dụ một đứa bé sắp té xuống giếng thì bất kì ai trông thấy cũng kinh sợ thương xót mà muốn cứu, để chứng minh ai cũng có “đầu mối” của đức nhân (tức lòng thương người); rồi ông mở rộng thêm, bảo ai cũng có đầu mối của nghĩa, của lễ, của trí. Ông không đưa chứng cứ cho ba đức sau này, có lẽ vì ông thấy không cần. Chúng ta nên để ý lòng thương xót khi thấy đứa nhỏ sắp té xuống giếng, ông cho nó là bản tính của con người, trời sinh ra đã có, nhưng ngày nay chúng ta có thể tin nó chỉ là kết quả của giáo dục, của tập quán, nói như Tuân tử, chỉ là “nhân vi”, là ngụy[4] cho nên người ta bảo “tính”, trong thuyết của Mạnh Tử là “tính thực nghiệm”.
Tuy ghi cả bốn đức: nhân, nghĩa, lễ, trí (sau này, Nho gia đời Hán thêm đức tín nữa, là năm, gọi là ngũ thường) nhưng Mạnh tử rất ít nhắc đến trí và lễ mà Khổng xử xưa rất coi trọng; ông chuyên đề cao nhân và nghĩa, nhất là đức nhân, cần thiết cho người cầm quyền còn hơn cho người thường nữa.
Cũng trong bài trên, ngay đoạn đầu, ông bảo: Các vua đời trước - trỏ Nghiêu, Thuấn, Văn vương, Võ vương - có lòng nhân (bất nhẫn nhân chi tâm) đem ra ứng dụng mà thành nhân chính (bất nhẫn nhân chi chính). Đem lòng nhân mà thi hành nhân chính thì dễ như trở bàn tay. Chỗ khác ông nói ông vua có lòng nhân thì trong thiên hạ không ai địch nổi. Nhân thắng bất nhân như nước thắng lửa. Và nói tới nhân thì luôn luôn ông kèm theo nghĩa, cho nhân là chỗ ở rộng rãi của con người (thiên hạ chi quảng cư), nghĩa là con đường lớn của con người (thiên hạ chi đại đạo) - Đằng Văn công, hạ, bài 2.
Còn lễ, ông cho là chỗ đứng chính đáng hơn hết trong thiên hạ (thiên hạ chi chính vị). Giữ được ba đức đó thì thành đại nhân.
Chú thích:
[1] Đó là ý kiến của đa số. Có học giả lại cho rằng “bản năng là một trạng thái kết tinh của trí khôn”, kết tinh bằng thói quen và được di truyền lại, như vậy không còn là “tiên nghiệm” nữa.
[2] Có tác giả bảo là khả năng thích ứng gồm hai hạng: dễ thích ứng và khó thích ứng; đại khái cũng vậy; dễ thích ứng tức là trực phản ứng, khó thích ứng tức là gián phản ứng.
[3] Coi Đại cương triết học Trung Quốc, quyền hạ, chương IV, của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê – Cảo thơm – 1966.
[4] Trong chương IV cuốn đầu bộ Lịch sử văn minh, Will Durant viết: “Qui ước là những cách cư xử nào đó mà một dân tộc cho là tốt; tục lệ là những qui ước được nhiều thế hệ liên tiếp chấp nhận sau khi dùng thử rồi đào thải một số thấy là sai lầm ; luân lí là những tục lệ mà cả tập thể cho là cốt yếu cho hạnh phúc và sự phát triển của tập thể. Trong các xã hội sơ khai chưa có luật pháp thành văn thì tục lệ và luân lí qui định tất cả hoạt động của con người, làm cho trật tự xã hội được vững vàng và tiếp tục, không gián đoạn. Do phép màu của thời gian lần lần những tục lệ ấy thấm nhuần cá nhân mà thành một bản tính thứ hai; hễ vi phạm tục lệ thì thấy sợ sệt, khó chịu, xấu hổ nữa ; đó là nguồn gốc của lương tâm, của các ý thức đạo đức mà Darwin cho là điểm dị biệt căn bản giữa loài người và loài vật. Khi nó phát triển đầy đủ rồi thì ý thức đạo đức ấy thành lương tâm xã hội: cá nhân cảm thấy mình thuộc vào một tập thể, mình phải tôn trọng và trung thành với tập thể ấy. Đạo đức là sự hợp tác của phần tử với toàn thể và sự hợp tác của mỗi nhám nhỏ với toàn thể lớn hơn.