← Quay lại trang sách

ẢNH HƯỞNG CỦA MARCO POLO DU KÝ

Từ khi xuất hiện trong những năm đầu của thế kỷ XIV, quyển sách đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt, tôi muốn nói đến công chúng thời đó, rất hạn hẹp do tình trạng phổ biến có hạn và tính cách đắt đỏ của các bản viết tay.

Một thống kê hết sức đáng buồn nếu không muốn nói là đắng cay, đã cho biết chỉ có một phần trăm các bản viết tay thời Trung cổ mới đến được tận tay chúng ta. Những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng, những cuộc hỏa hoạn, việc sử dụng và nhất là sự chểnh mảng làm chúng ta mất tất cả phần còn lại. Vì vậy, hầu như tất cả các thư viện lớn ở Châu Âu đều có một hoặc hai bản viết tay của “Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới” và chỉ có Thư viện Quốc gia của chúng ta vẫn còn giữ đến sáu bản. Người ta tính ra có hơn năm mươi bản có từ thế kỷ XIV và XV, nhưng giáo sư Benedetto khẳng định rằng ông đã phát hiện hơn tám mươi bản xa lạ ngay cả với ông.

Từ khi in ấn ra đời, quyển sách được phát hành lại thành sách khổ hai trang trọng ở Nuremberg, vào năm 1477; ở Augsbourg năm 1481; ở Zwolle, thuộc Hòa Lan năm 1483; ở Anvers năm 1485. Sau đó, nhiều ấn bản bằng tất cả các thứ tiếng được phát hành trong tất cả các quốc gia.

Có khi không nên tin ảnh hưởng của nó được cảm nhận trên những người có óc khoa học vào thời bấy giờ, nhất là các nhà vũ trụ học. Tôi cũng đã nêu lý do này. Ngay cá tác phẩm Liber secretarum của Sanuto, đồng hương của Marco, ngay cả tác phẩm Margarita Philosophia của Reisch, ngay cả tác phẩm Chroniques của Bergoma cũng không đề cập đến nhà du lịch người thành Venise, và không tận dụng được các khám phá của ông Aepeas Silvius, người đề cập nhiều đến châu Á trong tác phẩm “Vũ trụ học” của ông, hầu như hoàn toàn không biết gì về Polo; và một cuốn sách của một trong số những nhà vũ trụ học vĩ đại ở cuối thời kỳ Trung cổ, tác phẩm Ymago mundi của Pierre d’Ailly(1410) không nhắc gì đến nhà du lịch cũng như những quốc gia mà ông đã phát hiện. Chương XXIV, đề cập đến Châu Á, nêu lên vương quốc Cathay, nhưng địa danh này cũng xuất hiện trong sách của Jean du Plan và Rubruquis; ranh giới Ailly đưa ra lại không trùng khớp với ranh giới do Marco Polo nêu. Dĩ nhiên, phải tính đến tinh thần kinh viện của ngài viện trưởng đại học, vì nói cho đúng ông ta chỉ là một người sao chép thẫm nhuần tư tưởng Aistote, Pline, Isidore de Seville, Pompnius Mela, Bacon và là người thường dựa vào các tác giả Hi Lạp cổ đại, và ngay cả các Giáo phụ hơn là các nhà địa lý đương thời, những người mà ông gọi một cách mỉa mai “những kẻ cấp tiến”.

Các nhà lập bản đồ của thế kỷ XIV và XV cũng chẳng được gợi hứng bởi “Cuộc trò chuyện thân mật về thế giới” bao nhiêu. Tấm bản đồ của Catalogne năm 1375, viên ngọc quý của Thư viện quốc gia Pháp hình như đã chiếu theo những chỉ dẫn của người đàn ông Venise trong tất cả những gì có liên quan đến Cathay, các thành phố và sông ngòi của nó, nhưng chúng ta không gặp thấy Cipangu cũng như 12.700 đảo của Ấn Độ Dương điều dành cho người thận trọng nhất. Chỉ có một tấm bản đồ khác, bản đồ của Fra Mauro, khoảng năm 1450, dành một vị trí quan trọng cho đế quốc Đại Hãn. Những tấm bản đồ khác chẳng quan tâm gì đến các chỉ dẫn của Marco. Chúng ta không gặp bất cứ thứ gì trong bản đồ của Angellino de Dalorto (1325) không vượt xa hơn sông Euphrate, hoặc trong bản đồ của Angellino Dulcert (1329), dừng lại ở vịnh Péc Xích, hoặc trong các bản đồ của Pizigani (1367 và 1373) hoặc trong bản đồ của Guillermo Soler (1380), thậm chí trong bản đồ mặt phẳng của Andrea Bianco (1436).

Nếu như tác phẩm Marco Polo du ký là điều mà ngày nay chúng ta gọi là một sự thành công trong thư viện, chủ yếu là nhờ tính cách huyền diệu của nó, nhờ hình ảnh đẹp có màu sắc mà sách gợi lên trong tâm trí. Chắc chắn những người đương thời không coi trọng những cuộc phiêu lưu của một người Venise ở Trung Quốc. Thật khôi hài khi việc can thiệp của Rusta, lúc đó chỉ là người viết tiểu thuyết đạt được một điều gì cũng thật khôi hài. Khi chúng ta tưởng “Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới” có cùng một nguồn cảm hứng với tác phẩm “Bàn tròn”. Dù sao, chính các nhà thơ và nhà kể chuyện mới quan tâm đến sách của Marco: Họ vồ lấy nhân vật Đại Hãn và bối cảnh của nước Cathay để tô điểm cho các chuyện kể của họ, thậm chí Aristotle còn sáng tạo ra một nữ hoàng của nước Cathay.

Ảnh hưởng của Marco Polo đối với các nhà bác học chỉ được cảm nhận rất muộn màng, khoảng giữa thế kỷ XV, và đó là vì ông mang lại những chứng cứ cho những người ủng hộ Marin de Tyr, người đã đưa bề rộng của thế giới từ 180 độ của Ptolémée lên 250 độ và do đó kéo dài Châu Á về hướng đông. Cathay, Cipangu và vùng đảo phía đông xuất hiện trên quả cầu của Behaim (1492- viện bảo tàng Đức ở Nuremberg), trong thư của Muntzer hoặc Monetarius gởi cho Joao II nước Bồ Đào Nha (1493 - thư viện Munich) và trên một vài bản đồ cuối thế kỷ XV. Các tác giả không chỉ dựa vào Marin de Tyr mà còn vào những khẳng định của Aristotle và Sénèque, không cần bất cứ bằng chứng khoa học nào họ cho rằng không có khoảng cách lớn trên biển để đi từ những điểm cực tây của thế giới cũ đến những điểm cực đông; do đó Đại Tây Dương ít ngăn cách Châu Âu và Tây Phi với các bờ biển phía Đông của Châu Á, và chúng ta có thể đến Cipangu và Cathay do Marco mô tả.

Một trong số những người chấp nhận hăng hái nhất của ý tưởng mới này có thể là Christophe Colomb. Chúng khẳng định những hiểu biết mà chúng ta đã tập hợp về sự tồn tại của những vùng đất trong những chuyến khởi hành đầu tiên của ông và trong thời gian ông lưu trú tại Bồ Đào Nha.

Trong đầu ông những vùng đất đó có thể là bờ biển phía đông của Châu Á, tức là những vùng do Marco Polo miêu tả, những ảo tưởng mà ông bao giờ cũng theo dõi mà giữ cho đến lúc chết. Chúng ta biết trong chuyến du hành đầu tiên của ông, ông có mang theo một bức thư của vua Tây Ban Nha gửi cho Đại Hãn - ít ra Colomb khẳng định điều này vì bức thư này tôi đã đọc được ở kho lưu trữ Barcelone, nó là bản chép duy nhất còn tồn tại (Registres, 3569 f.136) không nhắc riêng đến Đại Hãn.

Sự ham muốn của người đàn ông thành Gênes (những người đồng hương của ông, thậm chí và nhất là đối với những người Ý, tượng trưng cho lòng tham tiền và tính hà tiện) có thể thúc đẩy ông đi theo con đường ngắn nhất để đạt đến những tài nguyên phong phú huyền thoại do người đàn ông thành Venise phát hiện bởi ám ảnh về vàng luôn bám lấy Colomb, nó không cho phép ông ngờ vực một chút nào toàn bộ sự thật về những điều phát hiện đó. Những cung điện của Cambuluc và của Cipangu, những tòa tháp của Mien, những miếng óng ánh và những cục kim loại của những con sông của Tebet, được ông xem như là một thực thể dễ dàng với tới được bằng đường xuyên qua Đại Tây Dương. Ngoài ra còn có những nơi mà ngọc trai của Maabar, những viên đá rubi của Ceylan và cuối cùng là nguồn lợi phong phú của ngành thương mại. Gia vị, đinh hương, hạt tiêu, quế, tất cả những sản phẩm mà hiện nay chúng ta coi thường nhưng vào thế kỷ XV, những sản phẩm đó chỉ đến Châu Âu nhờ những đoàn lái buôn lạc đà của người Turkestan xuyên qua hoang mạc và các tàu buôn Ađen và chúng được bán theo trọng lượng vàng. Tôi đã nghiên cứu trong kho lưu trữ tổng quát về Ấn Độ ở Seville, một phiên bản Marco du ký do Christophe Colomb chú thích. Đúng ra đó là bản tóm tắt do Fr. Pipino thực hiện, De consuetudinibus et conditionibus Orientalium regionum, được in tại Anvers vào năm 1485.

Trong 366 lời chú thích bên lề từ tay nhà Hàng hải, chúng ta phát hiện những quan tâm hệt như trong Hiệp ước đầu hàng tháng tư 1492 và trong nhật ký hàng hải do Navarette xuất bản: vàng, bạc, ngọc trai, gia vị (xem các ghi chú bên lề 47, 125, 274, 301, 328). Chúng ta thấy rằng những viễn tưởng từ Viễn Đông gây hứng thú tột bực cho nhà phiêu lưu hám lợi. Cũng nỗi ám ảnh đó được tìm thấy trong các ghi chú ông ghi bên lề một quyển sách của Pline l’Ancien ở trong cùng kho lưu trữ trên.

Tất cả hoặc hầu như tất cả đều được đánh dấu ở những đoạn có đề cập đến vàng, bạc, ngọc trai: “Ora, plata Adonde cavan oro y plata Crise y Argire (hai đảo) la tierra dellas llena deo ro y plata Oro, perlas Adonde ay muchas perlas.” Tất cả những điều đó đều xuất phát từ bàn tay và bộ óc của Colomb. Cũng chính tâm trạng này làm cho ông rề rà đối với những sự mặc cả dai dẳng với vua Ferdinand, con người cũng hám lợi như ông, khi ấn định tỷ lệ phần trăm cho Colomb về lợi nhuận của việc kinh doanh: 25% không hơn không kém từ tất cả những gì do Ấn Độ sản xuất ra.

Điều chắc chắn là cái ảnh ảo mạ vàng đã được Marco Polo du ký đánh thức trong trí óc của Colomb. Chính vì điều này mà chúng ta có thể cho rằng nhà du lịch thành Venise đã tạo nên việc phát hiện ra Mỹ châu. Những dữ kiện địa lý của tác phẩm “Cuộc trò chuyện thân mật về Thế giới” đã vượt quá sự mong đợi của các nhà vũ trụ học như Sacrobosco, Pierre d’Ailly, Ptolémée và Marin de Tyr. Những đoạn mô tả của ông về tài nguyên phong phú không đếm xuể của Châu Á có thể kích thích những người giàu có đầy nghị lực của thế kỷ XV thèm thuồng lợi lộc, cái thứ đã dẫn dắt các nhà phát kiến vĩ đại đến tận những vùng đất xa xôi nhất. Thế kỷ XV và XVI không giấu diếm điều này, mặc dầu mang trong hành trang của mình sự cải hóa những người vô tín ngưỡng; thế kỷ XVIII và XIX đã ngụy trang cuộc phiêu lưu thành những cuộc thám hiểm khoa học hoặc mang tính cách từ thiện, nhưng rốt cục, những điều đó luôn luôn kết thúc bằng những cuộc chinh phục và thiết lập các chi nhánh thương mại, cho dù đó là vấn đề của các nhà truyền giáo người Anh.

Marco Polo du ký không chỉ tạo nên chuyến đi thám hiểm của Colomb và việc khám phá ra lục địa mới. Bức tranh mà ông đưa ra về Châu Á đã làm mê hoặc những ánh mắt thèm thuồng của tất cả những vị vua độc tài của Châu Âu, triều đình dè xẻn của họ chẳng có nghĩa lý gì so với các chuồng ngựa hoặc chuồng chó của Khoubilai. Chương “Đây là chuyện kể về tô tức kếch sù hàng năm của Đại Hãn” với mười lăm triệu bảy trăm ngàn tám cân vàng cho một phần chín của một tỉnh duy nhất là Mangi, có thể làm cho các vị vua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không phải lúc nào cũng có một trăm ngàn êcu trong két của họ phải đắm mình vào những cơn mê bất tận. Chúng ta hiểu nỗi lo lắng của triều vua Joao và Fernand đồng thời cũng biết nguyên nhân vì sao từ 1420 hoàng tử nổi tiếng của Bồ Đào Nha, Henri nhà hàng hải, đã sáng lập trường Sagres, nhờ đó ông đã cổ vũ cho những cuộc khám phá ra Châu Mỹ với Colomb, Ấn Độ với Vasco de Gama. Nó cho phép con người vĩ đại được Camoens biểu dương là người đầu tiên đến được những vùng mà Marco Polo đã miêu tả. Giấc mơ của Colomb là đến Châu Á bằng con đường phía Tây chỉ được thực hiện bởi Magellan hai mươi bốn năm sau Gama.

Tôi nghĩ rằng những điều mô tả đầy vàng của Marco Polo mãi mãi ám ảnh đầu óc của những nhà phiêu lưu ít học đi chinh phục Mêhicô và Pêru để rồi tìm được “La tierra llena de oro y plata, las minas adonde cavan oro y plata” những điều làm cho Colomb mơ ước trong quyển Pipino và quyển sách của Pline L’Ancien của ông. Chắc chắn rằng sự thôi thúc ban đầu của lợi lộc đối với miền Đất Hứa cho việc đầu cơ đã được tạo nên bởi nhà tiểu thương thành Venise và tuyệt tác đồ sộ của ông.