ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ TỈNH GAIANDU
Gaiandu (xứ sở của những người Ghendon ở về phía Đông Nam Tây Tạng) là một tỉnh ở về phía Tây và có vua cai trị. Dân cư thờ ngẫu tượng và là thần dân của Đại Hãn. Nó có nhiều thành phố và thị trấn. Họ có một cái hồ có ngọc trai, nhưng Đại Hãn không muốn để ai lấy ngọc ở đó, bởi vì nếu mọi người tự do thu nhặt ngọc trai, họ sẽ thu nhiều đến mức ngọc trai sẽ trở nên tầm thường và không còn giá trị như trước nữa. Nhưng khi Chúa thượng muốn, ông sẽ cho thu nhặt theo ý muốn của ông. Tuy nhiên, không người nào khác được quyền thu nhặt, họ có thể bị xử tử ngay.
Có một ngọn núi nơi đó người ta tìm thấy một loại đá gọi là đá ngọc lam, đó là những viên đá đẹp và có rất nhiều, nhưng Đại Hãn chỉ cho khai thác khi nào ông ra lệnh.
Trong tỉnh này còn có một phong tục mà tôi sẽ kể cho các bạn nghe sau đây. Đó là họ không coi là hành vi đê tiện, khi một người ngoại quốc hoặc một người nào khác làm nhục vợ hoặc con gái hoặc chị của họ hoặc bất cứ phụ nữ nào đang ở trong nhà họ; nhưng họ rất hân hạnh khi những người đó ngủ với các phụ nữ, và họ cho rằng, nhờ vậy, các thần linh và ngẫu tượng của họ muốn điều tốt cho họ và ban cho họ nhiều của cải vật chất. Chính vì thế, họ tỏ ra rất hào phóng khi nhường vợ cho những người xa lạ và những người khác, như tôi sẽ nói với các bạn sau đây; vì khi họ thấy một người xa lạ muốn ở trọ, mỗi người đều muốn đón tiếp họ vào nhà của mình. Từ khi họ đến ở, người chủ liền rời khỏi nhà đồng thời ra lệnh mọi người phải tuân theo ý muốn của người lạ. Khi chủ nhà đã nói và ra lệnh như thế, ông liền đi đến các vườn nho hoặc đồng ruộng của mình và ông sẽ không trở về nhà trước khi người lạ ra đi, đôi khi người lạ ở trong nhà của khổ chủ ba hoặc bốn ngày, đồng thời nhận được sự thỏa mãn với vợ, con gái hoặc chị của khổ chủ hoặc với bất cứ phụ nữ nào làm cho y sung sướng nhất. Bao lâu còn có mặt trong nhà, người lạ treo ở cửa chính chiếc mũ của y hoặc một dấu hiệu nào khác để chủ nhà biết họ còn ở lại. Hễ khi nào vẫn còn nhìn thấy dấu hiệu đó, ông chủ sẽ không dám về nhà. Toàn tỉnh vẫn duy trì tập tục này.
Họ sử dụng tiền tệ theo cách này: vàng ở dạng nén và họ cho cân nó; cân được bao nhiêu, nó sẽ có giá bấy nhiêu. Nhưng họ không có bất cứ tiền đúc nào. Đồng tiền nhỏ nhất của họ được làm như thế này: họ lấy muối và nấu cho chảy ra, rồi đổ vào trong một cái khuôn; mỗi thứ lớn đến mức có thể nặng chừng nửa livrơ. Tám mươi dạng muối như thế này có giá trị bằng một saggio vàng ròng (Saggio của Venise, đồng tiền có giá bằng hai mươi centimes của tuổi vàng). Đó là một cân, và đó cũng là đồng tiền lưu hành nhỏ. Họ có nhiều thú cho xạ hương, nên xạ hương có rất nhiều. Họ cũng có nhiều cá và đánh cá trong hồ nơi mà tôi đã nói với các bạn là có nhiều ngọc trai; tỉnh này còn có nhiều thú rừng như sư tử, gấu, hoẵng, chó sói cũng như lạc đà và đủ các loài chim chóc nhiều vô kể. Họ không có rượu nho, nhưng có rượu được làm bằng lúa mì, gạo và gia vị rất ngon. Trong tỉnh này, còn có nhiều cây đinh hương. Cũng có một loại cây nhỏ có lá như cây long não, nhưng dài và hẹp hơn, hoa nó màu trắng nhỏ như hoa đinh hương. Họ còn có gừng và quế rất nhiều, cũng như những loại gia vị khác không bao giờ thấy có ở nước chúng ta, vì vậy không cần nói đến chúng ở đây.
Về vùng Gaiandu này, khi đi ngựa, người ta bắt gặp một con sông gọi là Bruis, đây là ranh giới của tỉnh Gaiandu. Trong con sông chảy đến tận biển Océane này, người ta tìm thấy có nhiều vảy vàng.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ TỈNH CARAIAN
Qua khỏi con sông này, chúng ta đi vào trong tỉnh Caraian rộng lớn, vì nó gồm bảy vương quốc. Nó nằm về hướng Tây. Dân cư thờ ngẫu tượng và thuộc quyền của Đại Hãn. Nhưng một đứa con của ông là Essantemur làm vua tỉnh này. Đó là một vị vua rất nổi tiếng, giàu có và đầy thế lực; ông cai trị vương quốc trong sự công chính vì ông là người khôn ngoan và can đảm.
Từ con sông đi về phía Tây trong năm ngày, chúng ta gặp nhiều thành phố và thị trấn. Dân cư sống về nghề chăn nuôi gia súc và trồng trọt; họ có những con ngựa rất tốt. Họ có tiếng nói riêng nhưng rất khó nghe. Sau năm ngày đường, chúng ta đến thành phố chính, đồng thời là thủ đô của vương quốc có tên là Jaci (Li Kiang Fou, trong vùng Yunnan hiện nay), thành phố rất lớn và sang trọng. Ở đây, có nhiều nhà buôn và thợ thủ công. Dân cư gồm nhiều hạng người: tín đồ ngẫu tượng, người Sarrasin, một số ít người Ki tô giáo thuộc phái Nestorien. Họ trồng rất nhiều lúa mì, lúa gạo, nhưng họ không ăn bánh mì bao nhiêu, vì nó không ngon, họ ăn cơm và dùng nó với gia vị để làm ra một thứ thức uống rất trong và rất bổ dưỡng. Họ dùng những ốc làn trắng làm tiền tệ, đó là những loài ốc sống ở biển; họ còn đeo ốc này ở cổ những con chó. Tám mươi con ốc làn giá trị bằng một saie bạc và bằng hai đồng tiền lớn Venise, tức là hai mươi bốn livrơ; Tám saie bạc giá trị bằng một saie vàng. Họ còn có những mỏ muối, họ khai thác muối từ những mỏ này, tất cả dân cư trong vùng này sinh sống nhờ muối. Tôi cho các bạn biết rằng nhà vua thu nhiều mối lợi lớn nhờ vào mỏ muối này. Họ không cảm thấy công phẫn khi có một người đàn ông nào ngủ với vợ của một người khác, miễn là người vợ đồng ý. Họ có một cái hồ có chu vi là một trăm dặm, trong hồ có trữ lượng cá rất lớn thuộc loại cá ngon nhất thế giới, cá rất to và có nhiều loại khác nhau. Tôi còn cho bạn biết rằng dân cư xứ này còn ăn thịt sống như thịt cừu, bò, gà mái và tất cả các loại thịt khác; vì họ đến nơi giết thịt và ăn gan sống khi nó vừa được rút ra khỏi con vật; họ cắt ra từng miếng nhỏ rồi trộn vào nước xốt làm từ nước nóng và gia vị; họ cũng ăn tất cả các loại thịt sống khác như thế giống như chúng ta ăn thịt chín vậy.
Đi ngựa từ thành phố Jaci này về hướng tây trong mười ngày, chúng ta vẫn còn ở trong tỉnh Caraian và gặp một thành phố lớn khác cũng gọi là Caraian. Thành phố được cai trị bởi một vị vua là con trai khác của Đại Hãn, có tên là Cogacin. Trong vùng này, người ta tìm thấy vô số vảy vàng to hơn ở các nơi khác; vàng có trong các sông hồ và trong các dãy núi. Họ có nhiều vàng đến nỗi họ tính một cân bằng sáu cân bạc.
Họ cũng dùng làm tiền tệ những loại ốc làn như tôi đã nói, chúng không có trong xứ, nhưng đến từ Ấn Độ.
Trong tỉnh này sinh sản nhiều loài rắn nước, những con rắn này to lớn đến nỗi ai nhìn thấy chúng cũng hết sức lo sợ, và những người nào chỉ cần nghe nói thôi cũng kinh sợ vì chúng quá gớm ghiếc. Tôi sẽ nói cho các bạn biết vì sao chúng to béo như thế. Có những con dài đến mười bước chân, có khi dài hơn hoặc ngắn hơn và to như một chiếc thùng tôn nô có chu vi là mười lòng bàn tay. Chúng có hai chân trước, gần đầu, không có một bàn chân nào khác ngoài một móng vuốt như móng vuốt của một con chim ưng hoặc một con sư tử. Đầu nó rất to và đôi mắt to hơn một ổ bánh mì lớn. Miệng nó rộng đến nỗi nó có thể nuốt trửng cả một người đàn ông.
Chúng gớm ghiếc, xấu xa và dã man đến nỗi không người nào, không vật nào mà không sợ chúng. Người ta bắt chúng bằng cách này: ban ngày, chúng ở dưới mặt đất do trời rất nóng; chúng chỉ ra ngoài vào ban đêm để ních cho no nê những con thú mà chúng có thể bắt được, hoặc uống nước ở sông hồ và các con suối. Chúng nặng nề đến nỗi khi chúng đi ban đêm để kiếm ăn, chúng dùng đuôi để đào trong cát một cái hố rất lớn bằng một thùng rượu. Những thợ săn nào muốn bắt chúng, họ đặt bẫy trên đường đi của chúng, vì họ biết chúng sẽ trở về bằng con đường đó; họ đóng xuống đất một chiếc cọc gỗ rất sâu và cột ở đó một thanh sắt bén được làm giống như một chiếc dao cạo, rồi họ phủ cát lên trên để rắn không nhìn thấy. Những người thợ săn cắm nhiều cọc có buộc thanh sắt trên đường rắn đi, và con thú bị thương dùng sức vùng vẫy nên miếng sắt len sâu vào bụng nó và chẻ nó đến tận rốn, do đó, nó chết thật nhanh, và thế là những người thợ săn đến tóm lấy nó.
Khi bắt được rắn, họ lấy mật từ bụng rắn và bán với giá rất đắt; người ta dùng mật để làm thuốc, vì nếu một người bị chó dại cắn, người ta liền cho y uống một chút mật đó, người bị chó cắn liền được chữa khỏi ngay với một liều lượng nặng bằng một đồng đơniê. Khi một phụ nữ không thể đẻ con, nếu người ta cho bà uống cũng một liều lượng như thế, bà ta sẽ sinh con ngay; một người nào mắc một căn bệnh gì đó chẳng hạn như bệnh ung nhọt hoặc một bệnh nào khác tồi tệ hơn, nếu ta đắp mật rắn lên ung nhọt, không bao lâu, người đó sẽ khỏi bệnh. Chính vì vậy mà mật rắn được bán rất đắt. Khi những con rắn này đói lả, có khi chúng đến tận ổ của những con sư tử, gấu hoặc những con thú lớn khác và ăn những con thú con mà bố mẹ chúng không thể bảo vệ được chúng; khi chúng tóm được những con thú lớn, chúng cũng ăn ráo, vì những con thú này cũng không tự bảo vệ chúng được.
Trong tỉnh này còn sản sinh ra những con ngựa to và tốt giống để bán sang Ấn Độ. Họ cắt hai hoặc ba dây thần kinh ở đuôi ngựa để nó không thể dùng đuôi quất những người leo lên lưng nó để cưỡi, vì nếu nhận cú quất của đuôi ngựa là một điều sỉ nhục. Bạn nên biết rằng những người dân ở đây cưỡi ngựa giống như những người Pháp với những chiếc roi dài; họ còn có những áo giáp làm bằng da thuộc, những chiếc giáo, khiên và cung nỏ; họ còn tẩm thuốc độc các mũi tên của họ. Tôi sẽ nói với các bạn một điều ô nhục mà họ đã làm trước khi Đại Hãn chinh phục họ: Nếu người đàn ông nào có vẻ mạnh khỏe, một người hào hoa hoặc bất cứ người nào khác đến ngụ trong nhà họ, họ liền đầu độc và ra tay giết chết người đó, không phải họ làm để cướp bóc tài sản, nhưng bởi vì họ tin rằng vẻ mặt mạnh khỏe của họ, thiện ý và lương tri sẽ ở lại với linh hồn y trong ngôi nhà mà y bị giết. Nhưng từ khi Đại Hãn chinh phục xứ sở được ba mươi năm nay, họ đã từ bỏ phong tục xấu xa này, bởi vì họ sợ Đại Hãn, ông không cho phép họ làm như thế.