Chương 15
Kì Phương lao tới tuốt tờ giấy trong tay Thi Nga rồi hướng về phía mặt trời. Dòng chữ hiện lên làm anh choáng váng.
Mặt sau là:
Chính là:
.
Nghĩa chữ này là BHADRESVARA. Đây là vương hiệu của vua Champa BHADRAVARMAN. Hay nói theo tên Hán Việt là vua Phạm Hồ Đạt. Ông là người sáng lập ra trung tâm tôn giáo Mỹ Sơn từ cuối thế kỉ thứ IV - một vị vua Champa quyền lực vang danh khắp Á Châu cổ đại. Ông có công mở mang bờ cõi, thống nhất hai miền bắc nam Champa và quyền lực xuyên suốt. Về văn hóa, các nhà nghiên cứu đánh giá ông là một nhà khai sáng, ông cổ võ cho một nền văn hóa mang bản sắc Chăm. Dưới sự trị vì của ông tiếng Chăm cổ được phát minh rồi dần dần lấn át và thay thế tiếng Phạn. Tiếng Chăm cổ được xem là chữ viết bản địa đầu tiên của Đông Nam Á thoát ra sự thống trị của Phạn ngữ. Hầu hết các bia kí ở bắc và một phần nam Champa đều ca tụng đức vua này với một niềm kiêu hãnh sâu sắc.
Kì Phương đứng trơ lặng giữa nhà, đầu óc hoa lên như lạc về thời tiền sử với trùng trùng chữ nghĩa mông lung. Bỗng Thi Nga sấn tới giật lại tờ giấy trên tay anh rồi hỏi dồn.
- Tên sát thủ là ai?
Câu hỏi của cô làm Kì Phương bừng tỉnh. Giáo sư Huỳnh Lẫm đã tiên định đúng: dòng chữ có tính dương, nó đã thay thế linga và là tên của một vua Chăm được phong thần. Và đúng như vậy. Ông là Bhadravarman - Phạm Hồ Đạt. Câu hỏi mới nảy sinh là tại sao kẻ đó lại viết tên ông lên yoni để cúng tế? Và tại sao một nơi xa xôi như Naga cũng có dấu ấn của vị vua Champa này cơ chứ? Không lẽ ông ta đã xác lập chủ quyền tận đất Angkor? Hay là kho báu này được vua Phạm Hồ Đạt mang gửi cho các tu sĩ cũng là đạo hữu Bàlamon ở đó cất giữ khi binh biến loạn lạc rồi “ bỏ quên’’ ở đó đến nay?
- Đây không phải là tên hung thủ, tôi xin lỗi. – Kì Phương lắp bắp. – Đây là tên vua Bhadravarman.
- Vậy tại sao ông ta lại “ nằm’’ lên… yoni?
- Có ai đó đã viết tên ông ta để hiến tế.
- Hiến tế người? – Thi Nga trố mắt hỏi.
- Đúng thế, có nghi lễ hiến tế người ở Mỹ Sơn lẫn Naga.
Thi Nga rủn người sau tuyên bố lạnh tanh của anh, cô không thể tin nổi những nghĩ lễ man rợ từ thủa hồng hoang xa lắc nào đó cũng hiện ngay trên cái nôi sinh ra cô.
- Anh nói có cơ sở gì không?
Có lẽ đã đến lúc Kì Phương phải kể cho cô biết rằng các vương triều Champa đều có nghi lễ tế người trên đền tháp. Đó là một sinh hoạt tôn giáo mà tầng lớp tăng lữ rất hân hoan chào đón như một nghi lễ thiêng liêng nhất. Họ dâng lễ vật từ vàng bạc châu báu cho đến cả... người sống. Đây là sự thực với vô số bằng chứng thuyết phục.
Bài minh khắc trên bia kí năm 1081 ở tháp D3 nói về vua Harivarma dâng tặng thần linh có đoạn viết: “ Ngài đến cúng thần với lòng ngoan đạo và dâng cho thần. Ngài dâng cúng những người thuộc các loại khác nhau như khoảng một trăm tôi tớ đàn bà, đàn ông, bò trâu voi và các loại đồ vật khác nhau cho thần Srisanabhadresvara vào năm saka 1002’’
Kì Phương băn khoăn không biết thần linh sẽ sử dụng “ một trăm tôi tớ đàn bà và đàn ông’’ như thế nào.
Có nhiều bằng chứng nói vua Phạm Hồ Đạt cũng là người từng tổ chức hiến tế người lên đền tháp.
Nhà nghiên cứu Champa kì cựu Ngô Văn Doanh trong cuốn “ Thánh địa Mỹ Sơn’’ viết rằng: “... Bia Chợ Dinh cho biết, vua Bhadresvara làm lễ hiến tế và có thể có cả người cho thần Siva để mong thần phù trợ cho các con, các cháu của vua’’.
Nói gì thì nói, hiến tế người làm chúng ta liên tưởng đến máu me và chết chóc. Theo triết lí người xưa, đó là sự hi sinh sự sống để dâng hiến cho đấng tối cao mà nhiều tôn giáo cổ trên trái đất đều quan niệm và thực hành như vậy hết. Vậy, các minh văn kia nói tế thần “ hàng trăm đàn ông và đàn bà’’ để làm gì nếu không phải là lấy máu? Người Chăm cổ chém súc vật lấy máu tế thần thì ai cũng biết. Lễ cắt cổ trâu bằng thanh kiếm dài hướng về phía mặt trời mọc để lấy máu tế thần trên núi Đá trắng vẫn còn đó di tích lẫn thần chú. Tế thần Siva trên đền tháp chính là nghi thức tắm linga bằng chất lỏng. Xưa, chất lỏng đó là nước thiêng được chế từ nước suối và hương liệu, sang hơn thì sữa hoặc rượu, sang nữa thì có máu dê, ngựa. Và tột đỉnh của sang trọng là máu người.
Phải chăng tế máu người là có thật? Nghi lễ cổ xưa rùng rợn này dường như bắt đầu sống lại ở Mỹ Sơn sáng nay sao?
- Anh nghĩ gì mà thần người ra thế? – Thi Nga giật mạnh tay anh. – Nếu có lễ hiến tế thì có liên quan gì đến kho báu hay không?
- Hãy tạm gác chuyện hiến tế người lại đã. – Kì Phương nói. - Chúng ta phải tập trung tìm ra Naga trước.
- Vua Phạm Hồ Đạt có liên quan đến một trong mấy ngôi tháp này không? – Cô hỏi.
- Không, vua Bhadravarman chỉ dựng một ngôi đền bằng gỗ đầu thế kỉ thứ IV nhưng sau đó đã bị cháy, còn các tháp này đều từ thế kỉ thứ VIII trở đi.
- Lúc anh giải mã bảng kí tự tôi thấy có gì đó chưa ổn, cái khung cửa và chiếc cột đá trong bảo tàng không phải là ý đồ của ba tôi.
- Tại sao? Không ổn chỗ nào?
- Đó là anh chỉ căn cứ vào tiếng anh Door và Column, nhưng theo tôi biết ba tôi rất kiêng dùng tiếng anh trừ khi bất khả kháng.
- Vậy thì D phải dùng tiếng Pháp để suy luận? – Anh hỏi.
- Cũng không.
- Vậy thì dùng tiếng Chăm của cô chắc?
- Tiếng Việt! Ông coi Việt Nam là quê hương thì cũng coi tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ của mình.
- Vậy cô giải mã xem nào.
- Em hỏi anh trong đền tháp, đâu mới là nơi chính thức để lưu các văn bản cổ?
- Bia kí. – Kì Phương nói. - Đó là nơi chứa dung lượng lớn nhất. Mỗi tháp luôn có một tấm bia ghi lai lịch của tháp.
- Vậy kí tự “ { “ là hàm ý gì? – cô hỏi.
- Có lẽ là kí hiệu nóc tháp. – anh đáp.
Kì Phương ngắm lại hình hài bản mã, sao giờ đây nó giống đúc một tấm bia kí đến thế không biết.
.
- Tôi nghĩ ra rồi! - Kì Phương nói. - Đây chính là bốn tấm bia kí!
- Nếu đúng thì phải tìm đi chứ? Vấn đề bây giờ quá đơn giản, chỉ cần tìm ra bốn bia này ắt sẽ hiểu ba tôi muốn nói gì. Tìm bia đi thôi!
Kì Phương bỗng nhận ra lời giải mật mã quá đơn giản. Kho báu nằm trên bia kí. Anh nhớ lại một loạt tấm bia kê khai của cải. Bài minh trên bia D3 mặt B nghi chi tiết hơn: “ Ngài dâng mũ miện có trang trí những viên ngọc, hai vòng đeo cổ, 4 kami, 2 kalasa bằng vàng, 8 kalasa bạc,... chim công bằng vàng, 1 havvai vàng... ’’.
Một minh văn tiếng Phạn trên cột tháp B1 nói rõ vua Sri Jaya Indravarman hào phóng với thần linh đến nhường nào. “... Mahesa đã mang năm mặt cùng năm chiếc Kosa vàng. 232 panas bạc đã được dâng... ’’
Khủng khiếp hơn, trên bia A1, toàn bộ 21 dòng mặt chính bằng tiếng Chăm cổ này toàn nói về vàng là vàng: Kosa vàng nặng 137 thil và 200 thil bạc nạm ngọc bích. Đồ cúng khác có 1096 thil vàng và bạc phủ lên một con antargrha 26 thei. Bốn con rắn naga 30 thei vàng. Srumvil nặng 45 thei vàng, bình vàng nặng 24 thei... Minh văn này còn nói “ Nếu gom số vàng này lại đủ để phủ lên tất cả các đền tháp’’
Người Chăm sau bao thế hệ hì hục đục đẽo và dựng văn bia khắp đất nước thì họ mới giật mình cho sự hớ hênh này bởi bia nào cũng khoe khoang dâng tế đầy ắp vàng bạc. Điều này không khác thống kê của cải và chi tiêu trong nhà rồi dán ra ngoài cổng cho thiên hạ thấy. Họ bỗng lo sợ hậu thế sẽ lật tung thánh địa và đào bới các vùng đất thiêng nên vội vã răn đe khi dựng tháp A1. Câu thứ 11 mặt A văn bia tiếng Phạn này viết: “ trước đức vua người thấu hiểu bốn bộ veda, trước các triều thần của Ngài, và trước mọi người, tôi tuyên bố: vì lòng trắc ẩn đối với tôi xin đừng phá những đồ cúng của tôi’’
Chắc lại không yên tâm vào “ lòng trắc ẩn’’ của đám hậu thế tham lam nên đến câu thứ 9, họ đã thòng thêm một câu mà bất cứ ai đọc xong cũng thấy lạnh người: “ ai giữ gìn các đồ cúng thần này thì công đức sẽ thuộc về người đó. Ai không gìn giữ mà phá hoại thì người đó sẽ bị tiêu hủy. Bhadresvarasvami thấu hiểu’’.
Số đồ cúng này sau khi làm lễ không để lại trên tháp mà được mang về cung đình hoặc được các tu sĩ cất giùm thần linh rồi ghi lại nơi cất dấu trên đá.
Nhiều nhà khoa học đã âm thầm nghiên cứu mối liên hệ giữa kho báu đã tìm thấy và những di chỉ trên bia kí mong tìm ra một quy luật để tìm thấy kho báu khác. Paul là một trong số đó nhưng chưa bao giờ ông hé lộ điều gì. Biết đâu trước khi chết ông ta mới chịu khai? Nhìn lại kí hiệu 4 tấm bia này, Kì Phương bắt đầu kì vọng.
- Có thể đây là bí ẩn lớn nhất của ba cô. – Kì Phương nói thận trọng. - Phải tìm bốn tấm bia này để xem sao đã.
- Chắc hẳn là thế, vấn đề bây giờ quá đơn giản.
- Không như cô nghĩ đâu. Lượng chữ trên bốn tấm bia này ngang với bốn cuốn sách và đáng tiếc là bia không còn nguyên vẹn nữa.
- Hay là bị ai đó đập vỡ?
- Tôi đã bỏ ra ba năm khảo sát và nhận ra một quy luật: bia càng “ chứa’’ nhiều vàng càng hay bị vỡ.
- Rất chí lí. – cô nói. - kẻ trộm khi đọc xong bèn phi tang sợ kẻ sau tranh cướp.
- Chưa hẳn, tôi cho kẻ phá bia kí chính là các... đạo sĩ Champa!
Thi Nga giật phắt người:
- Tầm bậy, anh ăn nói cẩn thận đấy.
- Hầu như hàng trăm văn bia đều nói về hiến tế vàng bạc, đá quý. Nhưng tấm bia đó đã vô tình chỉ điểm và gây hiểm họa. Khi ngoại xâm tràn vào, không những tượng thờ trên tháp bị dọn sạch mà chúng còn lần theo các văn bia để tìm kiếm của cải. Mỗi khi có giặc hoặc di dời kinh đô các tu sĩ phải làm nhiệm vụ hủy manh mối. Chính các đạo sĩ Champa đã đập vỡ các tấm bia hoặc cưa ra nhiều mảnh và chôn bí mật xuống những nơi khác nhau để đến lúc nào đó họ sẽ ghép lại để tìm lại kho báu.
Thi Nga nói. – Hi vọng 4 tấm bia này chưa bị cưa. Tìm bia đâu bây giờ?
Là người gần như có mặt hằng ngày ở thánh địa nhưng chính anh cũng không biết rõ các văn bia này đang ở đâu. Chắc chắn nó không còn ở cạnh tháp, có thể nó gãy vỡ trong lòng đất, nếu may mắn hơn thì được mang vào các bảo tàng.
- Quý khách đáp chuyến bay VN1307 chú ý...
Tiếng loa vang lên đầy thôi thúc, Kì Phương như đang đứng ở ngã ba đường. Đi tiếp hoặc quay lại tìm văn bia. Nếu ở lại thì anh cũng nhờ phải người tìm giúp trong khi một cuộc hẹn với vua đồ cổ đã lên lịch.
- Đi thôi! – Anh nói. - Tôi đã có cách.