PHẦN II -Chương mười Lời biện hộ cuối cùng (Closing Argument)
Dẫn nhập: bản Việt ngữ này được dịch sát theo biên bản tốc ký Anh ngữ của tòa ghi lại lời biện hộ ứng khẩu của luật sư Nguyễn Tâm, đại diện cho nhà văn Nguyên Vũ.
Bài biện hộ đã gây được cảm tình của bồi thẩm đoàn và góp phần quan trọng vào sự thắng lợi vẻ vang của bên bị kiện.
Kính thưa quý vị Bồi thẩm đoàn,
Ông luật sư Richard Givens vừa lấy làm hối tiếc vì đã quên không thêm vào 1 đoạn biện hộ « thống thiết » trong bài cãi của ông ta. Nhưng may mắn thay, GS Cao Thế Dung đã làm việc đó. Do đó, tôi chỉ nói thêm 1 cách vắn tắt.
Như chúng tôi đã có dịp giới thiệu với quý vị cách đây 8 ngày, vụ kiện này không phải chỉ liên quan tới 1 vụ án mạng. Nhưng tôi xin thưa rằng nó liên quan mật thiết tới cuộc « Viễn chinh tìm Tự Do » (The long Road to the Freedom). Và nó cũng liên quan tới « Mặt Trận » (the Front). Đó chính mới là nguyên do của những lời qua lại, những viết lách, những nghi ngờ đố kỵ, những niềm tin đánh mất, và rồi dẫn đưa tới vụ án này.
Người Việt chúng tôi rời bỏ quê hương, tìm tới được nước Mỹ, tưởng chừng như tìm được tới bến bờ tự do. Nhưng cuộc hành trình quả thật dai dẳng, và chúng tôi vẫn còn đang ráng sức. Chúng tôi đã đánh mất 10 năm qua.
Quý vị đã nghe các lời khai, rồi đây sẽ được nghe quan tòa chỉ dẫn về các yếu tố luật pháp. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích công lao của quý vị, và xin quý vị tiếp tục vai trò cao cả của mình là: cân nhắc các bằng chứng, đem luật pháp áp dụng vào, rồi nghị án và tuyên bố 1 phán quyết công bằng và chính đáng.
Vụ án này gây sôi động tình cảm nhiều hơn chúng tôi dự đoán, và cũng khó khăn bội phần. Tôi xin được giải thích lý do: quý vị chỉ có 8 ngày để nghe câu chuyện của 10 năm. Thật khó mà thấu hiểu được toàn thể nội vụ, vì thưa quý vị, lời nói đâu có phải chỉ rẻ như bèo. Ngược lại, có 1 người đã nói lên quá nhiều, và đã phải trả 1 giá quá đắt bằng chính mạng sống của mình, và người vợ vô tội của ông ta đã bị chết oan. Đó là vợ chồng ký giả Lê Triết.
Đây chính là quyền của người cầm bút được cất lên tiếng nói, và chúng ta, công dân của đất nước tự do và xã hội văn minh này, có quyền được nghe và biết tới. Những người cầm bút, trong khả năng giới hạn của họ, với phương tiện khiêm tốn, đã vùng dậy. Họ có thể đã vụng về, và chúng ta cũng đã có lẽ mong sao cho họ viết lách cho hay, cho giỏi hơn. Nhưng tất cả chỉ là 1 mũi chỏm nhỏ xíu của tảng băng sơn, 1 loại tảng băng sơn đã đánh chìm chiếc thuyền « Titanic mang tên Tự do ». Trên chiếc thuyền đó chuyên chở lý tưởng tự do của những người Việt Nam đã rời bỏ quê hương để tới đây. Và những mảnh vỡ vụn của chiếc thuyền đó đang còn trôi dạt đó đây, vẫn còn loay hoay tìm đường tới bến đích cuối cùng để gầy dựng tổ ấm, trong an toàn, trong tự do, không còn phải sợ hãi.
Luật sư nguyên đơn, ông Paul Kleven, sẽ có cơ hội tóm lược nội vụ theo quan điểm của họ 1 lần nữa sau khi tôi phát biểu. Đây là cơ hội duy nhất của tôi, và có lẽ là cơ hội cuối cùng của quý vị để nghe chúng tôi trình bày. Do đó, khi kết thúc vụ án, chúng tôi kính xin quý vị, với 1 lương tâm sáng suốt, tuyên án thắng kiện không những cho riêng thân chủ của tôi, ông Nguyên Vũ, mà cho toàn thể bên bị đơn, nhà văn Cao Thế Dung, tác giả của các bài báo và quyển sách, và nhà báo Nguyễn Thanh Hoàng cùng tờ VNTP. Vì, quả thật, nếu không có những người này thì đâu còn ai dám đứng lên cất tiếng nói.
Luật sư nguyên đơn trong phần tóm lược và dẫn chứng lời khai có vài điều hơi dị biệt 1 chút, nhưng tương đối nhỏ nhặt không đáng quan tâm. Phần tôi xin được tóm tắt những gì chúng ta đã thực sự nghe thấy trong suốt phiên tòa.
Luật sư Paul Kleven đã nhấn mạnh nhiều lần có bằng chứng rõ ràng rằng thân chủ của tôi có sự « nghi ngờ » (doubt) về nội dung quyển sách. Quý vị sẽ được quan tòa án chỉ dạy rằng yếu tố quan trọng là lúc in quyển sách, bị đơn phải:
-hoặc « biết rõ điều đó sai »,
-hoặc « có nghi ngờ trầm trọng về sự thật ».
Đã hơn 1 lần, thật vậy, đã 3 lần ông Nguyên Vũ đã khai rõ trước mặt quý vị rằng tuyệt đối ông ta không nghi ngờ gì về vấn đề sự thật, nhưng với tư cách 1 nhà sử gia chuyên nghiệp, ông ta có quan tâm tới phương pháp nghiên cứu và khả năng sưu tra các tài liệu và bằng chứng. Và, thưa quý vị, đã 4 năm trôi qua, ngay cả cơ quan FBI, và các cơ quan điều tra công quyền, với tất cả phương tiện dồi dào, với tất cả thành tâm thiện chí, cũng không tìm ra được bằng chứng cụ thể, huống hồ 1 mình ông Cao Thế Dung.
Mặt khác, thân chủ của tôi, ông Nguyên Vũ, không hề có bất cứ chứng từ gì trong kiến thức hay niềm tin của ông ta, để phủ nhận việc ấy. Thật vậy, ông ta đã dựa vào nhiều nguồn tài liệu rất đáng tin cậy, về những vấn đề rất trầm trọng của Mặt Trận, về những người lãnh đạo, về 3 người nguyên đơn, về những tông tích, và về những hoạt động khắp nơi, …
Cũng tương tự như vậy, ông Nguyên Vũ, cùng với rất nhiều người khác, thân cận với ông Hoàng Cơ Minh, đã xác nhận tấm hình của người chết chính là khuôn mặt của ông Minh. Đã 7 năm trôi qua, ông Hoàng Cơ Minh vẫn biệt tăm. Chúng ta đang sống vào cuối thế kỷ 20, sắp bước sang thế kỷ 21, muốn minh chứng 1 người còn sống thì đâu mấy khó khăn. Tuy vậy, giới lãnh đạo Mặt Trận vẫn « tin » rằng ông ta còn sống, còn đang lãnh đạo cuộc « kháng chiến » trong nước Việt Nam. Họ vẫn « tin tưởng » như vậy, bất chấp tất cả các bằng chứng hiển nhiên ngược lại. Quý vị đã nghe ông Nguyễn Xuân Phác xác nhận rằng vào cuối năm 1987 là lần duy nhất là cái chết của ông Minh được chính quyền Việt Nam công bố, chỉ 1 lần thôi, không hề trước đó, không hề sau đó. Lãnh đạo của Mặt Trận lại cho rằng đó chỉ là tuyên truyền.
Ông Hoàng Cơ Định nhìn qua tấm hình, rồi thản nhiên nói: « Không, ông ta vẫn còn sống. » Như thế mà gọi là « niềm tin » hay sao?
Do đó, tóm lại, bên nguyên đơn có bổn phận phải đưa ra các bằng chứng rõ rệt, minh chứng tất cả các yếu tố đòi hỏi của luật pháp, chứng minh rằng bên bị đơn đã biết hoặc đã có những nghi ngờ trầm trọng về sự thật của những điều được viết ra. Nếu không, quý vị phải xử thắng cho bên bị đơn.
Xin được hỏi quý vị, bên nguyên đơn đã làm được việc đó chưa?
Bên nguyên đơn đã đưa ra các nhân chứng, gồm có thêm 3 nhân chứng khác nữa ngoài 3 nguyên đơn. Ông Nguyễn Ngọc Bích nói sơ về tờ báo VNTP, rằng hay thêm mắm thêm muối. Cô nhân chứng xinh đẹp Trần Thị Diệu Thanh nói về sự yêu thương và hòa bình. Ông Ngô Đức nói rằng bác sị Trần Xuân Ninh là 1 người hiền hòa. Họ nói nhiều về hòa bình, tình thương, và sinh hoạt văn hóa. Quý vị đã được nghe quá nhiều. Ngược lại, chính tai quý vị cũng đã được nghe về cương lĩnh của Mặt Trận. Cô thành viên của Mặt Trận, 11 năm hoạt động, nói chuyện duyên dáng bằng tiếng Mỹ tuyệt hảo, đâu có nói tới cái cương lĩnh của Mặt Trận mà chúng ta đã được nghe:
Đó chính là lật đổ chính quyền và giải phóng Việt Nam, giải phóng đồng bào, và chủ trương chống giao thương với Việt Nam.
Quý vị chắc còn nhớ lời khai của ông Nguyễn Xuân Nghĩa, ông ta nói gì về chủ trương của Mặt Trận, và những công tác chống kinh tài ra sao. Quý vị cũng đã nghe lời khai của ông Phạm Văn Liễu. Ông ta phải ra tay cứu mạng 1 kháng chiến quân khỏi tay ông Minh. Ông Minh cũng đưa cho ông Liễu tấm hình 1 tử tội bị trói tay vào cột, chờ bị xử bắn. Ông Liễu sau đó được « mời » về Thái lan. Thử hỏi ông ta có dám đi không? Quý vị cũng đã được nghe về vụ ông Hoàng Cơ Định cầm khẩu súng trong phòng họp đập lên bàn, và về nguyên tắc bảo mật của Machiavelli, và yếu tố thứ tư: tiền bạc cũng phải giữ kín.
Nói về vấn đề « danh dự », thưa quý vị, « danh dự » là gì? Những bài báo chỉ trích ông ta đã 4 năm qua rồi, bác sĩ Trần Xuân Ninh vẫn còn giận dữ, vẫn còn uất hận 1 cách dễ dàng. Đang khi đó, ông ta lại không phiền muộn gì về việc đứa con trai duy nhất là của mình bị chết trên đường vượt biển. Ông ta không phiền trách gì chính quyền cộng sản Việt Nam cả. Rồi lại nói về « tình thương » và « hòa bình ». Ông ta là 1 bác sĩ, nhưng lại chọn lựa theo con đường chính trị của Mặt Trận. Ông ta có khả năng hàn gắn các vết thương, nhưng lại không muốn làm việc đó cho mọi người. Thật vậy, chúng ta đã nghe lời khai rằng sự hận thù và trả đũa đã hằn sâu trong tim óc của bác sĩ Ninh.
Về vấn đề gian dối tiền bạc, ông Phạm Văn Liễu đã nói cho chúng ta nghe, không dưới 14 lần, ông ta đã yêu cầu, ra lệnh, đòi hỏi làm bản báo cáo, phải kiểm tra, phải minh bạch hóa mọi vấn đề tiền bạc. Nhưng chẳng có báo cáo nào, và chẳng bao giờ khai thuế.
Quý vị đã thấy được phần nào sự xa cách của người người nguyên đơn: họ thuộc tầng lớp cao sang nhất là của nước Việt Nam nghèo đói. Họ là lớp trí tuệ nhất là, được giáo dục tại Pháp, tại Mỹ. Thật vậy, bác sĩ Ninh là người duy nhất của cả nước Việt Nam đã được học hỏi về ngành thiếu nhi giải phẫu học của Pháp lẫn Mỹ. Tiến sĩ Hoàng Cơ Định, ông Nguyễn Xuân Nghĩa, đều thuộc thành phần ưu tú của đất nước Việt Nam. Họ tiếc nuối quyền lực đã mất. Họ thèm khát được tái diễn tại Hoa Kỳ đây, muốn tái lập 1 chuyện gì đó tốt hay xấu.
Ngược lại ông Cao Thế Dung làm ta liên tưởng tới thành phần đa số người Việt còn lại. Họ ráng bập bẹ nói tiếng Mỹ, thiếu thốn khả năng phương tiện, ráng vá víu chắp lại những mảnh đời tại vùng đất mới. Nhưng họ lại bị kìm hãm trong bóng tối. Họ bị giam hãm trong sự câm nín đã quá lâu. Và, thưa quý vị, chính hôm nay là ngày họ tìm được tự do đích thực.
Sau ngày lễ Giáng Sinh, rồi qua năm mới, rồi 1 năm nữa cũng trôi qua đi, chuyện gì sẽ xảy ra? Quý vị sẽ nhìn lại và tưởng nhớ tới những tâm hồn đáng thương lần mò tìm tới chân trời tự do này, ráng gầy dựng lại cuộc đời mới, và phải tranh đấu vất vả. Và với lương tâm đó, tôi xin quý vị hãy nhìn lại, hãy xử 1 phán quyết mà chính lòng mình sẽ mãn nguyện, và khi về tới nhà, quý vị kể cho những người thân thương của mình rằng quý vị đã thực thi công lý 1 cách xứng đáng, và công lý có tốn kém gì đâu?
Quý vị đã được nghe về chuyện ký giả Lê Triết đã viết rất nhiều bài báo công kích Mặt Trận, như 1 tổ chức, chứ không nhắm vào cá nhân. Những cá nhân nguyên đơn, là những người có nhiều tài giỏi riêng cho bản thân họ, nhưng những hành động của họ, tập hợp thành 1 quyền lực của Mặt Trận, kết tụ thành thế lực như 1 chính phủ. Quyền lực đen đó, chính phủ đen đó, nhìn xuống đám dân đen, và như đám mây đen làm che khuất mất tia ánh sáng mặt trời chiếu xuống trên cuộc đời của người dân.
Thưa quý vị Bồi thẩm đoàn,
Bên nguyên đơn có bổn phận phải minh chứng tất cả các yếu tố đòi hỏi của luật pháp. Bên bị đơn không phải làm gì cả. Bên nguyên đơn phải trưng bằng chứng và nhân chứng cho chúng ta thấy rằng có những người đọc giả thường tình (average readers) đã đọc và hiểu được những bài viết phỉ báng mạ lị đó. Tôi thưa rằng chỉ có một con số không to tướng. Không hề có 1 nhân chứng nào của 1 đọc giả thường tình. Cá nhân những người nguyên đơn có thể cảm thấy khó chịu vì những bài viết, nhưng luật pháp về vấn đề này thì khác hẳn. Và họ phải chứng minh những bằng chứng « trung cấp » rõ ràng, và có khả năng thuyết phục. Bằng chứng « clear and convincing » có nghĩa là như thế, là « có sức mạnh thuyết phục khác hẳn với bằng chứng ngược lại, và làm cho ta tin tưởng về sự thật của dữ kiện. »
Tôi xin thưa với quý vị rằng bên bị đơn không có bổn phận phải làm việc đó, nhưng những bằng chứng dữ kiện lại đứng về phía chúng tôi. Bằng chứng đã rõ ràng và thuyết phục thân chủ của tôi, ông Nguyên Vũ, để tin là thật, và không có gì để phủ nhận niềm tin đó.
Luật sư nguyên đơn có nhắc qua tới việc ở Mỹ, chuyện giết người là thường tình, kể cả nạn nhân trẻ em 12 tuổi. Nhưng vụ Lê Triết không giống như những vụ án mạng khác. Rất gọn gàng, rất tinh vi, đến nỗi chính quyền cũng đành bó tay. Gọn gàng đến nỗi mà ông Lê Triết, người to miệng, và người vợ vô tội của ông ta cũng phải bị bịt miệng.
Chúng tôi, cộng đồng người Việt phải lên tiếng vì trách nhiệm. Chúng tôi đã học hỏi được điều đó từ người Mỹ. Nếu chính chúng tôi không lên tiếng, thì ai sẽ làm? Nếu giới báo chí không dám nói, đã không dám nói, thì mãi mãi, rồi ai cũng kín miệng, cũng im lặng. Thế thì làm gì phải cần tới vụ án này. Dễ dàng quá nhỉ, đỡ tốn tiền. Thế cũng tốt thôi, cứ lặng lẽ sống, nhưng rồi chúng ta sẽ đánh mất chính nghĩa tự do, mất cả nguyên do tại sao chúng tôi tìm tới vùng đất này.
Lại nói về chuyện trao đổi với Mặt Trận: chỉ có cái hộp thơ P.O. Box. Rồi chờ phúc đáp của Mặt Trận. Xin hỏi: ai dám?
Tôi yêu cầu quý vị cân nhắc các dữ kiện và bằng chứng 1 cách riêng rẽ cho mỗi vụ, và cho mỗi người bị kiện. Tôi thành thật thưa rằng thân chủ của tôi, ông Nguyên Vũ, đáng lẽ không bị đem ra kiện như thế này. Xin trả ông ta về lại công việc dạy học tại Texas. Ông ta đáng được về lại với gia đình vợ con, nhưng rất tiếc phải tới đây, và cũng muốn tới đây.
Quý vị đã nghe ông Phạm Văn Liễu khai. Ông ta cũng đáng lẽ không phải tới. Đã già rồi, vợ ông đã qua đời. Nhưng ông đã tới vì đã chôn trong lòng 1 trách nhiệm lịch sử là đã làm 1 điều gì đáng tiếc trong nỗ lực phục vụ chính nghĩa của ông ta. Quý vị đã nghe về gia đình Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Định, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Tường, và có thể còn nhiều người khác ở khắp nơi. Và Mặt Trận lúc ấy, đâu có phải là 1 tổ chức vô vụ lợi hợp pháp. Tôi xin thưa rằng tiến sĩ Hoàng Cơ Định, 1 con người ưu tú của quần chúng, khai rằng không biết phải khai thuế cho Mặt Trận. Ông ta cũng khai rằng Hoàng Cơ Minh đâu có nói là có mười ngàn quân. Nhưng sự thật đã được phơi bày.
Bên nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại $150.000 cho ông Nghĩa, $150.000 cho ông Định, và $250.000 cho bác sĩ Ninh. Tôi xin thưa rằng bên bị đơn, cả 3 người, đã chịu thiệt thòi nhiều hơn thế, và đồng bào Việt Nam chúng tôi cũng đã chịu thiệt thòi, đã gánh chịu quá nhiều rồi. Hôm nay, họ chỉ dám xin cho công lý được sáng tỏ.
Bên nguyên đơn không đưa ra được bằng chứng rằng họ bị thiệt hại. Ngược lại, trường hợp như ông Liễu, ông ta đã nhận lấy vai trò lãnh đạo, và cũng đã nhận lãnh trách nhiệm của mình, phải biết chấp nhận phê phán. Đó là luật chơi. Bạn đã nhập cuộc chơi thì phải biết đương đầu với thử thách, phải đối diện với vấn đề và tìm cách giải quyết cho đúng cách, đúng kiểu như người Mỹ: là đối thoại, thảo luận. Không được chơi kiểu cũ, luật rừng.
Trước khi dứt lời, đây là cơ hội cuối cùng cho tôi, xin được kể 1 câu chuyện ngụ ngôn ngắn.
Rằng ở 1 làng xa xôi kia, có những người dân chất phác, hiền lành, và có 3 chàng thanh niên tinh nghịch. Họ tìm tới vị kỳ lão của làng, và muốn thách đố ông ta. Anh thanh niên trưởng nhóm chụm 2 bàn tay lại với nhau, trong đó có 1 con chim nhỏ bé. Anh ta hỏi ông già:
« Này ông, tôi đố ông biết được con chim sống hay chết? »
Thế thì quý vị có biết ông kỳ lão trả lời ra sao không?
Ông ta đáp:
« Này cậu ơi, câu trả lời nằm trong tay cậu kìa. Cậu muốn bóp cho nó chết, thì nó chết. Còn nếu muốn nó sống, thì hãy mở bàn tay ra cho cánh chim tự do được bay đi. »
Và kính thưa quý vị Bồi thẩm đoàn,
Chú chim bé bỏng đang nằm trong tay quý vị, trong mỗi tay của từng người. Xin mở tay ra cho cánh chim tự do được tung bay.
Và xin cho bên bị đơn cũng được như thế. Xin bỏ phiếu phán quyết cho bên bị đơn được thắng kiện.
Xin cám ơn.
LS Tâm
Dec. 21, 1994