← Quay lại trang sách

Chương 4 Cửa hàng thuốc lá của bọn miệng hến

Việc khai quật thi thể bà Câm để đem chôn lần hai đã gây một cơn địa chấn ở Montepuccio. Từ giờ trở đi, có một cái gò đất mới bên ngoài nghĩa trang tạo thành một cái mụn cóc không thể chấp nhận trên gương mặt làng, mà không ai có thể làm ngơ. Dân làng Montepuccio sợ thiên hạ biết chuyện. Sợ tin lan truyền rộng và cả vùng chỉ trỏ chê cười. Sợ thiên hạ nói rằng ở Montepuccio, người chết không được chôn cất tử tế. Rằng ở Montepuccio, đất nghĩa trang cũng bị xới lộn như đất ruộng. Nấm mồ mông muội này, cách biệt với các ngôi một khác, tựa như một lời quở trách thường trực. Don Carlo không lúc nào ngớt giận. Đi đâu ông cũng lu loa chửi bới bọn vi phạm mộ phần. Đối với ông, anh em nhà Scorta đã vượt quá mọi giới hạn. Đào đất và moi xác một người ra khỏi nơi yên nghỉ cuối cùng là một cử chỉ của bọn vô đạo. Ông không thể tin rằng những kẻ man rợ như thế lại ở Italia.

Một đêm, chịu không nổi, ông đi đến chỗ nhổ cây thập tự bằng gỗ mà anh em nhà Scorta đã cắm trên cái gò đất và bẻ gãy nó bằng một động tác điên khùng. Nấm mồ nằm trơ như vậy mấy ngày. Rồi cây thánh giá lại xuất hiện. Vị cha xứ chuẩn bị một cuộc chinh phạt thứ hai, nhưng mỗi lần ông nhổ một cây thánh giá, lại có cây khác xuất hiện. Don Carlo tưởng mình chiến đấu chống anh em nhà Scorta. Ông đã lầm. Ông đã vung cánh tay sắt với cả làng. Mỗi ngày, những bàn tay vô danh, bất bình vì thấy nấm mộ khốn khổ không bia không đá hoa cương, lại dựng lại cây thập tự gỗ. Sau vài tuần của trò chơi ú tim đó, một phái đoàn của dân làng đến gặp don Carlo để tìm cách thuyết phục ông thay đổi quyết định. Người ta xin ông tiến hành một nghi lễ cho bà Câm trở lại nghĩa trang. Thậm chí người ta còn đề nghị đập tường rào nghĩa trang và xây lại sao cho bao quanh luôn cả nấm mồ bị rút phép thông công, để khỏi phải khai quật người đàn bà một lần nữa. Don Giorgio nhất định không chịu. Sự khinh bỉ của ông đối với cư dân làng này chỉ càng tăng lên. Ông trở nên bẳn tính và thường có những cơn thịnh nộ dữ dội.

Từ đó trở đi, cha Bozzoni bị cả làng Montepuccio ghét. Dân làng lần lượt thề sẽ không đặt chân vào nhà thờ chừng nào cái lão cha xứ đốn mạt người miền Bắc ấy còn hành lễ. Điều mà anh em nhà Scorta đến yêu cầu, mọi người trong làng đều chờ đợi thế. Họ đã biết tin bà Câm chết và họ đã nghĩ ngay rằng tang lễ sẽ tráng lệ như đám tang của Rocco. Quyết định của don Carlo đã làm họ bất bình. Cái tay cha xứ gốc gác không phải ở đây tưởng mình là cái thá gì mà dám thay đổi những quy tắc bất di bất dịch của làng? Quyết định của “tay mới” (đám phụ nữa ngoài chợ, mỗi khi nhắc đến don Carlo, toàn gọi thế) bị coi như một sự lăng nhục đối với hương hồn của don Giorgio yêu quý. Và điều đó, không ai có thể tha thứ. “Tay mới” này coi khinh các tập tục. Từ nơi cha căng chú kiết nào đến mà muốn áp đặt luật lệ của mình. Dòng họ Scorta đã bị lăng nhục. Và qua họ, cả làng bị lăng nhục. Chưa ai từng thấy một đám tang nào như vậy. Con người này, mặc dù là cha xứ, chẳng tôn trọng gì hết và Montepuccio không muốn ông ta. Nhưng phản ứng man dại này còn có một lý do khác. Đó là nỗi sợ. Nỗi kinh hoàng ngày xưa, chưa bao giờ dứt hẳn, đối với Rocco Scorta Mascalzone. Với việc chôn cất người đàn bà đã từng là vợ lão quấy quá như vậy, don Carlo khiến làng phải gánh chịu cơn thịnh nộ của Rocco. Người ta nhớ đến những tội ác của lão thuở sinh thời và người ta run sợ nghĩ tới những gì vong hồn của lão có thể làm. Chắc chắn một tai họa sắp giáng xuống Montepuccio. Một trận động đất hay một cơn hạn hán tệ hại. Hơi thở của Rocco Scorta Mascalzone đã phảng phất trong không trung. Người ta đã cảm thấy nó đâu đây, trong gió chiều.

Mối quan hệ được duy trì giữa Montepuccio và anh em nhà Scorta được tạo nên bởi một sự hỗn trộn không thể phân biệt tách bạch của khinh rẻ, tự hào và sợ hãi. Lúc bình thường thì làng đâu cần biết đến Carmela, Domenico, Giuseppe. Đó chỉ là ba đứa đói khát, con cái bọn đầu trộm đuôi cướp. Nhưng hễ ai định đụng đến một sợi tóc của chúng, hoặc xúc phạm đến hương hồn Scorta Man Rợ thì một thứ nhiệt huyết tựa như tình mẫu tử lại sôi sục khắp làng và người ta bảo vệ chúng như sói cái bảo vệ bầy con mới đẻ. “Anh em nhà Scorta là đồ vô lại, nhưng chúng là thân quyến của ta,” đa phần dân làng Montepuccio nghĩ vậy. Với lại chúng đã từng đến New York. Điều đó đem lại cho chúng một cái gì thiêng liêng khiến chúng trở nên không thể động đến trước mắt những người dân Montepuccio.

Trong mấy ngày, nhà thờ vắng teo. Không ai đến chầu lễ. Gặp don Carlo ngoài phố, người ta không chào nữa. Người ta khoác cho ông một cái biệt danh tựa như quyết án tử hình: “Người Milan.” Montepuccio ngụp vào một thứ đa thần giáo thuở xa xưa. Người ta tiến hành mọi thứ nghi lễ núp bóng nhà thờ. Người ta nhảy điệu tarrentelle trên đồi. Đám ngư dân cùng các thánh tượng mang đầu cá, hỗn hợp của các thánh bảo hộ với các thủy thần. Các bà già, vào mùa đông, gọi hồn người chết ở chỗ sâu kín trong nhà. Nhiều lần, người ta tiến hành giải tà cho những kẻ mà người ta nghĩ là bị ma ám. Người ta bắt đầu bắt gặp những xác súc vật trước cửa một số nhà. Cuộc nổi dậy đang ầm ầm rung chuyển.

Vài tháng qua đi, cho đến một hôm, vào cuối buổi sáng, Montepuccio bỗng nhốn nháo khác thường. Một tin đồn lan truyền, làm các gương mặt ngỡ ngàng. Người ta xì xào bàn tán. Các bà già làm dấu thánh giá. Một sự gì đã xảy ra sáng nay, trên đầu môi mọi người thuần là chuyện đó. Cha Bozzoni đã chết. Và đó chưa phải là điều tệ hại nhất: ông ta chết một cách kỳ lạ mà sự tế nhị khiến người ta không thể nói trắng ra. Trong nhiều giờ liền, người ta không biết gì thêm. Rồi dần dà, khi ngày mỗi lúc một tỏ và nắng đã sưởi ấm những mặt tiền nhà, tin đồn trở nên cụ thể. Don Carlo được tìm thấy trong khi đồi vào một ngày phiên chợ ở Montepuccio, trần như nhộng, lưỡi thè lè như con bê con. Làm sao có thể thế được nhỉ? Don Carlo đi một mình lên đồi, cách xa xứ đạo của mình đến thế, để làm gì nhỉ? Tất cả những câu hỏi ấy, mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà, đặt đi, đặt lại, từ nhóm này sang nhóm khác trong khi ngồi uống tách cà-phê sáng chủ nhật. Nhưng còn có điều phi thường hơn nữa kia. Vào quãng mười một giờ, người ta được biết thân thể cha Bozzoni bị lửa mặt trời thiêu cháy. Toàn thân, kể cả mặt, mặc dù ông nằm úp mặt xuống đất khi người ta tìm thấy thi hài ông. Phải công nhận sự thật rành rành: ông đã trần truồng trước khi chết. Ông đã đi như thế dưới mặt trời hàng tiếng đồng hồ cho đến khi rộp cả da và chân tướp máu, rồi chết gục vì mệt và mất nước. Chỉ còn điều bí ẩn chủ yếu: tại sao ông ta lại tới khu đồi một mình như thế vào những giờ nắng thiêu? Câu hỏi này thành đầu đề trò chuyện cho những người dân thành Montepuccio trong nhiều năm sau. Nhưng ngày hôm ấy, để dừng lại, chí ít là tạm thời, ở một điểm xác thực, người ta khẳng định: hiển nhiên là sự cô đơn đã khiến ông hóa dại và hẳn là một buổi sáng, thức dậy giữa cơn điên khùng, ông đã quyết định rời ngôi làng mà ông ghét cay ghét đắng này, bằng mọi cách có thể. Mặt trời đã hạ gục ông. Và cái chết xiết bao kệch cỡm, sự trần truồng xiết bao tục tĩu này đối với một người của Nhà thờ lại càng củng cố thêm cảm giác của dân làng; rõ ràng cái lão don Carlo này chẳng đáng giá gì.

Khi nghe tin này, Raffaele tái mét mặt. Gã đề nghị người báo tin nhắc lại lần nữa và không thể rời khỏi quảng trường nơi những lời bàn tán xoay đi xoay lại không dứt như gió quẩn quanh trong ngõ hẻm. Gã cần biết thêm, nắm rõ những chi tiết và chắc chắn mọi điều đó là thật. Gã có vẻ đau buồn vì tin này, khiến những ai biết gã đều ngạc nhiên. Gã là một thành viên của gia đình Scorta kia mà. Lẽ ra gã phải vui mừng vì cái chết này chứ. Raffaele la cà mãi những hiên ngoài của các tiệm cà-phê không sao dứt nổi. Rồi khi buộc phải công nhận sự thật rành rành, khi không còn chút nghi ngờ gì về chuyện ông cha xứ đã chết, gã nhổ toẹt xuống đất và lẩm bẩn: “Cái lão đốn mạt ấy đã tìm ra cách để làm mình cũng toi luôn cùng với lão.”

Hôm trước hai người đã gặp nhau trên một con đường mòn trong khu đồi. Raffaele từ dưới biển đi lên, còn don Carlo thì đi dạo một mình. Đi bách bộ trên những con đường mòn quanh vùng đã trở thành trò tiêu khiển duy nhất của ông. Sự tẩy chay của dân làng thoạt đầu đã làm ông tức điên, rồi qua nhiều tuần lễ, dìm ông vào một nỗi cô đơn dày đặc. Tâm trí ông lạc nẻo. Ông cô đơn hẫng hụt trước sự cô lập quá tải ấy. Ở lại trong làng trở nên một cực hình. Ông chỉ còn tìm thấy một chút nguôi ngoai trong những cuộc đi dạo như thế này.

Chính Raffaele là người khơi mào. Gã nghĩ có thể nắm lấy cơ hội này để tiến hành một cuộc thương lượng tối hậu.

“Don Carlo, gã nói, cha đã xúc phạm chúng con. Đã đến lúc cha nên sửa lại quyết định của mình đấy.

Chúng bay là một lũ thoái hóa, vị cha xứ gầm lên thay vì trả lời. Chúa nhìn thấy tất cả và chính người sẽ ra tay trừng phạt bọn bay.”

Cơn giận bốc lên đầu Raffaele nhưng gã cố nén và nói tiếp:

“Cha ghét bọn con. Thôi cũng được. Nhưng người mà cha trừng phạt chẳng liên can gì. Bà Câm có quyền nằm trong đất nghĩa trang.”

- Mụ ấy đã nằm trong đó trước khi bọn bay khai quật mụ lên. Mụ chỉ được những gì xứng đáng với mụ, bởi mụ đã phạm tội đẻ ra một lũ vô đạo.”

Raffaele giận tái mặt. Gã có cảm giác chính những ngọn đồi cũng ra lệnh cho gã phải trả miếng sự lăng nhục ấy.

“Bozzoni, ông không xứng đáng với bộ đồ ông đang mặc. Ông nghe thấy tôi không? Ông là một con chuột cống núp dưới áo thầy tu. Hãy trả lại bộ đồ đó, trả lại ngay kẻo tôi giết ông đấy.”

Và gã nhảy bổ tới vị cha xứ, gầm gừ như một con chó. Gã túm lấy cổ áo ông và, bằng một động tác điên cuồng, giật phăng chiếc áo thầy tu. Ông cha xứ vô cùng sửng sốt. Ông nghẹn ngào bất lực. Raffaele không chịu buông. Gã gầm lên như hóa dại: “Lột truồng cái xác thối này, lột truồng ngươi ra!” Và với tất cả sức lực, gã vừa xé toạc áo quần của vị cha xứ vừa đánh ông túi bụi.

Gã chỉ nguôi giận khi đã hoàn toàn lột trần cha Bozzoni. Don Carlo đã đầu hàng. Ông ta khóc như một đứa trẻ, xòe đôi bàn tay mũm mĩm che thân. Ông lầm rầm cầu kinh như thể đang đối diện với một bọn tà giáo. Raffaele hoan hỉ với tất cả cái bạo liệt của sự báo thù: “Từ giờ trở đi, ông sẽ phải đi lại trần như nhộng như thế này. Ông không có quyền mang bộ đồ này. Nếu tôi lại thấy ông mặc nó, tôi sẽ giết ông, nghe rõ chưa?”

Don Carlo không trả lời. Ông cất bước, vừa đi vừa khóc rồi khuất dạng. Không bao giờ trở lại. Cái màn vừa rồi đã làm ông chao đảo hẳn. Ông lang thang trong khu đồi như một đứa trẻ lạc. Chẳng kể gì mệt mỏi và nắng thiêu. Ông lang thang rất lâu trước khi kiệt sức gục xuống giữa cái vùng đất phía Nam mà ông ghét cay ghét đắng này.

Raffaele nán lại một lúc ở cái chỗ gã đã nện ông cha xứ. Gã đứng yên không động đậy, chờ tắt cơn giận, trấn tĩnh lại để có thể trở về làng mà không lộ gì trên nét mặt. Dưới chân gã, tả tơi chiếc áo dài của vị linh mục. Gã không thể rời mắt khỏi nó. Một tia nắng làm gã chớp mắt. Một vật gì lấp lánh trong ánh sáng. Gã không nghĩ ngợi cứ thế cúi xuống. Nhặt lên một chiếc đồng hồ vàng. Giá như lúc đó gã bỏ đi luôn thì có lẽ gã đã ném chiếc đồng hồ đi một cách ghê tởm, nhưng gã vẫn không động đậy. Gã cảm thấy mình chưa đi đến cùng. Gã lại cúi xuống lần nữa và, một cách chậm rãi, thận trọng, gã nhặt chiếc áo thầy tu rách bươm lên và lục lọi các túi. Gã dốc sạch ví tiền của don Bozzoni và quẳng nó cách đó một quãng, trên đường mòn, mở toang như một cái xác bị tháo khớp xương. Gã nắm chặt trong tay tệp giấy bạc và chiếc đồng hồ vàng với một nụ cười xấu xí của điên loạn.

“Cái lão đốn mạt ấy đã tìm ra cách để cho mình cũng toi luôn cùng với lão.” Raffaele vừa hiểu ra rằng cuộc cãi lộn ấy đã dẫn đến một cái chết và mặc dù gã tự nhủ đến bao nhiêu lần rằng gã chẳng hề giết ai, gã vẫn cảm thấy rằng cái chết này sẽ mãi mãi đè nặng lên lương tâm gã. Gã thấy lại hình ảnh ông cha xứ trần truồng, khóc như một sinh linh tội nghiệp bị kết tội lưu đày. “Thế là mình đâm mắc tội, gã nghĩ thầm. Mắc tội bởi cái tên bẩn thỉu không đáng một bãi nước bọt.”

Vào quãng trưa, thi thể cha Bozzoni được chở về Montepuccio trên lưng lừa. Người ta đã đắp lên cái xác một tấm mền. Để tránh cho đàn bà, trẻ con khỏi bị sốc vì sự lõa lồ của vị cha xứ hơn là để chống ruồi bâu.

Vừa về tới Montepuccio, lại xảy ra chuyện bất ngờ. chủ nhân của con lừa, một nông dân ít nói, đặt cái xác xuống trước cửa nhà thờ rồi lớn tiếng tuyên bố dõng dạc rằng bác ta đã làm xong nhiệm vụ và bây giờ phải trở ra đồng. Cái xác nằm đó, quấn trong tấm mền lấm lem đất. Người ta đứng nhìn. Không ai nhúc nhích. Dân Montepuccio vốn tính thù dai. Không ai muốn chôn ông ta. Không ai sẵn sàng dự lễ tang hoặc khiêng cữu. Vả lại, ai sẽ lo chuyện hành lễ. Cha xứ của làng San Giocondo đang đi Bara. Đợi đến khi ông về thì xác don Carlo đã rữa. Qua một thời gian, sức nóng mặt trời trở nên hừng hực, rốt cuộc, người ta phải thừa nhận, nếu cứ để thi thể “lão Milan” ở đó, chẳng mấy chốc nó sẽ bốc mùi như một cái xác thối. Nếu vậy thì sẽ là một đòn báo thù quá đẹp cho lão ta. Làm cho Montepuccio thối hoăng lên. Gây ra bệnh tật – tại sao không nhỉ? Không được, phải chôn lão ta thôi. Không phải để cho đúng phép tắc hay vì lòng từ thiện, mà để cầm chắc lão không gây hại được nữa. Người ta nhất trí là sẽ đào một cái huyệt đằng sau nghĩa trang. Bên ngoài tường rào. Bốc thăm chọn ra bốn người. Họ hạ thổ cái xác chẳng làm lễ gì hết. Lặng lẽ. Don Carlo được chôn như một kẻ vô đạo, không có lấy một câu kinh để xoa dịu vết cắn của mặt trời.

Cái chết này, đối với người dân Montepuccio, là một sự kiện lớn, nhưng rõ ràng là phần còn lại của thế giới thì chẳng mấy bận tâm đến nó. Sau khi don Carlo mất, một lần nữa, làng lại bị giám mục bỏ quên. Điều đó hóa ra lại tiện cho dân Montepuccio. Họ quen rồi. Thậm chí, thỉnh thoảng đi ngang qua nhà thờ, họ còn thì thầm với nhau: “Chẳng có ai, còn hơn là một lão Bozzoni mới.” Họ rất sợ người ta lại pháo đến, như một sự trừng phạt của Chúa, một người miền Bắc khác, những người này lại gọi họ là lũ vô đạo, coi khinh những phong tục của họ và từ chối không làm lễ rửa tội cho con cái họ.

Có vẻ như trời đã nghe thấy ước muốn của họ. Không ai được cử đến và nhà thờ vẫn đóng cửa im ỉm như những tòa lâu đài của những gia đình lớn đùng một cái biến mất, chỉ để lại chút hương danh gia vọng tộc cùng mùi đá già khô.

Anh em nhà Scorta lại tiếp tục cuộc sống khốn khổ của mình ở Montepuccio. Cả bốn người ở chen chúc trong căn phòng duy nhất của nhà Raffaele. Mỗi người đều đã kiếm được một nghề để mang về chút gì đó nuôi miệng – thế thôi, không hơn. Raffaele là ngư dân. Gã không có thuyền riêng, nhưng sáng sáng ở cảng, vẫn có người này người nọ mướn lên thuyền làm công nhật – trả bằng một phần mẻ cá đánh được. Domenico và Giuseppe làm thuê cho các điền chủ. Hái cà chua hoặc ô-liu. Chẻ củi. Cả ngày dãi nắng, cặm cụi trên một mảnh đất chẳng mang lại lợi lộc gì. Còn Carmela thì nấu nướng cho ba anh, giặt giũ quần áo trong nhà và làm những đồ thêu vặt vãnh cho dân làng.

Họ không đụng đến cái mà họ gọi riêng với nhau là “tiền New York.” Trong một thời gian dài, họ tính rằng số tiền ấy phải được sử dụng có lợi để mua một ngôi nhà. Hiện giờ, phải thắt lưng buộc bụng và kiên nhẫn, nhưng hễ có cơ hội là mua liền. Họ có đủ tiền để mua một ngôi nhà thật đàng hoàng vì ở Montepuccio thời kỳ này, đá chẳng đáng giá là bao. Dầu ô-liu còn quý hơn nhiều mẫu đá ở vùng này.

Tuy nhiên một bữa tối, Carmela đang ăn bỗng ngẩng đầu lên khỏi đĩa xúp và tuyên bố:

“Phải làm khác đi thôi.

- Cái gì? Giuseppe hỏi.

- Tiền New York ấy, cô giải thích, phải dùng vào việc khác chứ đừng mua nhà.

- Rõ thật kỳ, Domenico nói. Thế thì chúng ta sẽ ở đâu?

- Vậy nếu chúng ta mua nhà, Carmela vặn lại, cô đã suy nghĩ về điều này hàng giờ liền, thì các anh vẫn cứ tiếp tục đổ mồ hôi lao động quần quật như những con vật để kiếm miếng ăn hàng ngày. Vẫn sẽ chẳng trông cậy vào cái gì khác. Rồi năm tháng sẽ qua đi… Không. Chúng ta có tiền, cần phải mua cái gì ích lợi hơn.

- Chẳng hạn như cái gì nào? Domenico hỏi.

- Em chưa biết, nhưng em sẽ tìm ra.”

Lập luận của Carmela làm cho ba người anh bối rối. Cô có lý. Rành là thế. Mua một ngôi nhà, rồi sao? Nếu ít ra họ có đủ tiền để mua hẳn bốn ngôi nhà, nhưng đâu có được thế. Phải tìm cách khác thôi.

“Ngày mai là chủ nhật, Carmela nói tiếp, các anh đưa em đi cùng. Em muốn thấy những gì các anh thấy, làm những gì các anh làm. Cả ngày. Em sẽ quan sát. Và em sẽ tìm ra.”

Một lần nữa, các ông anh chẳng biết trả lời ra sao. Ở Montepuccio, phụ nữ thường không ra khỏi nhà, hoặc chỉ ra ngoài vào những thời điểm thật cụ thể trong ngày. Buổi sáng, rất sớm: đi chợ. Đi lễ chầu – nhưng từ khi don Carlo chết, việc này không còn tồn tại nữa. Thời điểm hái ô-liu, mùa gặt ngoài đồng. Và các dịp lễ hội tôn vinh các thánh bảo hộ. Thời gian còn lại, họ ở lỳ trong nhà, cấm cung sau những bức tường dày, ẩn tránh mặt trời và sự thèm muốn của đàn ông. Điều Carmela đề nghị đi ngược lại nếp sinh hoạt của làng, nhưng từ khi ở Mỹ trở về, các anh trai tin tưởng hoàn toàn vào linh giác của cô em gái.

“Đồng ý”, Domenico nói.

Hôm sau, Carmela diện chiếc áo dài đẹp nhất ra khỏi nhà với sự tháp tùng của ba anh trai. Họ đến tiệm cà-phê và, theo thông lệ mỗi ngày chủ nhật, uống một suất cà-phê đặc đến cồn cào ruột gan và chộn rộn nhịp tim. Rồi họ ngồi vào một cái bàn kê trên vỉa hè, bắt đầu đánh bài. Carmela cũng ở đó. Tách ra một chút. Ngồi rất thẳng trên ghế. Nhìn mọi người qua lại. Cô quan sát sinh hoạt của làng. Sau đó, họ đến thăm mấy người bạn ngư dân. Chiều đến, thả bộ dọc corso Garibaldi, hết xuôi lại ngược con phố, chào hỏi những người quen, nghe ngóng tin tức trong ngày. Lần đầu tiên trong đời, Carmela qua trọn một ngày trên các đường phố của làng, giữa cái thế giới của những người đàn ông cứ chằm chằm nhìn cô với vẻ kinh ngạc. Cô nghe thấy những lời bàn tán sau lưng mình. Người ta hỏi nhau về sự hiện diện của cô. Người ta bình phẩm về cách ăn mặc của cô. Nhưng cô bất cần những cái đó, cứ tập trung vào nhiệm vụ của mình. Buổi tối, về đến nhà, cô cởi giày như trút được gánh nặng. Chân cô đau ê ẩm. Domenico đứng trước mặt, lặng lẽ nhìn cô.

“Thế nào?” cuối cùng gã hỏi. Giuseppe và Raffaele ngẩng đầu lên, im lặng để nghe cho rõ câu trả lời của cô, không sót tiếng nào.

“Thuốc lá, cô bình thản đáp.

- Thuốc lá?

- Vâng. Phải mở một cửa hàng thuốc lá ở Montepuccio.”

Mặt Domenico sáng lên. Một cửa hàng bán thuốc lá. Cái này ở Montepuccio chưa có. Người ta có thể mua vài ba điếu lẻ ở cửa hàng thực phẩm khô cũng như ở chợ, nhưng một cửa hàng bán thuốc lá thì chưa hề có. Đúng thế. Montepuccio chưa có cái ấy. Carmela đã quan sát cánh đàn ông suốt ngày và điều duy nhất chung cho cả lớp dân chài ở làng cô lẫn đám trưởng giả trên corso, là tất cả những gã đàn ông này đều rít những điếu thuốc lá nhỏ một cách thèm thuồng. Trong bóng râm, vào lúc làm một ly khai vị, hoặc ngay cả dưới nắng chang chang, trong khi làm việc, tất cả đều hút thuốc. Ở điểm này, có cái gì cần khai thác. Một cửa hàng bán thuốc lá. Phải. Trên corso. Một cửa hàng bán thuốc lá. Carmela nói chắc như đinh đóng cột. Sẽ không lúc nào vắng khách.

Anh em Scorta ra sức kiếm bằng được cái tài sản họ ước muốn. Họ mua một chỗ trên corso Garibaldi. Đó là một tầng trệt, một gian trống trơn lớn, khoảng ba mươi mét vuông. Họ cũng mua cả tầng hầm để làm kho. Sau đó là hết sạch tiền. buổi tối hôm mua gian hàng, Carmela rầu rầu, chẳng nói chẳng rằng.

“Có chuyện gì vậy? Domenico hỏi.

- Chúng mình không có lấy một xu để mua giấy phép, Carmela đáp.

- Cần bao nhiêu? Giuseppe hỏi.

- Giá giấy phép thì chẳng bao nhiêu, nhưng phải có đủ tiền để “chăm sóc” tay trưởng phòng cấp giấy phép. Quà cáp cho ông ta. Hằng tuần. Cho đến khi nào ông ta cấp giấy phép cho chúng ta. Chúng ta không đủ tiền làm việc đó.”

Domenico và Giuseppe ngớ ra. Một trở ngại mới mà họ không dự kiến và không biết vượt qua bằng cách nào. Raffaele nhìn cả ba và nhẹ nhàng nói:

“Tiền thì mình có. Và mình sẽ đưa cho các cậu. Mình chỉ yêu cầu có một điều. Đừng hỏi mình số tiền ấy ở đâu ra. Và mình có nó từ bao giơ. Cũng đừng hỏi tại sao mình chưa bao giờ nói với các cậu về món tiền ấy. Hẵng biết là mình có tiền. Chỉ điều đó là đáng kể thôi.”

Và gã đặt lên bàn một xấp giấy bạc nhàu nát. Đó là tiền của cha Bozzoni. Raffaele đã bán cái đồng hồ. Cho đến nay, gã vẫn luôn luôn mang món tiền đó trong người, không biết dùng làm gì, không dám vứt đi cũng không dám tiêu. Ba anh em nhà Scorta mừng rú lên, nhưng ngay lúc đó, Raffaele vẫn chẳng hề cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm đi chút nào. Cái bóng của Bozzini vẫn nhảy nhót trong tâm trí gã và làm ruột gan gã quằn quại hối hận.

Với món tiền của Raffaele, họ chạy vạy để xin cho được giấy phép. Trong sáu tháng ròng, cứ nửa tháng một lần, Domenico cưỡi lừa rời Montepuccio đến tận San Giocondo. Ở đó có một văn phòng của Monopoli di stato [4] . Gã mang đến cho viên trưởng phòng nào giăm-bông, nào cacio cavalli [5] , vài chai limocello [6] . Cứ thế đi đi về về không biết mệt. Toàn bộ số tiền dốc vào việc mua đồ ăn thức uống đó. Sau sáu tháng, yêu cầu được chấp thuận. Anh em nhà Scorta, cuối cùng, đã sở hữu một giấy phép. Nhưng tiền thì đã hết nhẵn. Không một xu dự trữ. Chỉ còn độc bốn bức tường của một gian nhà trống và một mảnh đất nhỏ cho quyền được kinh doanh. Chẳng còn gì để mua thuốc lá. Những hòm thuốc lá đầu tiên, họ phải mua chịu. Domenico và Giuseppe đi lấy thuốc ở San Giocondo. Họ chất tất cả lên lưng lừa và lần đầu tiên trong đời, trên đường về làng, họ cảm thấy rằng, rốt cuộc, một cái gì đó thực sự khởi đầu. Cho tới lúc đó, họ chỉ toàn bị động. Mọi lựa chọn đều là áp đặt đối với họ. Lần đầu tiên, họ sắp sửa đấu tranh cho bản thân mình và cái triển vọng ấy khiến họ mỉm cười sung sướng.

Họ bày thuốc lá trên những hộp các-tông. Những tút thuốc xếp thành từng chồng. lúi xúi như chỗ bán hàng lậu. Không quầy, không két thu ngân, chỉ có hàng đặt ngay dưới đất. Điều duy nhất cho thấy đây chính là một đại lý bán thuốc lá, là tấm biển gỗ treo trên cửa với dòng chữ: Tabaccheria Scorta Mascalzone Rivendita n01 [7] . Đại lý thuốc lá đầu tiên của Montepuccio đã ra đời. Và đó là của họ. Từ giờ trở đi, họ sẽ lao mình, cả thể xác lẫn tâm hồn, vào cuộc sống đẫm mồ hôi, vất vả mệt nhọc đến gãy lưng này. Một cuộc sống không biết đến giấc ngủ. Số phận anh em nhà Scorta sẽ gần với những hòm thuốc lá mà họ dỡ từ trên lưng lừa xuống mỗi sớm tinh mơ, trước khi những người nông dân ra đồng và những người dân chài từ biển về. Toàn bộ cuộc đời họ sẽ gắn với những thanh nho nhỏ màu trắng kẹp giữa ngón tay đàn ông và teo dần trước gió trong êm dịu của những chiều hè. Một cuộc sống đẫm mồ hôi và mù mịt khói. Bắt đầu từ đây. Cuối cùng, cơ may thoát khỏi cảnh khốn cùng mà cha họ đã khép họ vào, đã đến Tabaccheria Scorta Mascalzone Rivendita n01.

Bọn con đã ở lại đảo Ellis chín ngày. Chúng con chờ một con tàu đủ chuyến để trở về. Chín ngày, don Salvatore, để ngắm cái đất nước mà chúng con bị cấm vào. Chín ngày ở cổng thiên đường. Chính tại đây, lần đầu tiên con suy ngẫm lại về cái khoảnh khắc cha con trở về trại sau đêm xưng tội, cái khoảnh khắc ông lùa tay vào mái tóc con. Con có cảm giác như lại có một bàn tay luồn vào mái tóc con. Vẫn cái bàn tay ngày xưa. Bàn tay của cha con. Bàn tay của ngọn gió chết tiệt trên khu đồi vùng Pouilles. Bàn tay ấy nhắc con nhớ tới nó. Đó là bàn tay khô cằn của bất hạnh xưa nay vẫn ràng buộc hàng bao thế hệ chủ được là lũ nhà quê nhọ đít sống và chết dưới nắng thiêu, ở cái xứ sở mà cây ô-liu được yêu chiều hơn con người này.

Chúng con lên con tàu hồi hương và cuộc đáp tàu lần này chẳng có gì giống với lần ở Napoli diễn ra trong ồn ào, trong tiếng người í ới. Lần này, tất cả chúng con lặng lẽ kiếm chỗ yên vị với bước chân chậm rãi của kẻ tội đồ. Đám người lên tàu là lớp cặn bã của trái đất. Những người bệnh của toàn Châu Âu. Những người nghèo nhất trong những người nghèo. Đó là một con tàu của nỗi buồn cam phận. Con tàu của những kẻ không may, những người cùng khổ trở về nước với nỗi nhục dai dẳng là đã thất bại. Người thông dịch đã không nói dối, chuyến này là miễn phí. Dù sao đi nữa, cũng chẳng có ai đủ tiền mua một suất vé về. Nếu nhà chức trách không muốn đám ăn mày tràn ngập đảo Ellis thì họ chả còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự tổ chức lấy những chuyến tàu. Nhưng mặt khác, đừng hòng họ thuê tàu đến từng nước, từng nơi cụ thể. Con tàu chở những kẻ bị từ chối sẽ qua Đại Tây Dương và một khi đến Châu Âu, sẽ lần lượt ghé các cảng chính để đổ mớ hàng-người xuống bến.

Cuộc hành trình này, don Salvatore, quả là dài vô tận. Giờ khắc của con tàu này qua đi như trong một bệnh viện, theo nhịp nhỏ giọt của ống truyền dịch. Người ta chết trong những khoang ngủ. Người ta hấp hối vì bệnh tật, vì tuyệt vọng, vì cô đơn. Những con người bị tất cả ruồng bỏ này khó mà kiếm ra một lý do tồn tại để bám víu vào. Họ thường tự buông mình trôi tuột vào cái chết với một nụ cười mơ hồ, thực ra họ sung sướng vì đã chấm dứt được cái chuỗi thử thách và nhục nhằn là cuộc đời họ.

Lạ thay, con thì lại hồi phục. Hết sốt. Chẳng bao lâu, con đã có thể đi đi lại lại trên boong. Xuống các cầu thang. Đi dọc theo hành lang. Đến khắp chỗ. Từ nhóm này sang nhóm khác. Trong vài ngày,con đã trở nên quen thuộc với tất cả mọi người – bất kể tuổi tác và ngôn ngữ của họ. Ngày ngày, con giúp họ những việc vặt. Mạng bít tất. Lấy nước cho ông già người Ailen. Tìm khách mua cho bà Đan Mạch, bà ta muốn bán chiếc mề-đay bằng bạc để đổi lấy một cái chăn. Con biết tên hoặc biệt danh của tất cả mọi người. Con thấm mồ hôi trán cho những người bệnh. Con làm thức ăn cho các cụ già. Người ta gọi con là “cô bé”. Con bắt các anh con cũng phải góp phần. Chỉ bảo cách thức cho các anh. Phân công các anh đưa những người ốm lên trên boong những ngày đẹp trời hoặc phân phát nước trong những khoang ngủ. Anh em con lần lượt làm các chức năng liên lạc, lái buôn, hộ lý, linh mục nghe xưng tội. Và dần dà, chúng con đã thành công trong cố gắng cải thiện số phận mình. Chúng con kiếm được chút ít tiền, chút ít đặc quyền. Tiền ấy ở đâu ra? Phần lớn từ những người chết trên tàu. Đương nhiên, chút ít của cải họ để lại thuộc về cộng đồng. Thật khó mà giải quyết cách khác. Đa phần những người bất hạnh ấy trở về một đất nước mà ở đó không ai chờ họ nữa. Họ đã để lại những người thân ở Mỹ hoặc ở những vùng đất mà họ chẳng hề có ý định đặt chân trở lại. Liệu có nên gửi mấy đồng bạc còm họ giấu trong quần áo đến một địa chỉ mà chúng sẽ chẳng bao giờ tới được? Vậy những di sản được phân phối lại ở trên tàu? Thường thường đám thủy thủ xài trước. Chính trong tình thế này, chúng con phải can thiệp. Chúng con cố xoay xở sao cho thủy thủ đoàn biết muộn nhất, và chúng con chia chác trong bóng tối của hầm tàu. Đó là những cuộc thương lượng kéo dài. Nếu người chết có gia đình trên tàu thì tất cả được giao lại cho những người còn sống, nhưng trong hoàn cảnh ngược lại – mà đa số trường hợp là thế - thì cố gắng chia chác cho công bằng. Đôi khi chúng con mấy hàng giờ mới nhất trí được việc “thừa kế” ba đoạn dây và một đôi giày. Con không bao giờ săn sóc một người bệnh mà bụng lại nghĩ đến các chết sắp tới của người ấy cùng những lợi lộc con kiếm được từ đó. Con thề với cha thế. Con làm vậy bởi vì con muốn chiến đấu và đó là cách duy nhất con đã tìm được.

Con đặc biệt quan tâm đến một ông già Ba Lan mà con rất yêu quý. Con không bao giờ phát âm được đầy đủ tên của ông Korniewski hay Korzeniewki. Con chỉ gọi ông là “Korni” Người ông thấp bé và khô đét. Chắc ông phải đến bảy mươi tuổi. Thể xác cứ dần dà từ bỏ ông. Ở quê nhà, lúc đi, người ta đã khuyên ông không nên thử vận may, giải thích rằng ông đã quá già, quá yếu. Nhưng ông cứ khăng khăng một mực. Ông muốn nhìn thấy cái đất nước mà mọi người đều nhắc đến ấy. Sức lực ông mau chóng suy tàn. Mắt ông vẫn cười, nhưng người ông gầy đi trông thấy. Thi thoảng ông thì thầm vào tai con những câu mà con chẳng hiểu gì cả nhưng vẫn làm con phì cười vì những thanh âm ấy giống đủ mọi thứ ngoại trừ ngôn ngữ.

Korni. Chính ông đã cứu bọn con khỏi cái lầm than gặm nhấm đời chúng con. Ông đã chết trước khi tàu đến nước Anh. Ông chết vào một đêm sóng lắc lư nhè nhẹ. Vào lúc cảm thấy mình sắp ra đi, ông gọi con đến là đưa cho con một gói vải nhỏ buộc kín bằng dây. Ông nói một câu gì con không hiểu, rồi đầu ngật ra trên chỗ nằm, mắt vẫn mở, ông bắt đầu cầu nguyện bằng tiếng La-tinh. Con cũng cầu nguyện cùng ông cho tới khi cái chết cướp đi hơi thở của ông.

Trong gói vải, có tám đồng tiền vàng và một cây thánh giá bằng bạc. Chính số tiền đó đã cứu chúng con.

Ít bữa sau khi ông già Korni chết, tàu bắt đầu ghé các cảng của châu Âu. Đầu tiên là London, rồi Le Havre, sau đó lại ra Địa Trung Hải, lần lượt cập bến Barcelona, Marseille và cuối cùng là Napoli. Ở mỗi bến đỗ, tàu lại trút bới đám hành khách nhếch nhác và chất thêm hàng hóa. Bọn con lợi dụng những chặng dừng ấy để buôn bán. Ở mỗi chặng, tàu lưu lại bến hai-ba ngày, đủ thời gian để chất hàng và để thủy thủ giã cơn say. Bọn con lợi dụng những giờ quý báu ấy để mua một số hàng. Trà. Xoong chảo. Thuốc lá. Bọn con chọn những gì điển hình nhất của địa phương để bán lại ở những chặng tiếp theo. Đó là một kiểu buôn bán cò con bằng những món tiền còm cõi, nhưng chúng con đã gom dần từng tí cái kho tàng nhỏ nhoi này. Và bọn con đã về tới Napoli giàu có hơn lúc ra đi. Con phát hiện ra mình có năng khiếu, năng khiếu thương mại. Các anh con rất ngạc nhiên. Chính cái kho tàng nhỏ bé giành giật từ hoàn cảnh nhếch nhác bằng cách xoay xở tháp vát đã giúp bọn con khỏi chết như lũ súc vật giữa đám đông dày đặc của Napoli khi bọn con trở về.

[4] Cơ quan quản lý việc độc quyền kinh doanh thuốc lá ở Italia.

[5] Loại phó-mát hình trái lê, điển hình của vùng Pouilles.

[6] Rượu chua.

[7] Đại lý thuốc lá Scorta Mascalzone, cửa hàng số 1.

[8] Con lừa hút thuốc tới rồi! Con lừa hút thuốc!