← Quay lại trang sách

Chương 5 Bữa tiệc

Đêm đã buông. Carmela kéo cửa rèm sắt. Nàng không muốn bị quấy rầy. “Chắc vẫn còn một số khách muộn, nàng tự nhủ, nhưng nếu họ thấy mặt cửa hàng đã hạ xuống một nửa, may ra họ sẽ không cố gặng.” Dù sao đi nữa, nếu họ gọi hoặc gõ cửa, nàng cũng nhất quyết không trả lời. Nàng có việc phải làm và không muốn bị quấy rầy. Nàng tới sau quầy và bồn chồn đưa hai tay chụp lấy hộp gỗ nàng dùng làm két thu ngân. “Bình thường ra, đáng nhẽ phải tính toán xong rồi,” nàng nghĩ. Nàng mở hộp và vục tay vào vô số những tờ bạc nhỏ nhàu nát, cố vuốt cho phẳng, xếp gọn lại để đếm. Những ngón tay vục vào mớ giấy đó với sự háo hức của người nghèo. Cử chỉ của nàng chứa đựng nỗi lo âu. Nàng sợ hãi chờ đợi một quyết án. Liệu có đủ không đây? Thông thường, khi về nhà nàng mới kiểm tiền. Không chút nôn nóng. Chỉ cần ước tính, nàng cũng biết hôm đó bán có tốt hay không và nàng không hề cảm thấy nóng vội muốn thấy ước đoán của mình được xác nhận bởi tổng số chính xác những tờ giấy bạc. Nhưng tối nay thì khác. Tối nay, phải, nàng kiểm két bạc của mình trong tranh tối tranh sáng của cửa hàng như một tên trộm kiếm đồ đánh cắp được.

“Năm mươi nghìn lire,” cuối cùng, nàng thì thầm khi một tệp giấy bạc đã được xếp ngay ngắn trước mặt. Nàng cầm xấp giấy bạc bỏ vào một phong bì, rồi trút số còn lại trong hộp gỗ vào cái túi vải nàng vẫn dùng để mang tiền thu nhập hàng ngày về nhà.

Chỉ đến lúc ấy nàng mới đóng hẳn cửa hàng thuốc lá bằng những động tác gấp gáp và bồn chồn của kẻ đang thực hiện âm mưu.

Nàng không theo đường về nhà mà rẽ vào phố dei Martiri, bước chân hối hả. Đã một giờ kém mười sáng. Phố xá vắng teo. Khi tới sân trước nhà thờ, nàng cảm thấy hài lòng vì nhận thấy mình là người đến trước. Nàng không muốn ngồi xuống một cái ghế băng công cộng. Nàng chỉ đủ thời gian dạo quanh mấy bước. Cuối cùng, một người tiến lại gần. Carmela cảm thấy mình như một bé gái đứng trước gió. Người đàn ông gật đầu chào nàng rất lịch sự. Nàng thì bồn chồn. Nàng không muốn cuộc gặp gỡ này kéo dài, sợ nhỡ ai thấy họ vào cái giờ trái khoáy này, dân làng sẽ lời ra tiếng vào. Nàng rút chiếc phong bì đã chuẩn bị sẵn, đưa cho người đàn ông đối thoại.

“Của ông đây don Cardella. Như đã thỏa thuận.”

Người đàn ông mỉm cười và đút chiếc phong bì vào túi quần bằng vải lanh.

“Ông không đếm?” nàng ngạc nhiên hỏi.

Người kia lại mỉm cười – dấu hiệu chứng tỏ y không cần phải cẩn thận thế - rồi chào nàng và biến mất.

Carmela đứng lại đó. Trên sân trước nhà thờ. Tất cả chỉ kéo dài vài giây đồng hồ. Giờ đây, nàng chỉ còn lại một mình. Mọi sự đã chấm dứt. Cái cuộc hẹn đã ám ảnh nàng hàng tuần lễ, cái hạn trả nợ đã làm nàng mất ngủ bao đêm ròng vừa qua đi mà không có gì trong gió khuya hay trong tiếng động phố phường điểm một dấu ấu đặc biệt nào lên khoảnh khắc đó. Vậy mà nàng cảm thấy rõ là số phận mình vừa rẽ sang một bước ngoặt mới.

Anh em nhà Scorta đã phải vay rất nhiều tiền để duy trì cửa hàng thuốc lá. Từ khi lao vào cuộc phiêu lưu này, họ không ngừng mắc nợ. Chính Carmela là người lo phần tài chính. Không nói gì với các anh, nàng đã nhào vô cái vòng luẩn quẩn của cảnh vay nặng lãi. Thời đó ở Montepuccio, các tay cho vay lấy lãi hành nghề một cách đơn giản. Người ta thỏa thuận với nhau về một khoảng vay, về lãi suất và về hạn trả nợ. Tới ngày đã định, mang tiền đến trả. Không phải giấy tờ, giao kèo gì cả. Cũng chẳng cần người làm chứng. Chỉ bằng vào lời hứa, lòng tin ở thiện chí và sự lương thiện của đối tác. Bất hạnh cho kẻ nào vỡ nợ. Những cuộc chiến gia đình là bất tận và đẫm máu.

Don Cardella là chủ nợ cuối cùng của Carmella. Nàng đã cầu viện đến y mấy tháng trước đây để trả món tiền vay của người làm chủ tiệm cà-phê trên corso. Don Cardella là chỗ trông cậy cuối cùng của nàng. Y đã giúp nàng khỏi thế bí, nhờ đó thu lại hơn gấp đôi số tiền y cho nàng mượn, nhưng đó là lệ và Carmela không thấy có gì cần phản đối.

Nàng nhìn người chủ nợ cuối cùng của mình đi khuất ở góc phố và mỉm cười. Đáng ra nàng có thể rú lên và nhảy múa. Lần đầu tiên, cửa hàng thuốc lá thuộc về anh em nàng, lần đầu tiên nó là của riêng họ. Nguy cơ bị tịch thu lùi xa rồi. Không phải cầm cố gì nữa. Từ nay trở đi họ làm việc cho mình. Và mỗi đồng lire kiếm được sẽ là một đồng lire cho anh em nhà Scorta. “Chúng ta không còn nợ nần gì nữa.” Nàng cứ nhắc đi nhắc lại như thế hoài với mình đến độ cảm thấy gần như chóng mặt. Tựa như lần đầu tiên được tự do.

Nàng nghĩ đến các anh trai mình. Họ đã làm việc không tính toán. Giuseppe và Domenico lo phần xây. Họ đã xây một cái quầy. Trát lại nền. Quét vôi tường bên trong. Dần dà, năm này qua năm khác, cửa hàng đã định hình và sống động lên. Như thể cái nơi xây bằng đá cũ lạnh lẽo này được nuôi dưỡng bằng mồ hôi người đã nở hoa. Họ càng lao động, cửa hàng thuốc lá càng đẹp thêm. Con người cảm nhận được điều này. Dù là buôn bán, hay làm ruộng, hay chở thuyền, bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ khó hiểu giữa con đường với công cụ của mình, một mối liên hệ bao hàm cả tôn trọng lẫn căm ghét. Anh chăm lo cho công cụ của anh. Anh chăm lo cho nó từng li từng tí và ban đêm, anh chửi rủa nó. Nó làm anh hao mòn. Nó quần anh mệt đến gãy đôi người. Nó cướp đi của anh những ngày chủ nhật và cuộc sống gia đình, thế mà dù có đánh đổi bất cứ cái gì trên đời, anh cũng không chịu rời nó. Giữa cái cửa hàng thuốc lá và anh em nhà Scorta cũng vậy. Cùng một lúc, họ vừa nguyền rủa nó vừa tôn kính nó, như người ta tôn kính những gì mang lại miếng ăn cho mình và như người ta nguyền rủa những gì làm cho mình già đi trước tuổi.

Carmela nghĩ đến các anh trai mình. Họ đã hi sinh thời gian và giấc ngủ của mình. Và món nợ đó, nàng biết nàng sẽ không bao giờ trả được. Món nợ đó, không gì đền bù lại được.

Thậm chí nàng cũng không thể bộc bạch với họ niềm hạnh phúc này của nàng, bởi nếu vậy thì phải kể về những khoản nợ mà nàng đã vay, những nguy cơ mà nàng đã liều chấp nhận, mà nàng thì không muốn thế. Nhưng nàng muốn mau chóng ở bên họ. Ngày mai, chủ nhật, nàng sẽ gặp tất cả. Raffaele đã đưa ra một lời mời kỳ lạ. Một tuần trước, anh đã ghé qua để mời cả hội – phụ nữ, trẻ em, tất tật cả - đến một nơi gọi là Sanacore. Anh không cho biết lý do của lời mời này. Nhưng ngày mai, chủ nhật, họ sẽ gặp lại nhau tất cả ở đó. Nàng tự hứa với mình sẽ chăm sóc những người thân chu đáo hơn bao giờ hết. Nàng sẽ có một cử chỉ đối với từng người, bao bọc họ bằng tình thương mến của mình. Tất cả những người đã cống hiến thì giờ cho nàng. Các anh trai nàng. Các chị dâu nàng. Tất cả những người đã đóng góp một phần sức lực cho cửa hàng thuốc lá sống.

Về tới trước cửa nhà mình, trước khi đẩy cửa bước vào nhà gặp lại chồng và hai con trai, nàng tạt vào cái lán cũ kỹ cạnh nhà dùng làm chuồng lừa. Con lừa già ở đó, trong không khí ấm nóng của cái khoang tối mò này. Con lừa mà họ đã mang về từ Napoli và không bao giờ muốn rời bỏ. Họ dùng mó để chuyên chở thuốc lá từ San Giocondo về Montepuccio. Con vật già làm việc không biết mệt và hoàn toàn thích nghi với bầu trời vùng Pouilles, với cuộc sống mới của mình. Đến mức anh em nhà Scorta để cho nó hút thuốc. Con vật trung hậu rất khoái hút và cảnh tượng ấy làm bọn trẻ con ở Montepuccio cũng như ở San Giocondo thích mê; hễ thấy lừa tới là bọn chúng ùa ra tháp tùng, vừa chạy vừa la: “E arrivato l’asino fumatore! L’asino fumatore! [8] ” Quả là lừa ta có hút. Nhưng không phải là những điếu thuốc lá thật, như thế khác nào cho lợn ăn yến – mà anh em nhà Scorta thì chắt chiu từng điếu thuốc một. Không. Trên đường đi, họ ngắt những cọng cỏ khô dài, quấn thành một bó bự bằng ngón tay, rồi châm lửa cho lừa ta vừa đi vừa rít. Hoàn toàn tỉnh bơ. Nhả khói đằng mũi. Khi “điếu thuốc” ngắn dần và trở nên quá nóng, nó nhổ phì cái đầu mẩu ra một cách hiên ngang; điều đó bao giờ cũng làm cho anh em nhà Scorta cười rũ rượi. Vì lẽ đó, họ đặt tên cho nó là “Muratti”, con lừa hút thuốc của Montepuccio.

Carmela vỗ vỗ vào sườn con vật và thì thầm vào tai nó: “Cảm ơn, Muratti. Cảm ơn, caro [9] . Cả chú nữa, chú cũng đổ mồ hôi vì bọn ta.” Và lừa ta ngoan ngoãn để cho nàng vuốt ve như thể nó hiểu rằng anh em nhà Scorta mở hội ăn mừng tự do của họ và từ nay trở đi, những ngày lao động sẽ vĩnh viễn không còn cái trọng lượng nhọc nhằn của kiếp nô.

Khi Carmela vào nhà và đưa mắt nhìn chồng, nàng thấy ngay là chàng đang ở trong một trạng thái xáo động khác thường. Trong một thoáng, nàng đã tưởng là chàng biết chuyện nàng vay tiền của don Cardella mà không hỏi ý kiến của chàng, nhưng không phải thế. Mắt chàng long lanh niềm phấn khích của trẻ thơ chứ không phải cái ánh xấu xí của trách móc. Nàng mỉm cười ngắm chồng và ngay cả trước khi chàng nói ra, nàng đã hiểu rằng chàng đang phấn khởi vì một dự định mới.

Chồng nàng, Antonio Manuzio, là con trai của don Manuzio, luật sư và cố vấn của thành phố. Một thân hào ở Montepuccio. Giàu có. Chủ nhân của mấy trăm héc-ta ô-liu. Don Manuzio ở trong số những người bị Rocco Scorta Mascalzone cướp bóc nhiều nhất. Nhiều thủ hạ của ông đã bị giết vào thời kỳ ấy. Khi biết con trai mình có ý định lấy con gái tên tội phạm đó làm vợ, ông đã ra lệnh cho chàng chọn lựa giữa gia đình và “con đĩ” ấy. Ông đã nói putana [10] , cái chữ ấy ở trên miệng ông cũng chướng một vết cà chua trên một chiếc áo trắng tinh vậy. Antonio chọn và lấy Carmela, bằng cách đó cắt đứt với gia đình, khước từ đời sống trưởng giả nhàn nhã đang đợi chàng. Chàng cưới Carmela không chút tài sản. Không một xu nhỏ. Chỉ đơn giản với một cái tên.

“Có chuyện gì thế?” Carmela hỏi để cho Antonio có được cái thú kể cho vợ nghe những gì đang làm giậm giựt đầu môi chàng. Mặt Antonio bừng lên một ánh tri ân và chàng kêu lên.

“Miuccia, anh có một ý tưởng, chàng nói, anh đã nghĩ về nó suốt ngày. Thực ra, anh đã nghĩ về nó từ lâu rồi, nhưng hôm nay, anh mới xác định chắc chắn và anh đã quyết định. Chính bởi nghĩ đến các anh trai của em mà anh nảy ra ý ấy.”

Mặt Carmela hơi sầm xuống. Nàng không thích Antonio quay sang nói về các anh trai nàng. Nàng ắt thích hơn nếu chàng năng nói về hai con trai nàng, Elia và Donato, nhưng chàng chả làm thế bao giờ.

“Có chuyện gì thế? Nàng nhắc lại câu hỏi, với một thoáng mệt mỏi trong giọng nói.

- Phải biến hóa đi.”

Carmela không trả lời gì cả. Giờ thì nàng đã biết chồng mình sắp nói gì. Tất nhiên không phải biết thật cụ thể, nhưng đại thể, nàng cảm thấy rằng đó sẽ là một trong những ý tưởng mà nàng không thể chia sẻ, và điều đó khiến nàng buồn và cau có. Nàng đã lấy một người đàn ông trong đầu đầy gió, mắt sáng ngời, nhưng lãng đãng trong đời như người làm xiếc đi trên dây. Điều đó khiến nàng buồn. Và bực bội. Nhưng Antonio đang đà và giờ đây chàng phản giãi bày tất cả.

“Phải biến hóa thôi, Muccia, Antonio nói tiếp, hãy nhìn các anh trai của em xem. Chính họ có lý. Domenico có cái tiệm bar của anh ấy. Peppe và Faelucc’ có nghề chài. Mình phải nghĩ đến cái gì khác hơn là những điếu thuốc lá chết tiệt ấy.

- Chỉ có thuốc lá là phù hợp với gia đình Scorta”, Carmela trả lời ngắn gọn.

Ba anh trai nàng đã lấy vợ và cả ba, đồng thời với việc lấy vợ, đã có một cuộc sống mới. Vào một ngày đẹp trời tháng sáu năm 1934. Domenico đã cưới Maria Faratella, con gái một nhà buôn khá giả. Đó là một cuộc hôn nhân không xuất phát từ đam mê nhưng nó đem lại cho Domenico một đời sống tiện nghi anh chưa bao giờ được hưởng. Vì vậy, đối với Maria, anh cảm thấy một niềm biết ơn giống như là tình yêu. Có Maria, anh tránh khỏi cảnh nghèo. Gia đình Faratella không sống trong xa hoa, nhưng họ sở hữu nhiều cánh đồng ô-liu, ngoài ra còn có một tiệm bar trên corso Garibaldi nữa. Từ nay, Domenico chia sẻ thời gian giữa cửa hàng thuốc lá và tiệm bar, làm việc tùy từng ngày ở nơi nào cần anh nhiều hơn. Còn Raffaele và Giuseppe thì lấy con gái ngư dân và nghề biển cũng chiếm phần lớn thời gian và sức lực của họ. Phải, các anh trai nàng đã tách xa cửa hàng thuốc lá, nhưng đó là cuộc đời, và việc Antonio dùng cái từ “biến hóa” để định tính sự thay đổi số phận làm Carmela bực mình. Nàng thấy nó sai trật và gần như dơ bẩn.

“Cửa hàng thuốc lá là cây thập ác của chúng ta, Antonio tiếp tục khi Carmela im tiếng. Hoặc giả nó sẽ trở thành như thế nếu chúng ta không cố tìm cách thay đổi. Em đã làm điều cần phải làm và em đã làm điều đó tốt hơn ai hết, nhưng bây giờ phải nghĩ đến tiến triển. Với thuốc lá em làm ra tiền nhưng em sẽ không bao giờ có cái thực sự đáng kể: quyền lực.

- Thế anh đề xuất cái gì?

- Anh sẽ ứng cử thị trưởng.

- Và ai sẽ bầu anh? Carmela không nhịn được,cười phá lên. Thậm chí đến cả sự ủng hộ của phía gia đình anh, anh cũng chẳng có. Domenico, Faelucc’ và Peppe. Thế đấy. Anh có thể trông cậy vào ba phiếu ấy, độc trọi thế thôi.

- Anh biết, Antonio nói, phật ý như một đứa trẻ, nhưng biết nhận xét ấy là đúng. Anh phải chứng tỏ mình. Anh đã nghĩ đến điều đó. Những kẻ ngu dốt ở Montepuccio chẳng biết thế nào là chính trị và không biết nhận ra giá trị của một con người. Anh phải chiếm được sự kính trọng của họ. Vì vậy mà anh ra đi.

- Đi đâu? Carmela hỏi, ngạc nhiên thấy đức ông chồng trẻ quyết tâm thế.

- Sang Tây Ban Nha, chàng đáp. Duce [11] đang cần những người Italia ưu tú. Sẵn sàng cống hiến tuổi xuân để đè bẹp bọn đỏ. Và khi anh trở về, ngực đầy huân chương, họ sẽ nhận ra ở anh người xứng đáng với cương vị thị trưởng.”

Carmela im lặng một lát. Nàng chưa bao giờ nghe nói về cái cuộc chiến ở Tây Ban Nha ấy. Cũng như những dự định của vị Duce liên quan đến bộ phận này của thế giới. Một cái gì trong nàng bảo rằng chỗ của những người đàn ông trong gia đình nàng không phải ở đó. Một cái gì như một linh cảm từ gan ruột. Cuộc chiến đấu thực sự của gia đình Scorta phải được định đoạt ở đây. Ở Montepuccio chứ không phải ở Tây Ban Nha. Vào cái ngày của năm 1936, cũng như mỗi ngày khác của năm, họ cần toàn bộ thành viên của họ tộc. Duce và cuộc chiến tranh Tây Ban Nha của ông ta có thể kêu gọi những người đàn ông khác. Nàng nhìn chồng hồi lâu và chỉ đơn giản nhắc lại bằng một giọng nhỏ nhẹ:

“Chỉ có cửa hàng thuốc là là phù hợp với dòng họ Scorta.”

Nhưng Antonio không nghe. Hay nói đúng hơn, chàng đã quyết định và mắt chàng đã long lanh như mắt đứa trẻ mơ đến những miền đất xa xôi.

“Với dòng họ Scorta thì có thể, chàng nói. Nhưng anh là một người mang họ Manuzio. Và cả em nữa. Từ khi em lấy anh.”

Antonio Manuzio đã hạ quyết tâm. Chàng nhất quyết sang Tây Ban Nha. Để chiến đấu bên cạnh bọn phát-xít. Chàng muốn hoàn thiện giáo dục chính trị của mình và bước vào một cuộc phiêu lưu mới.

Chàng còn giải thích đến tận khuya, nào là tại sao cái ý tưởng này lại chói ngời, nào là ngày về, trên đầu chàng tất yếu sẽ rạng rỡ hào quang của vị anh hùng. Carmela không nghe nữa. Nàng ngủ thiếp đi trong khi đức ông chồng trẻ của nàng tiếp tục nói về vinh quang phát-xít.

Ngày hôm sau, nàng trở dậy, hốt hoảng. Có hàng ngàn việc phải làm. Thay đồ. Mặc quần áo cho hai con. Búi tóc cho mình. Kiểm tra xem cái áo sơ-mi trắng Antonio chọn mặc đã là chưa. Xịt gôm và bôi nước hoa cho Elia và Donato cho hai đứa nó đẹp như những đồng xu mới. Nhớ đừng quên cái quạt vì hôm nay sẽ nóng bức, không khí chắc chắn sẽ ngột ngạt. Nàng thấy bồn chồn như thể trước lễ rửa tội của các con trai hay lễ cưới của chính mình vậy. Có bao nhiêu việc phải làm. Không được quên gì hết. Và cố sao đừng có đến trễ. Nàng đi lăng xăng trong nhà, tay cầm bàn chải, miệng ngậm chiếc trâm cài, tìm giày tất và rủa thầm chiếc áo váy dường như chật lại khiến nàng khó khăn lắm mới cài khuy được.

Cuối cùng cả gia đình đã sẵn sàng xuất phát. Antonio hỏi lại lần nữa chỗ hẹn ở đâu và Carmela nhắc lại “Sanacore”. “Nhưng rồi anh ta đưa chúng ta đến đâu?” Antonio có vẻ lo lắng. “Em không biết, nàng đáp, anh ấy muốn dành cho chúng ta một bất ngờ.” Vậy là họ lên đường, rời điểm cao Montepuccio để men theo đường ven biển đến chỗ nói trên. Tới đây, họ đi vào một con đường hẻm dẫn đến một thứ nền đất đắp cao trấn ngự bờ biển. Họ dừng lại ở đó một lúc, đang phân vân chưa biết đi tiếp ngả nào thì phát hiện thấy một tấm pa-nô bằng gỗ trên đó ghi Trabucco Scorta với một mũi tên chỉ tới một cầu thang. Xuống hết cái cầu thang hồ như bất tận ấy, họ tới một sàn gỗ rộng, cheo leo nơi vách đá nhô ra trên mặt sóng. Đó là một trong những trabucco [12] rải rác dọc bờ biển vùng Pouilles. Những sàn đánh cá ấy giống như những bộ khung gỗ lớn. Những tấm ván bạc phếch đi bởi thời gian níu bám vào đá, tưởng như không sao tồn tại nổi qua bão tố. Vậy mà chúng vẫn đấy. Từ bao giở bao giờ. Vươn những cột trên mặt nước. Chống chọi với gió cùng cơn cuồng nộ của sóng. Ngày xưa, người ta dùng chúng để đánh cá mà không cần ra biển. Nhưng rồi người ta đã bỏ chúng và chúng chỉ còn là những chòi gác trừng mắt dõi sóng và vặn mình răng rắc trước gió. Nom cứ tưởng chúng được dựng bằng những thứ tạp nham, vậy mà những cái tháp chông chênh ấy chống chọi được với tất cả. Trên mặt sàn, ngổn ngang một mớ bòng bong những dây rợ, tay quạt ngang và ròng rọc. Khi người ta thao tác trên đó, tất cả đều căng ra và kêu răng rắc. Trabucco kéo lưới lên ung dung và uy nghi tựa một người cao gầy vục tay xuống nước rồi từ từ đưa lên như thể đang bê những kho báu của biển vậy.

Trabucco này là tài sản của gia đình nhà vợ Raffaele. Điều đó thì anh em nhà Scorta biết. Nhưng cho đến nay, đó chỉ là một cấu trúc bỏ hoang không được việc gì cho ai cả. Một đống ván và cột mọt ruỗng. Từ mấy tháng nay, Raffaele đã bắt tay vào phục chế trabucco. Anh làm việc vào chiều tối sau buổi đánh cá ban ngày. Hoặc vào những ngày biển động. Luôn luôn giấu mọi người. Anh làm hùng hục và để vượt lên những khoảnh khắc nản chí trước khối lượng công việc mênh mông, anh chỉ nghĩ đến vẻ ngạc nhiên của Domenico, Giuseppe và Carmela khi họ bất ngờ thấy nơi này mới tinh khôi và hoàn toàn đắc dụng.

Anh em nhà Scorta rất đỗi sửng sốt. Không những một cảm giác vững chắc toát ra từ đống gỗ này, mà tất cả còn được trang trí rất có “gu” và đỏm dáng nữa. Nỗi ngạc nhiên của họ càng tăng lên khi họ tiến thêm mấy bước và phát hiện thấy sừng sững giữa đám dây và lưới ở ngay trung tâm sàn bằng một cái bàn to tướng trên phủ một chiếc khăn bàn đẹp thêu tay trắng tinh. Từ một góc của trabucco, bốc lên mùi cá và lá nguyệt quế nướng. Raffaele thò đầu ra từ một khoang gia cố, nơi anh đặt một cái lò đun củi và một cái vỉ nướng, mặt nở toác một nụ cười khoáng đạt và hét to: “Ngồi vào đi! Hoan nghênh đến trabucco! Ngồi đi!” Và với mỗi câu hỏi mà mọi người đặt ra khi ôm hôn anh, anh đều cười với cái vẻ bí bí mật mật của kẻ âm mưu. “Mà anh đã xây cái lò này từ bao giờ thế?”

“Anh kiếm đâu ra cái bàn này?” “Lẽ ra anh nên bảo bọn em mang đến vài thứ gì chứ…” Raffaele mỉm cười và chỉ đáp: “Ngồi đi, không phải làm cái gì hết. Ngồi vào đi.”

Carmela và chồng con là những người đến đầu tiên, nhưng họ vừa ngồi thì đã nghe thấy í ới ở chỗ cầu thang nhỏ. Vợ chồng nhà Domenico đến cùng với hai con gái, theo sau là vợ chồng nhà Giuseppe và đứa con nhỏ Vittorio. Tất cả mọi người đã có mặt. Họ ôm hôn nhau. Cánh phụ nữ khen trang phục của nhau trang nhã. Cánh đàn ông mời nhau thuốc lá và bế bổng những đứa cháu trai cháu gái lên làm chúng sướng ru` lên trong những vòng tay hộ pháp. Carmela ngồi tách ra một lát. Để có thì giờ ngắm cảnh sum vầy của cái tiểu cộng đồng này. Tất cả những người nàng yêu thương đều ở đó. Rờ rờ trong ánh sáng một ngày chủ nhật với những tà áo dài của phái nữa ve vuốt màu trắng những chiếc sơ-mi của đám mày râu. Biển dịu êm và sung sướng. Nàng nở một nụ cười hiếm hoi. Nụ cười của niềm tin vào cuộc đời. Cái nhìn của nàng lướt trên từng người trong bọn họ. Giuseppe và Mattae vợ anh, con gái một ngư dân, ông này đã thay hẳn từ “đàn bà” trong từ vựng riêng của mình bằng từ “đĩ”; đến mức không hiếm khi người ta nghe thấy ông oang oang chào một người bạn gái “Ciao puttana!” [13] ngay giữa phố, làm những người qua đường cười phá lên. Luồng mắt của Carmela dịu dàng dừng lại trên lũ trẻ: Lucrezia và Nicoletta, hai đứa con gái của Domenico mặc áo váy trắng: Vittorio, con trai Giuseppe và Mattea đang ngậm vú mẹ - mẹ nó thì thầm: “uống đi, thằng cún, uống đi, tất cả cho con thôi đấy”; và Michele, thành viên cuối cùng của bộ tộc đang oe oe trong bọc tã, mà tất cả cánh phụ nữ đang náo nức truyền tay nhau. Nàng ngắm họ và tự nhủ rằng tất cả sẽ có thể sung sướng. Phải, sung sướng, đơn giản thế thôi.

Tiếng raffaele hô lớn: “Vào bàn! Vào bàn!” kéo nàng ra khỏi dòng suy nghĩ. Nàng đứng dậy và làm cái điều nàng đã tự hứa với mình. Săn sóc những người thân. Cười với họ. Ôm hôn họ. Bao bọc họ. Lần lượt đến với từng người, tao nhã và hạnh phúc.

Khoảng mười lăm người ngồi quanh bàn ăn, họ nhìn nhau một lúc để ngỡ ngàng nhận thấy bộ tộc mình đã phát triển biết bao. Mặt Raffaele ngời ngời hạnh phúc và đầy vẻ háu ăn. Anh đã xiết bao mơ tưởng đến giây phút này. Tất cả những người anh yêu thương đều ở đây, tại cơ ngơi của anh, trên trabucco của anh. Anh lăng xăng từ góc này đến góc kia, từ lò đến bếp, từ đống lưới đánh cá đến bàn ăn, không lúc nào ngơi, phục vụ từng người sao cho không ai thiếu thứ gì.

Cái này còn khắc ghi mãi trong trí nhớ của các thành viên của bộ tộc Scorta. Bởi vì đối với tất cả, người lớn cũng như trẻ con, đây là lần đầu tiên họ ăn với nhau như thế này. Bác Faelucc’ làm mọi thứ thật hoành tráng. Vào đợt khai vị, Raffaele và Giuseppina bày lên bàn cả chục đĩa thức ăn. Những con trai to bằng ngón tay cái nhồi trứng, ruột bánh mì và phó-mát trộn với nhau. Những khúc cá trồng ướp mặn, thịt chắc mà êm lừ như tan ra dưới lưỡi. Những đầu vòi bạch tuộc. Một món xa-lát cà chua và rau diếp xoắn. Vài lát cà tím nướng. Cá trồng rán. Người ta truyền cho nhau các món ăn từ đầu bàn này sang đầu bàn kia. Ai nấy sung sướng ăn thỏa thích đủ các thứ, không cần lựa chọn.

Khi các đĩa đã hết nhẵn, Raffaele bưng ra hai cái âu lớn nghi ngút khói. Một cái đựng đầy troc-coli, món đặc sản pa-tê tẩm mực cá mực truyền thống của vùng này. Âu kia là món cơm thủy sản Ý. Tất cả ồ lên một tiếng “hu-ra” đón mừng, làm đầu bếp Giuseppina đỏ mặt sung sướng. Đây là lúc bắt đầu ngon miệng, khiến người ta tưởng có thể ăn từ ngày này qua ngày khác. Raffaele cũng đặt lên năm chai rượu vang địa phương. Một thứ vang đỏ xù xì và thẫm như máu chúa Jesus. Lúc này nóng đến cực độ. Các thực khách được che nắng bằng một chiếc chiếu rơm, nhưng bằng vào làn không khí hầm hập, người ta cảm thấy đến cả lũ thằn lằn cũng phải đổ mồ hôi.

Chuyện trò râm ran – đôi lúc ngắt quãng bởi một câu hỏi của bọn trẻ hay một cốc rượu đổ vỡ. Người ta trò chuyện về tất cả và chẳng về gì cả. Giuseppina tả cách làm pa-tê và nấu cơm Ý. Như thể khi đang ăn mà lại nói về món ăn thì càng thú hơn nữa. Bàn luận. Cười vui. Mỗi người đều trông chừng không khí nào để cho đĩa của người bên cạnh hết thức ăn.

Khi những đĩa lớn cạn hết thì mọi người cũng đã no. Họ cảm thấy bụng đầy căng. Thỏa thuê. Nhưng Raffaele vẫn chưa nói lời cuối cùng. Anh mang tới bàn năm đĩa to đùng đầy các loại cá đánh được ngay trong buổi sáng hôm ấy. Nào là cá sói, cá tráp. Nào tôm hồng to gộc nướng bằng lửa củi. Một âu đầy cá mực rán. Lại cả mấy con tôm rồng nữa. Cánh phụ nữ thấy mang thêm đồ ăn, liền thề rằng họ sẽ không đụng đến. Rằng thế là quá nhiều. Rằng ăn nữa thì chết mất. Nhưng phải ăn để tôn vinh Raffaele và Giusseppina chứ. Và không phải chỉ tôn vinh riêng họ, mà cả cuộc đời đã cho toàn tộc bữa tiệc không thể nào quên này. Ở miền Nam, người ta ăn theo kiểu thèm khát, nghiến ngấu, ăn như điên. Chừng nào còn có thể thì cứ ăn. Như thể sau đó là trời sập. Như thể đấy là bữa ăn cuối cùng vậy. Nên cứ phải ăn chừng nào còn có cái ăn trước mặt. Đó là một thứ bản năng hoảng sợ. Và dù có ngã bệnh vì ăn, cũng kệ. Phải ăn một cách vui vẻ và thái quá.

Những đĩa cá quay vòng và mọi người say sưa thưởng thức. Họ không ăn vì cái bụng nữa, mà vì vị giác. Nhưng dù rất muốn, họ vẫn không sao ăn được cái món cá mực tươi. Và điều đó khiến Raffaele ngập tràn một cảm giác khinh khoái đến chóng mặt. Thức ăn phải còn thừa lại trên bàn, nếu không thì có nghĩa là khách ăn chưa đủ. Cuối bữa, Raffaele quay sang vỗ vỗ cái bụng Giuseppe mà rằng: “Pancia piena?” [14] Và tất cả vừa cười vừa nới thắt lưng hoặc rút quạt ra quạt. Đã bớt nóng nhưng những thân thể no nê bắt đầu vã mồ hôi vì số lượng thức ăn nhồi nhét đầy tễ, vì cả cuộc “lao động” hàm nhai vui vẻ này. Raffaele bèn mang cà-phê ra cho cánh đàn ông kèm theo ba chai rượu tiêu cơm: một chai gappa, một chai limoncello và một chai nguyệt quế. Khi đã rót rượu cho tất cả, anh nói:

“Anh chị em mình biết đấy, cả làng gọi chúng ta là lũ “miệng hến.” Người ta bảo chúng ra là con Mụ Câm và cái miệng chẳng có ích gì cho chúng ta ngoài việc ăn, chứ chẳng bao giờ dùng để nói. Ta hãy lấy điều đó làm tự hào. Nếu cái đó có thể đẩy bọn tò mò và khiến bọn đít thớt tức điên, thì miệng hến cũng được. Nhưng sự im lặng đó là dành cho họ chứ không phải cho chúng ta. Tôi đã không sống trải qua tất cả những gì chị em chúng ta đã sống trải. Rất có thể là tôi sẽ chết ở Montepuccio mà không bao giờ được thấy gì trên thế giới ngoài những ngọn đồi khô khốc của vùng này. Nhưng anh và hai em thì đã tới đó. Và biết được nhiều hơn tôi. Hãy hứa với tôi là sẽ kể cho các con tôi. Kể cho chúng nghe những gì anh và các em đã thấy. Để cho những gì anh và hai em đã gom góp được trong chuyến đi New York sẽ không chết cùng với anh và các em. hãy hứa với tôi là mỗi người sẽ kể một câu chuyện cho các con tôi. Một điều đã học được. Một kỷ niệm. Một tri thức. Hãy làm điều đó trong nội bộ chúng ta. Chú bác cô dì truyền cho các cháu. Một điều bí mật giữ kín, không thổ lộ với ai khác. Nếu không làm vậy,con cái chúng ta sẽ vẫn là dân Montepuccio như những người khác. Mù tịt về thế giới. Chẳng biết gì khác ngoài sự im lặng và cái nóng thiêu của mặt trời.”

Anh em Scorta tán đồng. Phải. Nên như thế. Mỗi người phải nói chí ít một lần trong đời. Cho một đứa cháu gái hay một đứa cháu trai. Kể cho nó nghe những điều mình biết trước khi chết. Nói một lần. Để cho một lời khuyên, truyền đạt những gì mình biết. Nói. Để không phải chỉ là loài gia súc sống và chết dưới mặt trời câm lặng này.

Bữa ăn đã xong. Bốn giờ sau khi ngồi vào bàn, cánh đàn ông ngả người trên ghế, trẻ con ra chơi ở đống dây dợ và phụ nữ bắt đầu dọn dẹp.

Lúc này, tất cả đều mệt lử như sau một trận đánh. Mệt lử và sung sướng. Bởi trận đánh này, hôm nay, đã kết thúc thắng lợi. Họ đã cùng nhau hưởng một chút cuộc sống. Họ đã tạm tách ra khỏi sự cực nhọc hằng ngày. Bữa ăn này sẽ còn lại trong ký ức tất cả như là bữa đại tiệc của dòng họ Scorta. Đó là lần duy nhất cả “bộ tộc” gặp nhau đông đủ. Nếu có một cái máy ảnh, thì hẳn họ đã bất tử hóa cái buổi chiều xum họp này. Tất cả đều có mặt ở đây. Bố mẹ, vợ chồng, con cái. Đây là tuyệt đỉnh của “tộc đoàn”. Và đáng ra phải y nguyên thế không có gì thay đổi.

Vậy mà, sự thể chẳng bao lâu đã xấu đi, đất sớm nứt dưới chân họ và những chiếc áo dài xanh lơ của các thành viên nữ mau chóng chuyển sang màu đen xì xấu xí của tang tóc. Antonio Manuzio sang Tây Ban Nha và chết ở đó vì một viết thương tệ hại – chẳng chút vinh quang, không kèn không trống – để lại nàng góa Carmela và hai đứa con trai. Đó là tấm khăn tang đầu tiên trùm lên dòng họ. Domenico, Giuseppe và Raffaele quyết định để lại cửa hàng thuốc lá cho riêng cô em gái, nàng chỉ có cái đó và phải nuôi hai miệng ăn. Làm sao cho Elia và Donato không xuất phát từ số không, tránh cho chúng khỏi phải nếm trải cảnh bần hàn như các bác chúng.

Bất hạnh sắp làm rạn nứt cuộc sống đầy đặn của những người nam và nữ này, nhưng giờ đây không ai nghĩ tới nó. Antonio Manuzio tự rót cho mình một ly grappa nữa. Họ đang hết mình tận hưởng niềm hạnh phúc của họ dưới con mắt độ lượng của Raffaele, mà cái cảnh tượng họ thưởng thức món cá do chính tay anh nướng khiến anh vui thích đến phát khóc.

Cuối bữa, họ no căng bụng, ngón tay nhớp nháp, áo sơ-mi vấy bẩn, trán vã mồ hôi, nhưng ngất ngây sung sướng. Họ rời trabucco trở về với cuộc sống riêng của mình mà lòng đầy luyến tiếc.

Rất lâu về sau, đối với họ, cái mùi ngào ngạt và ấm nóng của lá nguyệt quế nướng vẫn mãi là mùi của hạnh phúc.

Vậy là cha hiểu tại sao hôm qua con đã run sợ khi nhận thấy mình đã quên cái tên Korni. Nếu con quên con người đó, dù chỉ là trong một giây, tức là mọi thứ đã chao đảo. Con còn chưa kể hết, don Salvatore ạ. Nhưng hãy cho con chút ít thời gian. Cha hút thuốc đi. Bình thản mà hút.

Khi bọn con về tới Montepuccio, con bắt các anh con thề không bao giờ nói về chuyện thất bại ở New York. Chúng con đã thổ lộ với Raffaele tối hôm chúng con chôn cất Mẹ Câm vì anh đã yêu cầu chúng con kể lại chuyến đi và không ai trong chúng con muốn nói dối anh. Anh ấy là người trong nhà. Anh ấy đã cùng thề với hai anh con. Và tất cả đã giữ lời. Con không muốn ai biết cả. Với cả làng Montepuccio, bọn con đã đến New York và sống mấy tháng ở đó. Đủ thời gian để kiếm được ít tiền. Ai hỏi tại sao lại trở về mau thế, chúng con đều trả lời rằng để mẹ chúng con ở lại đấy trơ trọi một mình sao đành. Rằng chúng con đâu có biết là bà đã mất. Chừng nấy là đủ. Người ta không hỏi thêm nữa. Con không muốn người ta biết rằng anh em nhà Scorta sang tới đó đã bị từ chối. Những gì người ta nói về anh, điều mà người ta tin là chuyện của anh, cái đó mới quan trọng. Con muốn người ta tin rằng anh em nhà Scorta đã ở New York. Rằng chúng con không còn là một gia đình sa sút hoặc khố rách áo ôm nữa. Con biết những người ở đây. Họ ắt bàn tán về vận rủi luôn giáng xuống đầu bọn con. Họ ắt nhắc đến lời nguyền rủa cúa Rocco. Và bọn con sẽ chẳng bao giờ thoát ra khỏi cái đó. Chúng con đã trở về giàu hơn khi ra đi. Chỉ có điều đó là đáng kể. Con không bao giờ kể với các con trai con. Không đứa nào trong đám con cái chúng con biết cả. Con đã bắt các anh con thề vậy và họ đã giữ lời. Phải làm sao cho tất cả mọi người tin là bọn con đã ở New York. Thậm chí chúng con còn làm hơn thế nữa. Chúng con kể tỉ mỉ về thành phố và cuộc sống của chúng con ở đó. Tỉ mỉ đến từng chi tiết. Sở dĩ chúng con làm được thế là vì ông già Korni đã làm thế với chúng con. Trong chuyến tàu trở về, ông đã kiếm được một người biết tiếng Ý nhờ dịch cho chúng con nghe những bức thư của em trai ông gửi cho ông. Bọn con đã nghe nhiều đêm ròng. Con vẫn còn nhớ một số trong loạt thư đó. Em trai ông già Korni nói về cuộc sống của ông ta, về khu phố của ông ta. Ông tả các đường phố, những người ở cùng cư xá. Korni đã bắt bọn con nghe những bức thư đó, tuy nhiên đó không phải là một sự tra tấn, mà trái lại, nó mở cửa thành phố new York cho bọn con. Chúng con dạo chơi trong đó. Chúng con cư trú tại đó trong ý nghĩ. Nhờ có những bức thư của ông già Korni mà con kể được cho các con trai con nghe về New York. Giuseppe và Somenico cũng làm như thế. Chính vì thế, trình cha don Salvatore, mà con mang đến cho cha vật tạ ơn “Napoli – New York” này. Con xin cha hãy treo nó ở gian giữa nhà thờ. Một tấm vé một chiều đi New York. Con muốn nó có ở trong nhà thờ làng Montepuccio. Với những ngọn nến thắp cho hương hồn ông già Korni. Đó là một lời nói dối. Nhưng cha hiểu chứ, đó đâu phải man trá, phải không thưa cha? Cha sẽ làm như thế chứ? Con muốn dân làng Montepuccio tiếp tục tin rằng bọn con đã tới đó. Khi Anna đến tuổi, cha sẽ tháo tấm vé xuống và trao cho nó. Nó sẽ đặt nhiều câu hỏi và cha sẽ trả lời nó. Nhưng trong khi chờ đợi, con những muốn mắt của các thành viên dòng họ Scorta long lanh cái ánh sáng của phố thủy tinh.

[9] Cưng.

[10] Con đĩ.

[11] Thủ lĩnh, chỉ Mussolini, lãnh tụ phát-xít Ý

[12] Tiếng Italia: nền đất đắp cao nhô ra biển, trên đó dựng sàn đánh cá.

[13] Chào con đĩ.

[14] Dạ dày căng chứ?

[15] Tên một tỉnh miền Nam Italia