Chương 6 Những kẻ ăn mặt trời
Một buổi sáng tháng tám năm 1946, một người đàn ông cưỡi lừa vào làng Monteppucio. Mũi dài thẳng, mắt nhỏ đen láy. Một bộ mặt không thiếu vẻ quý phái. Trẻ, có lẽ khoảng hai mươi lăm tuổi, nhưng khuôn mặt dài gầy guộc có một vẻ nghiêm nghị khiến anh ta nom già đi. Những người già nhất trong làng lại nghĩ đến Luciano Mascalzone. Người khách lạ tiến với nhịp bước chậm rãi của định mệnh. Có lẽ đó là một hậu duệ của ai đó. Nhưng anh ta đi thẳng đến nhà thờ và trước cả khi dỡ bỏ đồ đoàn, cho lừa ăn hoặc rửa ráy, ngay cả khi uống chút nước và vươn vai, trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người, anh ta gióng chuông liên hồi. Monteppucio đã có cha xứ mới, don Salvatore, mà chẳng bao lâu, người ta đặt cho cái biệt danh là người xứ Calabre [15] .
Ngay hôm tới, don Salvatore đã làm lễ trước ba bà già bị thói tò mò kích thích bước vào nhà thờ. Các bà muốn xem cha xứ mới ra sao. Hành xử của người trẻ tuổi này khiến các bà sững sờ và lan truyền tin đồn là cha xứ đã xổ ra một bài thuyết giáo dữ dằn chưa từng thấy. Điều đó khiến dân làng Monteppucio đâm tò mò. Hôm sau, có thêm năm người nữa đến và cứ thế cho tới ngày chủ nhật đầu tiên. Hôm đó, nhà thờ chật kín, các gia đình đến đầy đủ. Tất cả đều muốn xem thử cha xứ mới có phải là người thích hợp hay lại phải dành cho ông ta cái số phận của người tiền nhiệm. Don Salvatore dường như không hề sợ hãi. Đến lúc thuyết giảng, ông dõng dạc lên tiếng, đầy quyền uy:
“Các ngươi tự xưng là tín đồ Thiên Chúa giáo, ông nói, và các ngươi đến tìm an ủi bên Đức Chúa Lời vì các ngươi biết Người tốt và công bằng trong mọi sự, nhưng các ngươi bước vào nhà của Chúc mà chân lấm bê bết và hơi thở nồng nặc. Ta không nói đến tâm hồn các ngươi vốn đen ngòm như mực của cá mực. Những kẻ có tội. Các ngươi bẩn sinh đã là những kẻ có tội như tất cả chúng ta, nhưng các ngươi thích thú trong trạng thái ấy như lũ lợn thích thú trong vũng bùn. Có một lớp bụi dày trên các ghế băng của giáo đường này khi ta bước vào đây mấy hôm trước. Đây là cái thứ làng gì mà để bụi phủ đầy ngôi nhà của Chúa? Các ngươi tưởng mình là ai mà dám quay lưng lại với Chúa? Và đừng có nói với ta là tại các ngươi nghèo. Đừng có nói với ta rằng các ngươi phải làm lụng ngày đêm, rằng công việc đồng áng để lại cho các ngươi quá ít thời gian. Ta đến từ những vùng đất mà ở đó những cách đồng của các ngươi có thể xem là vườn Địa Đàng. Ta đến từ những vùng đất mà ở đó kẻ nghèo nhất trong số các ngươi có thể được xem như một ông hoàng. Không, hãy thú nhận đi, các ngươi tiêu vong rồi. Ta thừa biết những thứ lễ nghi nông dân của các ngươi. Nhìn mặt các ngươi ta cũng đoán ra. Những phép trừ tà của các ngươi. Những tượng gỗ của các ngươi. Ta biết những trò bỉ ổi của các ngươi chống lại Đấng Toàn Năng, những lễ thức vô đạo của các ngươi. Hãy thú nhận và sám hối đi, lũ nông dân kia. Nhà Thờ có thể tha thứ cho các ngươi và cải tạo các ngươi thành những người Cơ Đốc thành tâm và lương thiện, điều mà các ngươi chưa bao giờ đạt tới. Nhà Thờ có thể làm điều đó vì Nhà Thờ đầy thiện tâm, nhưng phải thông qua ta và ta đến đây làm cho các ngươi điêu đứng. Nếu các ngươi vẫn một mực giở trò điếm nhục ấy, nếu các ngươi trốn tránh Nhà Thờ và coi khinh linh mục của Nhà Thờ, nếu các ngươi tiếp tục lao vào những nghi lễ mọi rợ ấy, thì hãy nghe đây và chớ nghi ngờ gì vào điều sắp xảy tới: trời sẽ đầy mây và sẽ mưa ròng rã suốt ba mươi ngày, ba mươi đêm trong mùa hạ. Cá sẽ tránh mành lưới của các ngươi. Ô-liu sẽ mọc toàn rễ. Lừa sẽ đẻ ra toàn mèo mù. Và chẳng bao lâu làng Monteppucio sẽ tiêu tan chẳng còn gì hết. Bởi vì đó sẽ là ý Chúa. Hãy cầu xin Người mở lượng từ bi. Amen.”
Đám người dự lễ chầu sững sờ. Thoạt đầu còn nghe những tiếng làu bàu, khe khẽ phản đối. Nhưng dần dần im lặng trở lại, một im lặng mê đắm và thần phục. Tan lễ ra về tất cả đều nhất trí nhận định: “Tay này có bản lĩnh. Chẳng giống cái tay người Milan đít trắng hếu tí nào.”
Don Salvatore được chấp nhận. Người ta yêu mến cái khẩu khí long trọng của ông. Ông có cái thô cứng của đất miền Nam và cái nhìn đen lay láy của những người không biết sợ.
Vài tháng sau khi tới, don Salvatore phải đối mặt với cuộc thử lửa đầu tiên: chuẩn bị cho hội Thánh Elia. Suốt một tuần lễ, cha không ngủ. Hôm trước tuần lễ hội, cha còn tong tả chạy hết chỗ này đến chỗ khác, lông mày nhíu lại. Các phố treo đèn, kết hoa đón mừng lễ hội. Sáng ra theo tiếng gà gáy, một loạt đại bác làm rung chuyển tường vách mọi nhà. Tất cả đã sẵn sàng. Niềm hứng khởi dâng lên. Trẻ con giậm giựt chân tay. Cánh phụ nữ đã chuẩn bị thực đơn cho những ngày hội. Trong những căn bếp nóng đổ mồ hôi, họ rán từng lát cá cho món parmigiana. Nhà thờ đã được trang hoàng. Những pho tượng thánh bằng gỗ được mang ra giới thiệu với giáo dân trong xứ đạo: Thánh Elia, Thánh Rocco, và Thánh Michele. Theo tục lệ, các tượng được phủ đầy đổ trang sức: dây chuyền và mề-đay bằng vàng cùng những đồ cúng tế lấp lánh trong ánh nến.
Vào lúc chiều muộn, trong khi cả làng Monteppucio ở trên corso, đang bình yên uống nước mát hoặc ăn kem ngon lành, bỗng người ta nghe thấy một tiếng rú man rợ và don Salvatore xuất hiện, tái nhợt, mắt lộn tròng như sắp ngất xỉu. Cha gào lên như con thú bị thương: “Có kẻ đánh cắp mề-đay của Thánh Michele!” và thế là cả làng im bặt. Im lặng kéo dài đủ để mỗi người thực sự hiểu được điều cha xứ vừa nói. Những mề-đay của Thánh Michele. Bị đánh cắp. Tại đây. Trong làng Monteppucio này. Không thể có chuyện ấy được.
Bấy giờ, đột nhiên, im lặng chuyển thành một tiếng lào xào giận dữ và tất cả cánh đàn ông đứng dậy. Ai? Kẻ nào có thể phạm một tội ác như vậy. Ai? Đó là một sự xúc phạm với cả làng. Không ai nhớ đã từng có chuyện tương tự như thế xảy ra bao giờ. Ăn cắp của Thánh Michele! Ngay trước ngày hội! Điều đó sẽ đem lại vận rủi cho tất cả dân làng Monteppucio. Một tốp đàn ông quay lại nhà thờ, đặt nhiều câu hỏi với những người đã đến đây cầu nguyện. Họ có thấy kẻ lạ mặt nào lảng vảng quanh đấy không? Có thấy cái gì bất bình thường không? Người ta tìm khắp nơi. Người ta kiểm tra thấy quả thực là mề-đay không rơi xuống chân tượng. Chẳng có gì hết. Chẳng ai thấy gì cả. Don Salvatore tiếp tục nhắc đi nhắc đi nhắc lại: “Tai họa! Tai họa! Cái làng này là cả một đám tội phạm!” Cha muốn hủy bỏ tất cả. Đám rước. Lễ chầu. Tất tần tật.
Ở nhà Carmela, nỗi bàng hoàng cũng giống như ở mọi nơi khác. Giuseppe đến ăn tối. Suốt bữa Elia không ngừng ngọ ngoậy trên ghế. Cuối cùng, khi mẹ nó thu dọn đĩa, nó mới reo lên:
“Dù sao đi nữa, cả nhà có nhìn thấy bộ mặt don Salvatore xớn xác như thế nào không.”
Và nó cười phá lên, một nụ cười khiến mẹ nó tái mặt. Nàng hiểu ngay ra.
“Mày phải không? Elia? Có phải mày không?” nàng hỏi, giọng run lên.
Và thằng bé lại cười cái cười cuồng dại mà các thành viên gia đình Scorta biết rất rõ. Phải. Chính nó. Dù sao cũng là một kiểu đùa quái lạ. Bộ mặt don Salvatore. Và cả làng mới hoảng loạn làm sao.
Mặt Carmela tái dại. Nàng quay về phía anh trai và nói bằng một giọng yếu lả như sắp chết:
“Em đi đây. Còn anh, hãy giết nó đi.”
Nàng đứng dậy và đóng sập cửa. Đi đến nhà Domenico, kể hết cho anh trai nghe. Về phần mình Giuseppe để cho cơn giận dâng lên trong lòng. Anh nghĩ đến những điều dân làng sẽ nói. Anh nghĩ đến nỗi nhục sẽ dồn trút lên gia đình anh. Khi cảm thấy máu trong người sôi lên, anh đứng dậy và sửa cho thằng cháu một trận như chưa một ông chú hoặc ông bác nào từng làm thế với cháu ruột. Anh đánh nó toạc mày, rách môi. Rồi anh ngồi xuống cạnh nó. Cơn giận đã xẹp, nhưng anh không cảm thấy nguôi ngoai chút nào. Một nỗi đau buồn mênh mông tràn ngập tim anh. Anh đã đánh, nhưng rốt cuộc, kết quả vẫn thế, không có lối thoát. Bấy giờ, anh bèn quay sang bộ mặt sưng vù của thằng cháu, nói:
“Đó mới là cơn giận của ông bác. Ta để mày đấy cho cơn giận của làng xóm.”
Anh đang định ra ngoài, để mặc thằng bé với số phận của nó, thì chợt nhớ ra một điều.
“Mày để những tấm mề-đay ở đâu? Anh hỏi
- Dưới gối của cháu,” Elia trả lời giữa hai tiếng nấc.
Giuseppe vào phòng thằng bé, luồn tay dưới gối, lấy chiếc túi trong đó nó giấu cái kho báu vừa đánh cắp, và đau đớn, đầu cúi gằm, cái nhìn tắt ngấm, đi thẳng đến nhà thờ. “Chí ít cũng để cho hội Thánh Elia diễn ra, anh tự nhủ. Cho dù người ta có tàn sát chúng ta vì tội đã sinh hạ một đứa vô đạo như thế, nhưng hội lễ vẫn cứ phải diễn ra.”
Giuseppe không giấu giếm gì hết. Anh đánh thức don Salvatore dậy và, không đợi cha tỉnh hẳn, chìa mớ mề-đay cho cha mà rằng:
“Don Salvatore, con mang những chiếc mề-đay của đứa Thánh lại cho cha. Con sẽ không giấu Cha ai là kẻ phạm tội, Chúa đã biết rồi. Đó là thằng cháu trai của con, Elia. Nếu nó còn sống sót sau trận đòn con vừa giáng cho nó, thì nó chỉ còn có việc an bài với Thượng Đế trước khi dân làng Monteppucio trút giận lên đầu nó. Con không xin cha gì hết. Không ân huệ. Không khoan dung. Con chỉ mang trả cho cha bộ mề-đay. Để ngày mai, lễ hội diễn ra như tất cả mọi ngày 20 tháng giêng ở Monteppucio kể từ khai thiên lập địa tới nay.”
Rồi, không đợi vị cha xứ trả lời – ông này còn đang sững sờ, nửa mừng rỡ, nhẹ nhõm như trút gánh nặng, nửa giận dữ - anh quay gót trở về nhà.
Giuseppe đã có lí khi nghĩ rằng mạng sống của cháu trai mình bị đe dọa. Không biết bằng cách nào, ngay đêm đó, tin đồn đã truyền đi rằng Elia Manuzio là kẻ ăn trộm vô đạo. Nhiều nhóm người đã tập hợp, thề sẽ cho tên vô đạo sàm sỡ một trận nhớ đời. Người ta tìm nó khắp nơi.
Khi thấy em gái đến, nước mắt đầm đìa, điều đầu tiên Domenico làm là đi tìm khẩu súng ngắn. Anh quyết tâm sẽ dùng đến nó nếu bị chặn đường. Anh đến thẳng nhà Carmela, tại đó, anh tìm thấy thằng cháu sống dở chết dở. Anh xốc nó dậy và thậm chí không lau qua mặt mũi cho nó, chất luôn nó lên lưng một con la, đưa đến một căn lều lá ở giữa những cánh đồng ô-liu của anh. Anh ném nó xuống một nệm rơm. Cho nó uống chút nước, và nhốt nó qua đêm ở đó.
Ngày hôm sau, lễ hội Thánh Elia diễn ra một cách bình thường. Không một dấu vết của những bi kịch hôm trước biểu lộ trên các gương mặt. Domenico tham gia lễ hội như thường lệ. Anh mang tượng Thánh Michele trong đám rước và nói với bất kỳ ai để tai nghe rằng thằng cháu mất giống của mình là một thằng khốn kiếp và nếu không sợ làm đổ máu của chính gia tộc mình, thì anh hẳn đã tay không giết nó. Chẳng ai nghi ngờ một giây rằng anh là người duy nhất biết Elia trốn ở đâu.
Hôm sau, những nhóm người lại tiếp tục tìm kẻ phạm tội. Buổi lễ chầu và đám rước đã có thể tiến hành, điều thiết yếu đã được cứu chữa, nhưng bây giờ vẫn còn phải trừng trị tên kẻ trộm, và trừng trị ra trò để sau này, không bao giờ lại xảy ra chuyện như thế nữa. Trong mười hôm liền, người ta truy lùng Elia. Tìm kiếm khắp mọi nơi trong làng. Domenico nửa đêm ra khỏi nhà, lén đi tiếp tế cho nó. Anh không nói gì. Hoặc rất ít. Cho nó ăn, uống. Rồi đi. Bao giờ cũng thận trọng khóa cửa lại sau lưng. Qua mười ngày, các cuộc tìm kiếm chấm dứt và làng dịu đi. Nhưng không thể nghĩ đến chuyện cho nó trở lại Monteppucio. Domenico kiếm được cho nó một chỗ ở nhà một người bạn cũ bên San Giocondo, cha của bốn người con trai làm việc đồng áng rất vất vả. Họ thỏa thuận rằng nó sẽ ở đó một năm trước khi trở về Monteppucio.
Khi mấy bộ quần áo được chất lên lưng lừa, Elia quay lại phía bác nó và nói: “Cám ơn zio [16] ”, với đôi mắt đầy ăn năn. Bác nó, thoạt đầu, chẳng trả lời gì. Mặt trời đã lên trên những trái đồi. Một vầng sáng đẹp phơn phớt hồng mơn man đỉnh đồi. Bấy giờ, anh mới quay lại nói với cháu trai những lời này mà Elia mãi mãi không bao giờ quên. Trong ánh sáng tươi đẹp của một ngày vừa ló rạng, anh thố lộ cho nó biết những gì mà anh, Domenico này coi là sự minh triết của cá nhân mình:
“Elia, con chẳng là cái gì cả, cả bác nữa cũng vậy. Chỉ có gia tộc là đáng kể. Không có gia tộc, con ắt chết và trái đất vẫn tiếp tục quay mà thậm chí chẳng nhận thấy là con đã biến mất. Chúng ta sinh ra. Chúng ta chết đi. Và trong khoảng giữa, chỉ có một điều là đáng kể. Con và bác, tách riêng ra, chúng ta chẳng là cái gì hết. Nhưng những người mang họ Scorta, dòng họ Scorta, đó là một cái gì. Chính vì thế mà bác giúp con. Chứ chẳng vì các gì khác cả. Từ nay trở đi, con mang một món nợ. Một món nợ với những người trong dòng họ. Một ngày kia, có thể là hai mươi năm nữa, con sẽ trả món nợ này. Bằng cách giúp một ai đó trong dòng họ chúng ta. Chính vì thế mà bác đã cứu con, Elia ạ. Bởi vì chúng ta sẽ cần đến khi con trở thành người tốt hơn – cũng như chúng ta cần đến mỗi một đứa con trai của chúng ta. Đừng có quên điều đó. Con chẳng là cái gì hết. Thông qua con là cái tên của dòng họ chúng ta, Scorta. Có thế thôi. Bây giờ thì đi đi. Và cầu cho Đức Chúa Lời, mẹ con và làng xóm tha thứ cho con.”
Việc anh trai phải đi biệt xứ khiến Donato đắm mình vào một nỗi buồn của sói con. Nó thôi không nói, không chơi đùa nữa. Đứng như trời trồng hàng tiếng đồng hồ giữa corso, không động đậy, và mỗi khi Carmela hỏi nó đang làm gì, nó đều trả lời trước sau như một: “Con chờ Elia.”
Sự cô đơn đột ngột ấy, chụp lên nó trong những trò chơi con trẻ, làm chao đảo thế giới của nó. Nếu Elia không có mặt, thế giới trở nên xấu xa và buồn tẻ.
Một buổi sáng, ngồi trước tách sữa, Donato nhìn mẹ bằng cặp mắt to nghiêm trang và hỏi:
“Mẹ?
- Gì con? Mẹ nó đáp.
- Nếu con ăn trộm bộ mề-đay của Thánh Michele, con có thể đến với anh Michele chứ?”
Câu hỏi làm Carmela thất kinh. Nàng há hốc miệng và vội vã đến nhà Giuseppe, kể cho anh trai nghe.
“Peppe, nàng nói thêm, anh phải để tâm đến Donato kẻo nó sẽ phạm tội mất. Hoặc giả nó sẽ chết dần chết mòn. Nó chẳng thiết ăn uống gì nữa. Mở miệng ra, nó chỉ nhắc đến anh trai. Hãy đem nó theo anh, làm sao cho nó biết mỉm miệng cười. Ai đời ở tuổi nó mà đôi mắt đã tắt ngấm vậy. Thằng bé đã uống cả nỗi buồn thế gian.”
Giuseppe làm theo yêu cầu của em gái. Ngay chiều hôm ấy, anh đến tìm thằng cháu, đem nó ra cảng, đưa lên thuyền của mình. Khi Donato hỏi đi đâu, Peppe trả lời rằng đã đến lúc nó cần hiểu một số điều.
Anh em nhà Scorta buôn lậu. Từ lâu rồi. Họ đã bắt đầu trong thời kỳ chiến tranh. Những phiếu cung cấp là một cản trở nghiêm trọng cho việc buôn bán. Việc cho bán thuốc lá với số lượng hạn chế theo đầu người là một kẽ hở đối với Carmela. Nàng bắt đầu với đám lính Anh sẵn sàng đổi vài tút thuốc lấy giăm – bông. Chỉ việc tìm ra những gã lính không nghiện hút. Thế rồi Giuseppe lo chuyện bán sang Albanie. Những con thuyền cập bến vào ban đêm, chất đầy thuốc lá ăn cắp từ các kho của Nhà nước hoặc từ những đại lý trong vùng. Những thùng thuốc lá bán chui giá rẻ hơn và cho phép duy trì một ngân quỹ thoát khỏi vòng kiểm soát của ngành thuế.
Giuseppe quyết định cho Donato làm cuộc hành trình buôn lậu đầu tiên của nó. Hai bác cháu lên đường theo nhịp mái chèo chậm rãi, hướng về vịnh Zaiana. Tại đó, một chiếc tàu nhỏ chạy bằng động cơ đang chờ họ. Giuseppe chào một người đàn ông nói tiếng Ý chưa thạo và họ chất lên thuyền mười thùng thuốc lá. Rồi trong màn đêm yên tĩnh buông xuống mặt biển, họ trở về Monteppucio. Không trao đổi với nhau một lời.
Khi về tới cảng, một điều bất ngờ xảy ra. Thằng bé Donato không muốn xuống bến, nó cứ ở lại dưới đáy thuyền, vẻ cả quyết, hai tay khoanh lại.
“Có chuyện gì thế Donato?” bác nó hỏi, vẻ tò mò thích thú.
Thằng bé nhìn anh hồi lâu rồi hỏi bằng một giọng đĩnh đạc:
“Bác vẫn thường làm cái này hả zio?
- Ừ, Giuseppe đáp.
- Và bao giờ cũng vào ban đêm?
- Ừ, bao giờ cũng vào ban đêm, ông bác trả lời.
- Vậy bác kiếm tiền bằng cách ấy à? Thằng bé hỏi.
- Phải.”
Thằng bé lại im lặng một lúc. Rồi bằng một giọng bất chấp mọi bình luận, nó tuyên bố:
“Cháu cũng vậy, cháu muốn làm cái ấy.”
Cuộc du hành đêm này đã khiến nó ngất ngây sung sướng. Tiếng sóng, bóng tối, tĩnh lặng, những thứ đó chứa đựng một cái gì huyền bí và thiêng liêng làm nó xốn xang. Những chuyến đi theo dòng nước. Bao giờ cũng vào ban đêm. Lấy hành xử bí mật làm nghề nghiệp. Nó thấy điều đó thật phi thường, đầy tự do và táo bạo.
Trên đường về nhà, xúc động vì niềm say mê của thằng cháu, Giuseppe nắm lấy hai vai nó mà rằng:
“Phải xoay xở Donato ạ. Hãy nhớ lấy điều đó. Xoay xở. Đừng có để ai bảo con rằng cái này là phi pháp, cái kia bị cấm hoặc nguy hiểm. chân lý, đó là nhiệm vụ phải nuôi sống gia đình mình, thế thôi.”
Thằng bé bâng khuâng. Đây là lần đầu tiên bác nó nói với nó như thế, bằng cái giọng nghiêm túc ấy. Nó đã lắng nghe và, không biết đáp lại với cái định luật vừa được nêu ra ấy ra sao, nó im lặng, hãnh diện thấy ông bác coi nó như một người lớn có thể trò chuyện được.
Domenico là người duy nhất gặp gỡ Elia trong thời gian một năm biệt xứ của nó. Trong khi với tất cả mọi người, việc đánh cắp bộ mề-đay của Thánh Michele giống như một cái tát trời giáng, thì đối với Domenico, đây lại là cơ hội để anh phát hiện thằng cháu mình. Có một cái gì nơi cử chỉ ấy khiến anh có thiện cảm.
Vào dịp tròn một năm vụ trộm, Domenico đến gia đình cho Elia tá túc không báo trước, hỏi gặp nó và khi nó xuất hiện, nắm lấy cánh tay nó, đưa đi dạo trong khu đồi. Hai bác cháu nói chuyện theo nhịp bước chậm rãi. Cuối cùng, Domenico quay về khía Elia và đưa cho nó một chiếc phong bì, nói:
“Elia, trong vòng một tháng nữa, nếu mọi sự êm thấm, cháu có thể trở về làng. Bác nghĩ là người ta sẽ chấp nhận cháu. Không ai còn nhắc đến tội của cháu nữa. Tinh thần mọi người đã lắng dịu. Trong một tháng nữa, nếu cháu muốn, cháu có thể lại đoàn tụ với gia đình. Nhưng bác đến đây để đề xuất với cháu một chuyện khác. Đây. Cầm lấy tiền trong phong bì này. Tiền đấy. Khá nhiều tiền. Đủ sống trong sáu tháng. Cầm lấy và đi đi. Đi đến nơi nào cháu muốn. Napoli. Roma. Hay Milano. Bác sẽ gửi thêm nếu phong bì này không đủ. Hãy hiểu bác, Elia, bác không đuổi cháu. Nhưng bác muốn cháu có chọn lựa. Cháu có thể là người đầu tiên trong dòng họ Scorta rời bỏ mảnh đất này. Cháu là người duy nhất có khả năng làm điều đó. Hành động đánh cắp của cháu chứng tỏ vậy. Cháu cả gan. Thời gian xa quê vừa rồi đã giúp cháu chín chắn. Cháu không cần gì khác nữa. Bác chưa nói với ai cả. Mẹ cháu chưa biết gì hết. Cả các bác cháu cũng vậy. Nếu cháu quyết định ra đi, bác sẽ lĩnh trách nhiệm giải thích cho họ. Bây giờ nghe đây, Elia, nghe đây, cháu còn một tháng nữa. Bác để cái phong bì lại cho cháu. Bác để cái phong bì lại cho cháu. Bác muốn cháu suy nghĩ kỹ.”
Domenico hôn lên trán thằng cháu và ghì chặt nó. Elia bàng hoàng. Những ham muốn và lo sợ chen lấn xô đẩy nhau trong nó. Nhà ga Milano. Những thành phố lớn miền Bắc bao bọc trong khói nhà máy. Cuộc sống cô đơn của kẻ tha hương. Tâm trí nó không sao vạch được lối đi trong cái mớ hình ảnh hỗn độn đó. Bác nó đã gọi nó là Scorta. Bác nó muốn nói lên điều gì nhỉ? Phải chăng chỉ đơn giản là bác quên họ thật của mình là Manuzio?
Một tháng sau, có người gõ cửa ngôi nhà đẹp của Domenico vào cái giờ mà ánh sáng ban mai bắt đầu sưởi ấm những phiến đá. Domenico ra mở cửa. Elia đứng trước mặt anh. Tươi cười. Nó chìa ngay cho anh chiếc phong bì chứa đầy tiền lộ phí.
“Cháu ở lại đây, nó nói.
- Bác đã biết mà, bác nó đáp trong một tiếng thì thầm.
- Làm sao bác biết được? Elia thắc mắc hỏi.
- Vào thời điểm này, thời tiết quá đẹp.”
Và vì Elia không hiểu, anh ra hiệu cho nó vào nhà, rót nước cho nó uống và bắt đầu giải thích: “Thời tiết đang quá đẹp. Từ một tháng nay, nắng tưng bừng. Cháu không thể dứt áo ra đi được. Khi mặt trời ngự trên bầu trời, đến độ làm đá kêu lách cách, thì chẳng thể làm gì. Chúng ta quá yêu cái đất này. Nó chẳng cho gì cả, nó còn nghèo hơn chúng ta, nhưng khi mặt trời sưởi ấm nó, không một ai trong chúng ta có thể rời xa nó. Chúng ta sinh ra từ mặt trời Elia ạ. Hơi ấm của nó, ta mang trong mình. Từ tít xa đầu nguồn trí nhớ của thể xác chúng ta, nó đã ở trong đó rồi, sưởi ấm cho là da hài nhi của chúng ta. Và chúng ta không ngừng ăn nó, nhai nó rau ráu. Nó ở đó trong những trái quả ta ăn. Những trái đào. Những trái ô-liu. Những trái cam. Đó là hương thơm của nó. Cùng với dầu gia vị mà chúng ta uống, nó chảy qua cuống họng của chúng ta. Nó ở trong chúng ta. Chúng ta là những kẻ ăn mặt trời. Bác đã biết là cháu sẽ không đi mà. Nếu những ngày qua mưa nhiều, thì có thể cháu đã đi, nhưng thế này thì không thể.”
Elia vui thích lắng nghe cái lý thuyết mà Domenico trình bày một cách có phần khoa trương ấy – như thể tỏ ra chính mình cũng chỉ tin một nửa. Domenico sung sướng. Và anh muốn nói thành lời. Đó là cách anh cảm ơn Elia đã trở về. Bấy giờ, gã trai mới lại lên tiếng:
“Cháu trở về là vì bác, zio ạ. Cháu không muốn nhận được tin bác mất qua một cú điện thoại xa lắc và khóc bác một mình trong một căn phòng ở Milano. Cháu muốn ở đây. Bên cạnh bác. Và lợi dụng bác.”
Domenico nghe cháu trai nói với một ánh buồn trong mắt. Dĩ nhiên, anh hài lòng với lựa chọn của Elia. Dĩ nhiên, trong nhiều đêm, anh đã cầu cho gã trai đừng lựa chọn sự ra đi, nhưng một cái gì đó trong tâm thức khiến anh cảm thấy sự trở về này giống như một đầu hàng. Điều đó làm anh nhớ lại thất bại ở New York. Vậy là không bao giờ một thành viên của dòng họ Scorta có thể dứt ra khỏi mảnh đất lầm than này. Không bao giờ một thành viên của dòng họ Scorta có thể thoát khỏi mặt trời vùng Pouilles. Không bao giờ.
Khi Carmela thấy con trai tới cùng với Domenico, nàng làm dấu thánh giá, tạ ơn trời. Elia đây rồi. Sau hơn một năm vắng bóng. Nó đi trên corso với bước chân quả quyết và không ai chặn đường nó. Không một tiếng rì rầm. Không một ánh nhìn dữ dằn. Không một toán đàn ông nào tập hợp sau lưng nó. Làng Monteppucio đã tha thứ.
Donato là người đầu tiên lao vào vòng tay của Elia với những tiếng reo mừng. Anh trai nó đã trở về. Nó nóng lòng muốn kể cho anh trai nó nghe những gì nó học được trong khoảng thời gian anh vắng nhà: những cuộc hành trình ban đêm trên biển, công việc buôn lậu, những chỗ cất giấu những hòm thuốc lá bất hợp pháp. Nó muốn giải thích tất cả với Elia, nhưng lúc này nó chỉ đành lặng lẽ đứng ôm ghì lấy anh trai.
Cuộc sống tiếp diễn ở Monteppucio. Elia làm việc với mẹ ở của hàng thuốc lá. Ngày nào Donato cũng xin Giuseppe cho đi cùng, đến nỗi cuối cùng, ông bác tốt bụng đâm có thói quen đem nó đi theo mỗi lần ra biển ban đêm.
Elia, hễ lúc nào có thể, đều đến với Domenico trên đất đai của ông. Người tộc trưởng họ Scorta già đi từ từ theo dòng những mùa hè. Con người thô rắn và kín đáo đã biến thành một người hiền dịu có đôi mắt xanh lơ, không thiếu một vẻ đẹp cao quý. Ông đã say mê công việc trồng ô-liu và đã thực hiện được ước mơ của mình: trở thành chủ nhân của nhiều hecta đất. Ông thích hơn tất thảy ngắm những cây cổ thụ ấy khi nhiệt độ dịu xuống và gió biển làm những chiếc lá run rẩy. Giờ ông chỉ bận bịu với những cây ô-liu của mình. Ông luôn luôn nói rằng dầu ô-liu là sự cứu rỗi của miền Nam. Nhìn cái chất lỏng ấy chảy chầm chậm từ những miệng chai, ông không nén nổi một tiếng thở dài thoải mái.
Khi Elia đến thăm ông, bao giờ ông cũng mời nó lên ngồi trên sân thượng. Ông gọi người mang đến mấy lát bánh mì trắng và một cút dầu ô-liu tự tay ông chế và hai bác cháu trầm ngâm thưởng thức thứ mật cây tuyệt vời đó.
“Đó là vàng đấy, ông bác nói. Những kẻ bảo chúng ta nghèo là chưa bao giờ nếm một mẩu bánh mì chấm dầu ô-liu quê ta. Thật cứ như ngoạm cả vùng đồi ở đây vào mồm. Có mùi đá và mùi nắng. Nó lấp lánh. Đẹp, sánh và đặc. Dầu ô-liu là màu của đất quê ta. Và những kẻ coi chúng ta là đồ nhà quê lấm đít hãy thử nhìn dòng máu đó chảy trong chúng ta. Nó êm dịu và đại lượng. Bởi vì chúng ta vốn là thế: những người nhà quê mang dòng máu thuần khiết. Những gã khốn khổ mặt hằn sâu nắng gió, bàn tay chai sạn nhưng cái nhìn thẳng thắng ngay thật. Cháu hãy nhìn sự khô hạn của mảnh đất quanh chúng ta đây và thưởng thức sự giàu có của chất dầu này. Giữa hai cái đó có lao động của con người. Và nó, dầu của chúng ta, có cả cái mùi ấy. Mùi mồ hôi của nhân dân chúng ta. Những bàn tay phụ nữ hái quả đến chai sần. Phải. Và điều đó thật cao quý. Chính vì thế mà dầu của chúng ta tốt thế. Có thể chúng ta là những kẻ nghèo khó, dốt nát, nhưng nhờ làm ra dầu từ đá, làm ra rất nhiều từ chút xíu, chúng ta đã được cứu. Chúa biết công nhận sự nỗ lực. Và dầu ô-liu của chúng ta sẽ biện hộ cho chúng ta.”
Elia không trả lời gì. Nhưng cái sân thượng ngự giữa khu đồi này, cái sân thượng mà bác nó thích lên ngồi chơi là nơi duy nhất ở đó nó cảm thấy được sống. Nơi đây, nó thở hít thoải mái.
Domenico ngày càng ít xuống làng. Ông thích ngồi trên một chiếc ghế tựa giữa đám cây của mình và cứ ngồi thế dưới bóng cây ô-liu ngắm bầu trời thay đổi màu sắc. Nhưng có một cuộc hẹn mà ông không muốn bỏ lỡ vì bất cứ lý do gì. Tất cả những chiều hè, vào bảy giờ, ông đến gặp hai em trai, Raffaele và Giuseppe trên corso. Họ ngồi ở hàng hiên một tiệm cà-phê, bao giờ cũng vẫn tiệm ấy, Da Pizzone, nơi chiếc bàn dành riêng luôn chờ họ. Peppino, chủ tiệm cà-phê, đến ngồi cùng và họ bắt đầu chơi bài. Từ bảy giờ đến chín giờ. Những ván bài ấy là cuộc hẹn hò thiêng liêng của họ. Họ nhấm nháp một li San Bitter hoặc một loại rượu ác-ti-sô và vừa xuống bài vừa vỗ xuống mặt bàn gỗ trong tiếng reo cười. Họ gầm rú. Gọi nhau bằng đủ mọi thứ tên. Nguyền rủa trời mỗi khi thua hoặc chúc phúc Thánh Elia và Đức Mẹ khi đang vận đỏ. Họ khích nhau nhẹ nhàng, trêu chọc người kém may mắn, vỗ vào lưng nhau bồm bộp. Họ thả hết mình vào niềm hạnh phúc của họ. Phải. Trong khoảnh khắc đó họ chẳng thiếu gì hết. Peppino mang đồ uống lại mỗi khi các li cạn hết. Thông báo một vài tin tức trong làng. Giuseppe hô bọn nhóc trong khu phố, tất cả bọn chúng đều gọi ông bằng “zio” vì bao giờ gặp, ông cũng cho chúng một đồng tiền lẻ để mua hạt anh đào nướng. Họ chơi bài và thời gian không còn tồn tại. Họ ngồi đó, trên hàng hiên này, trong êm dịu tuyệt vời của những chiều hè, nơi quê nhà. Và mọi cái khác đều không đáng kể.
Một ngày tháng sáu, không thấy Domenico đến Da Pizzone vào lúc bảy giờ. Người ta chờ một lúc. Vô công. Raffaele và Giuseppe cảm thấy có một chuyện gì nghiêm trọng vừa xảy ra. Họ vội vã đến cửa hàng thuốc lá hỏi xem Elia có thấy bác nó đâu không. Không hề. Họ vội chạy tới trang trại, đinh ninh trong huyết mạch rằng chẳng mấy chốc họ sẽ phải đối mặt với điều xấu nhất. Họ tìm thấy ông anh ngồi trên chiếc ghế tựa của mình giữa đám cây ô-liu, hai tay buông thõng, đầu gục xuống ngực, mũ rớt xuống đất. Chết rồi. Một cách bình yên. Một làn gió ấm áp hất nhẹ những món tóc của ông. Những cây ô-liu xung quanh che nắng cho ông và bao bọc ông trong tiếng lá rì rào.
“Từ khi Mimi mất mình không ngừng nghĩ về một điều.”
Giuseppe nói khẽ, không ngước mắt lên. Raffaele nhìn ông ta, chờ xem câu tiếp theo có đến không, rồi nhận thấy Giuseppe không nói tiếp, ông nhẹ nhàng hỏi:
“Về điều gì?”
Giuseppe vẫn lưỡng lự, nhưng rồi cuối cùng, cũng trút vợi nỗi niềm:
“Có khi nào chúng ta đã từng hạnh phúc?”
Raffaele nhìn người anh em với một vẻ thương cảm. Cái chết của Domenico đã lay chuyển Giuseppe một cách bất ngờ. Từ sau đám tang, ông đã già đi một cách đột ngột, mất hẳn cái vẻ bầu bĩnh vốn có, khiến ông luôn có phong thái thanh niên, ngay cả khi đã đứng tuổi. Cái chết của Domenico đã báo hiệu sự ra đi và Giuseppe từ nay đã sẵn sàng, linh cảm thấy rằng người tiếp theo sẽ là mình. Raffaele hỏi vặn lại:
“Thế thì sao? Cậu trả lời câu hỏi ấy thế nào?”
Giuseppe im lặng như thể ông có một tội ác cần thú nhận. Ông có vẻ lưỡng lự.
“Thế đấy, chính thế, ông rụt rè nói. Mình đã suy nghĩ, mình đã thử thống kê những khoảnh khắc hạnh phúc mà mình đã từng nếm trải.
- Ờ. Nhiều. Rốt cục mình nghĩ thế. Cũng đủ. Ngày hôm mua được cửa hàng thuốc lá. Ngày Vittoria ra đời. Đám cưới của mình. Các cháu trai, cháu gái của mình. Phải. Có đấy.”
- Vậy cớ sao cậu lại có vẻ buồn?
- Bởi vì khi mình thử chỉ lưu lại một khoảnh khắc, cái kỷ niệm sung sướng nhất trong tất cả, cậu có biết sự việc nào luôn trở lại trong tâm trí mình hay không?
- Không.
- Cái ngày cậu mời tất cả bọn mình đến trabucco lần đầu ấy. chính cái kỷ niệm ấy choán ngợp mình. Cái bữa tiệc ấy. Chúng mình đã ăn uống như những người tột vời hạnh phúc.
- Pancia piena [17] ? Raffaele cười hỏi.
- Ừ, Pancia piena, Giuseppe nhắc lại, nước mắt lưng tròng.
- Chuyện ấy thì có gì mà buồn?
- Cậu sẽ nói gì, Giuseppe đáp, về một gã đàn ông sắp xuống lỗ tuyên bố rằng ngày hạnh phúc nhất đời mình được đánh dấu bằng một bữa ăn? Phải chăng không có những niềm vui lớn trong một đời người? Đó chẳng phải dấu hiệu của một cuộc đời khốn khổ sao? Liệu mình có nên lấy thế làm xấu hổ không? Và tại sao – mình cam đoan với cậu thế - hễ mình suy nghĩ đến điều này thì cái kỷ niệm đó lại ập đến không cưỡng được. Mình nhớ từng chi tiết. Có món cơm hải sản Ý tan ra trong miệng. Giuseppina của cậu mặc chiếc áo màu xanh da trời. Chị ấy đẹp như thiên thần và tất cả chạy lui chạy tới từ bếp đến bàn ăn, không ngừng. Mình nhớ cậu đứng ở bếp lò, mồ hôi đầm đìa như gã thợ mỏ dưới hầm lò. Và tiếng cá xèo xèo trên vỉ nướng. Cậu thấy đấy. Sau cả một đời, đó là kỷ niệm đẹp nhất trong tất cả. Đủ thấy mình là kẻ khốn khổ nhất trên đời, chẳng phải thế sao?”
Raffaele dịu dàng lắng nghe. Giọng của Giuseppe lam ông sống lại bữa ăn đó. Ông cũng thấy lại cuộc quần hội của gia đình Scorta. Những món ăn được truyền từ tay này sang tay khác. Niềm hạnh phúc được cùng nhau ăn uống.
“Không, Peppe, ông nói với người anh em kết nghĩa, cậu có lý. Ai có thể khoe là đã từng biết đến một hạnh phúc như thế? Không nhiều lắm đâu. Và cớ sao lại phải coi rẻ nó? Vì chúng ta ăn nhậu ư? Vì có mùi thịt rán và áo sơ-mi của chúng ta lấm tấm vết xốt cà chua ư? Sung sướng thay những ai từng được biết những bữa ăn như vậy. Chúng mình đã quần tụ bên nhau. Chúng mình đã ăn uống, bàn cãi, la, cười như những con người. Cánh sát cánh. Đó là những khoảnh khắc quý giá, Peppe ạ. Cậu có lý, và mình sẵn sàng đổi với giá đắt để lại được hưởng cái mùi vị ấy một lần nữa. Lại được nghe những nhịp cười mạnh mẽ của các cậu trong mùi lá nguyệt quế nướng…”
Domenico là người đầu tiên ra đi, nhưng Giuseppe cũng không sống lâu hơn ông mấy. Năm sau, ông ngã một cú trời giáng trên những bậc cầu thang ở khu làng cũ và bất tỉnh nhân sự. Bệnh viện duy nhất của vùng Gargano ở San Giovanni Rotondo, cách Monteppucio hai giờ đi đường. Giuseppe được đưa lên một chiếc xe cấp cứu và xe rú còi lao đi trên những đường đồi núi. Những giây phút trôi chậm như một lưỡi dao lướt trên da thịt. Giuseppe yếu dần. Sau bốn mươi phút trên đường, chiếc xe cứu thương vẫn chỉ như một chấm nhỏ giữa mênh mông biển đá. Bấy giờ, Giuseppe bỗng có một khoảnh khắc hồi phục và tỉnh táo. Ông quay về phía người y tá và nói với sự cương quyết của những kẻ hấp hối:
“Trong vòng nửa tiếng nữa, tôi sẽ chết. Chú biết đấy. Nửa tiếng. Tôi sẽ không trụ được lâu hơn. Chúng ta không đủ thời gian đến bệnh viện đâu. Vậy thì hãy quay lui và phóng hết tốc lực. Chú hãy còn đủ thì giờ để trả tôi về làng tôi. Tôi muốn chết tại đó.”
Hai người y tá xem đó là ý nguyện cuối cùng của ông và làm theo. Trong mênh mông khô cằn của đồi núi, chiếc xe quay đầu và lại phóng như điên về phía Monteppucio, còi rú liên hồi. Đến đích vừa kịp. Giuseppe có niềm thỏa mãn được chết ở quảng trường chính, giữa những người thân sửng sốt thấy chiếc xe cấp cứu quay trở lại, thúc thủ trước cái chết.
Carmela để tang một cách dứt khoát. Điều mà bà chưa làm đối với chồng thì bà làm đối với các anh trai. Raffaele đau buồn không cách gì an ủi nổi. Như bị chặt đứt những ngón tay. Ông tha thẩn trong làng, chẳng biết làm gì với bản thân mình. Ông chỉ nghĩ đến những người anh em kết nghĩa của mình. Hôm nào ông cũng trở lại tiệm cà-phê Da Pizzone và nói với ông bạn chủ tiệm:
“Ta phải mau mau tìm gặp lại họ, Peppino ạ. Cả hai cậu ấy đang ở đó, cả hai chúng ta đang ở đây, thành thử chẳng ai chơi bài được.”
Ngày nào ông cũng đến nghĩa trang, ở đó ông nói chuyện hàng giờ với những cái bong. Một hôm, ông đưa cháu mình, Elia, đến, và trước mộ của hai ông bác, ông quyết định nói. Từ lâu, ông đã trì hoãn cái giây phút phải làm điều này vì ông cảm thấy mình vốn không hề đi đây đi đó nên chẳng có gì để dạy bảo ai cả. Nhưng ông đã hứa. Thời gian qua đi và ông không muốn mình chết mà không giữ lời. Vậy nên trước mộ của hai ông bác kia, ông đặt tay lên gáy của Elia và nói với anh:
“Chúng ta xưa nay không tốt hơn cũng chẳng xấu hơn những người khác, Elia ạ. Chúng ta đã cố gắng. Có thế thôi. Bằng tất cả sức lực của mình, chúng ta đã cố gắng. Mỗi một thế hệ đều cố gắng. Xây dựng một cái gì đó. Củng cố những gì vốn có. Hoặc làm cho nó lớn hơn. Chăm lo cho người than. Mỗi người đều cố gắng làm tốt nhất. Không thể làm gì khác ngoài cố gắng. Nhưng không nên chờ đợi gì ở nơi cuối đường. Cháu có biết cái gì chờ đợi ở nơi cuối đường không? Tuổi già. Không có gì khác. Vậy nên, nghe đây Elia, hãy lắng nghe ông bác già faelucc’ thất học và mít đặc của cháu nhé. Phải biết tận hưởng mồ hôi. Bác nói thế đấy. Bởi vì đó là những khoảnh khắc đẹp nhất trong đời. Khi anh chiến đấu vì một cái gì, khi anh làm việc ngày đêm như một tội đồ và không có thì giờ để gặp vợ, gặp con, khi anh đổ mồ hôi để xây dựng những gì anh ao ước, là anh đang sống những khoảnh khắc đẹp nhất của đời anh. Hãy tin bác. Đối với mẹ cháu, các bác của cháu và bản thân bác đây, không có gì quý giá bằng những năm tháng bọn ta chẳng có gì hết, không xu dính túi, khi bọn ta chiến đấu để có được cửa hàng thuốc lá. Đó là những năm tháng gian khổ. Nhưng đối với mỗi người trong bọn ta, đó là những khoảnh khắc đẹp nhất trong đời. Xây dựng tất cả từ đầu với cơi đói thèm của sư tử. Phải tận hưởng mồ hôi Elia ạ. Hãy nhớ lấy điều đó. Rồi sau, mọi sự sẽ kết thúc rất chóng vánh, hãy tin lời bác.”
Raffaele rơm rớm nước mắt. Nói về hai người anh em và về những năm tháng ngời ngời khi họ sống trong sự chia sẻ tất thảy, khiến ông xốn xang như một đứa trẻ.
“Bác khóc à? Elia hỏi, rất cảm kích khi thấy ông bác trong trạng thái xúc động như vậy.
- Ừ, amore di zio [18] , Raffaele đáp, nhưng vậy là tốt. Hãy tin lời bác. Vậy là tốt.”
Don Salvatore, con đã thưa với cha, con có một món nợ với các anh trai con. Một món nợ khổng lồ. Con biết phải mất nhiều năm mới trả xong. Có lẽ cả đời con cũng nên. Con chả cần. Có lẽ đó như là một bổn phận. Nhưng điều con không ngờ là một ngày nào đó, con có thể không muốn trả nữa. Con đã thề với mình là sẽ cho họ tất cả. Làm việc suốt đời và tặng họ những gì con tích lũy được. Con nợ họ điều đó. Con đã thề sẽ làm một người em gái. Suốt cuộc đời con. Cuộc hôn nhân của con cũng không mảy may làm thay đổi điều đó. Bằng chứng là khi nghe tin con chết, mọi người sẽ không nói là: “Bà góa Manuzio đã từ trần.” Không ai biết bà góa Manuzio là ai. Họ sẽ nói: “Em gái nhà Scorta đã chết.” Tất cả mọi người sẽ hiểu đó là con, Carmela. Con lấy thế làm sung sướng. Con là thế đấy. Xưa nay vốn là thế. Một đứa em gái của các anh con. Antonio Manuzio đã cho con cái họ của anh ấy nhưng con không muốn nhận. Nói vậy có đáng xấu hổ không nhỉ? Con không bao giờ thôi là người của dòng họ Scorta. Antonio chỉ đi qua đời con thôi.
Con chỉ biết đến hạnh phúc khi có các anh trai con xung quanh. Cả ba anh. Khi ở bên nhau, bọn con có thể ăn cả thế gian. Con những tưởng điều đó sẽ tiếp tục đến cùng. Con đã tự dối mình. Cuộc sống tiếp diễn và thời gian đã làm thay đổi mọi sự, từ lúc nào không hay. Nó đã biến con thành một người mẹ.
Tất cả bọn con đều đã có con cái. Tộc đoàn đã phát triển. Con đã không thấy rằng điều đó làm thay đổi tất cả. Các con trai con ra đời. Con đã làm mẹ. Và từ ngày ấy, con trở thành một con sói cái. Như tất cả những người mẹ. Những gì con xây dựng đều vì chúng. Những gì con tích lũy đều để cho Elia và Donato. Một con sói cái, don Salvatore. Chỉ nghĩ đến con mình và hễ ai đến gần là cắn. Con có một món nợ còn nguyên chưa trả. Nếu muốn trả cho các anh, con ắt phải lấy đi phần của các con trai con. Ai đành lòng làm thế? Con đã làm như tất cả các bà mẹ. Con đã quên món nợ của mình và con đã chiến đấu vì bầy con của mình. Nhìn mắt cha, con thấy là cha hồ như thể tất cho con. Thực tế, đó là điều các bà mẹ đều làm, cha tự nhủ, và dành tất cả cho con cái là lẽ thường. Con đã làm hại các anh con. Don Salvatore, chính con đã ngăn trở họ đạt tới cuộc sống mà họ mong ước. Chính con đã lôi kéo họ trở lại mảnh đất miền Nam cằn cỗi này. Món nợ ấy, con không có quyền quên. Kể cả vì các con con.
Domenico, Giuseppe và Raffaele, con đã yêu những con người ấy. Con là em gái họ, don Salvatore. Nhưng là đứa em gái chỉ phô với các anh trai mình bộ mặt xấu của vận đen.
[16] Tiếng Italia: chú, bác, cậu.
[17] Tiếng Italia: no căng bụng
[18] Tiếng Italia: cháu yêu của bác.