TÓM TẮT PHẦN THỨ NHẤT
Mấy chương sách trên giắt chúng ta đến những kết luận dưới đây:
1) Văn học là một hình thái ý thức xã hội thuộc vào thượng tầng kiến trúc. Nó bị cơ cấu kinh tế của xã hội chi phối chặt chẽ, xét đến cùng. Trong các xã hội có giai cấp, sự chi phối này phải thông qua đấu tranh giai cấp, tâm lý giai cấp và nhiều nhân tố môi giới khác biểu thị giai cấp đấu tranh và tâm lý giai cấp.
«Kinh tế không tự động đẻ ra thượng tầng kiến trúc, vì thượng tầng kiến trúc là do sự hoạt động của người ta, do đấu tranh giai cấp cấu tạo ra trên cơ sở những quan hệ kinh tế nhất định. Kinh tế chỉ quy định phương hướng phát triển có quy luật của thượng tầng kiến trúc chính trị và pháp lý cùng các hình thái ý thức xã hội trong một thời đại». (Kammari)
2) Tuy bị hạ tầng cơ sở của xã hội quy định, văn học vẫn có một sinh tồn và một lịch sử tương đối độc lập. Trong những điều kiện nhất định, từng yếu tố của nó có thể mâu thuẫn với hạ tầng cơ sở. Nhiều yếu tố của nó có khả năng sống lâu dài hơn cơ sở kinh tế đã sản sinh ra nó.
« Trong lãnh vực nghệ thuật, nhiều thời kỳ phồn thịnh nhất định không có quan hệ gì với tình hình phát triển chung của xã hội, do đó, với cơ sở vật chất là cái bộ cốt của xã hội… Nghệ thuật Hy lạp cổ và loại sử thi Hy lạp… hiện nay vẫn thỏa mãn được mỹ cảm của chúng ta và, ở một phương diện nào, vẫn được coi là tiêu chuẩn kiểu mẫu chưa ai bắt chước được». (K.Marx)
(…) pháp có một thần thái riêng biểu lộ cốt cách cảm nghĩ độc đáo của nhà văn ấy. Những trường hợp «ý tại ngôn ngoại», «có tức là không, không tức là có», khen mà là chê, chê mà là khen, được nghĩa là thua, thua nghĩa là được, v.v… biến hóa khôn lường… càng chứng tỏ ngôn ngữ văn học có một cách biểu hiện cuộc sống thật là loại biệt không giống với bất kỳ hoạt động tinh thần nào của con người. Cho nên, phê bình văn học không thể dùng óc kỷ hà mà phải dùng óc tinh diệu là vì thế.
7) Hoạt động văn học chủ yếu là sáng tạo tác phẩm văn học. Nhưng sáng tạo các tác phẩm văn học không phải là tất cả hoạt động văn học. Công trình sáng tạo thể hiện được là nhờ nhiều nhân tố khác và bị lệ thuộc vào những nhân tố này. Những cơ sở và phương tiện vật chất để thể hiện tác phẩm, những điều kiện sinh hoạt và làm việc của nhà văn, khí hậu tâm lý của thời đại, ảnh hưởng của chính sách thống trị, sức ủng hộ hay phản đối của độc giả, những cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các văn phái mâu thuẫn nhau, tình hình phát triển của các loại văn, trình độ của ngôn ngữ dân tộc: tất cả những nhân tố ấy cùng với thiên tài văn học (nhà văn) tác động hỗ tương với nhau, quy định nhau, thúc đẩy nhau, phá hủy nhau một cách biện chứng – tất cả còn chịu áp lực của các yếu tố thượng tầng kiến trúc khác và của hạ tầng cơ sở – tổng hợp lại thành một quá trình văn học sinh động có tính hệ thống, có lô gíc nội tại, có hướng và quy luật phát triển, mệnh danh là đời sống văn học. Khảo sát lịch sử văn học tức là khảo sát đời sống văn học qua thời gian với tất cả tính phức tạp của nó.
*
Những quan điểm lý giải văn học và văn học sử trình bầy trên đây quyết định phương pháp nghiên cứu và biên soạn lịch sử văn học, đồng thời đề ra những tiêu chuẩn để tìm hiểu và đánh giá đúng các sự kiện văn học sử (tác giả, tác phẩm, trào lưu văn học, văn phái…)
Với những quan điểm ấy, chúng ta sẽ tránh được phương pháp xã hội học dung tục trong khi tìm hiểu mối quan hệ mật thiết nhưng không trực tiếp giữa văn học và quá trình diễn biến của cơ cấu kinh tế xã hội. Chúng ta sẽ tự ngừa được cái xu hướng phân chia các thời kỳ văn học sử rập theo đúng các thời kỳ chính trị sử, kinh tế sử của xã hội; chúng ta sẽ chú trọng đúng mức đến quá trình phát triển của bản thân đời sống văn học tương đối độc lập đối với quá trình phát triển xã hội nói chung. Chúng ta sẽ chú ý đến tính kế thừa của sự phát triển văn học, đến tác dụng của truyền thống văn học (về tư tưởng, về chủ đề, về kỹ thuật, về ngôn ngữ) đối với từng thế hệ nhà văn, từng tác gia văn học. Chúng ta sẽ đi sâu vào thực trạng đối kháng nội tại của đời sống văn học ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhận rõ được bộ phận nào bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và hạ tầng cơ sở, bộ phận nào chống đối lại giai cấp thống trị và phá hủy hạ tầng cơ sở; chúng ta sẽ lưu tâm nghiên cứu kỹ khí hậu văn học của từng thời kỳ – đặc biệt là những cuộc đấu tranh tư tưởng – và do đó đặt đúng tác gia, tác phẩm vào môi trường lịch sử của nó. Chúng ta sẽ cắt nghĩa sự xuất hiện, sự biến hóa, sự suy vong của từng loại văn, từng lưu phái văn học, từng phong trào văn học, đồng thời xác định vai trò lịch sử của các sự kiện ấy. Chúng ta sẽ đặc biệt chú ý đến tính loại biệt của sáng tác văn học (phương pháp sáng tạo hình tượng nghệ thuật, cách vận dụng ngôn ngữ) khi nghiên cứu chân tướng và giá trị một nhà văn, phân tích tác phẩm một cách cụ thể, tránh được lối phê phán nông cạn, sốc nổi hàm hồ của những người quen thói «chỉ bình giá những ý định của nhà nghệ thuật chứ không bình giá cái mà nhà nghệ thuật đã sáng tạo ra», hoặc nói như một nhà bình luận Trung-quốc hiện đại, «nhặt được da lông, bỏ mất gân cốt».
Chúng ta sẽ phải khám phá cái đặc tính có một không hai của từng tài năng văn học, từng tác phẩm văn học với tất cả những mâu thuẫn phức tạp cấu thành tài năng ấy, tác phẩm ấy. Chúng ta sẽ tìm đến giai cấp tính, dân tộc tính, thời đại tính, nhân loại tính của nó và phần đóng góp của nó đối với lịch sử văn học, đối với sự tiến bộ chung của xã hội.
Có như vậy, công việc nghiên cứu và biên tập văn học sử mới trở thành được một bộ môn khoa học. Có như vậy, phương pháp văn học sử mới đạt được yêu cầu tối đa của nó, là qua những hiện tượng và biến cố văn học chủ yếu, khôi phục lại có hệ thống toàn diện quá trình xuất hiện, hình thành và phát triển của đời sống văn học, do đó làm nổi bật được những quy luật khách quan chi phối quá trình ấy.