← Quay lại trang sách

Chương THỨ NHẤT VĂN HỌC HÁN VIỆT CÓ PHẢI LÀ VĂN HỌC DÂN TỘC KHÔNG?

Vấn đề này đã nhiều nhà bình luận văn học bàn đến (trong tập san Văn, Sử, Địa những số 5, 6, 7, 10, 11, 14, 15, 16, 17, 19, 20, 23). Người đầu tiên đặt vấn đề là ông Trần đức Thảo. Ông viết:

«Một bài viết bằng Hán văn có thuộc về văn học Việt-nam hay không, đó là một vấn đề phức tạp; muốn giải đáp, phải đi sâu vào định nghĩa và quan niệm văn học nói chung: vì một mặt thì ngôn ngữ là yếu tố căn bản để định nghĩa một nền văn học dân tộc, nhưng một mặt khác, đấy không phải là một yếu tố độc nhất; và xét đến nội dung thì nếu không nhận bài Hịch của Trần Hưng Đạo vào văn học Việt-nam thì cũng khó lòng mà đưa nó vào văn học Trung-hoa… Dù có được kể vào văn học Việt-nam hay không, bài ấy cũng đánh dấu một bước quyết định trong công cuộc xây dựng tinh thần dân tộc phản ánh một thời đại vinh quang trong lịch sử Việt-nam. Vậy chúng ta hãy nhận đấy là một tác phẩm thiên tài của văn hóa dân tộc …» 45

Trong bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam của nhóm Lê Quí Đôn mới xuất bản gần đây, ở phần mở đầu, một trong những biên tập viên là ông Trương Chính, đã khẳng định dứt khoát:

«Chúng tôi không coi các thơ văn viết bằng chữ Hán của ta là những tác phẩm văn học thuần túy dân tộc, bởi vì theo ý chúng tôi chỉ có tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc mới hoàn toàn là những tác phẩm dân tộc.

« Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận một sự thực lịch sử là có một thời gian rất lâu, cha ông chúng ta dùng chữ Hán để diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình. Trong những thời kỳ đó của lịch sử, chữ Hán được xem như là văn tự chính thống của dân tộc và những tác phẩm chữ Hán là những tác phẩm chúng ta viết để cho chúng ta xem và đã có tác động đến đời sống tinh thần của nhân dân , đến cuộc đấu tranh của dân tộc. Những tác phẩm đó cũng soi sáng cho chúng ta thấy đời sống tình cảm, vật chất và tinh thần của dân tộc, của các tầng lớ p nhân dân, qua các thời đại. Vì vậy cho nên chúng tôi cũng sẽ giới thiệu sơ lược những tác phẩm ấy trong những bài khái luận về văn học chữ Hán mà chúng tôi sẽ đặt vào phần phụ ở cuối mỗi thời kỳ. Chúng tôi sẽ chú trọng về nội dung tư tưởng mà không đi sâu vào hình thức nghệ thuật». 46

Lại có một quan điểm hoàn toàn ngược lại với quan điểm của nhóm Lê Quí Đôn; đó là quan điểm của ông Lê Tùng Sơn cho rằng:

« V ăn học chữ Hán cũng là tiếng nói Việt-nam vì do người Việt-nam viết với sự suy nghĩ Việt-nam để diễn đạt sự việc Việt-nam. Tiếng nói là vật vô hình, vì hồi đó Việt-nam chưa có văn tự nên tác giả phải mượn công cụ tiếng nói Trung-quốc để ghi lấy thì sao lại không thể nói cái đã ghi đó không phải tiếng nói Việt-nam? Ví dụ người thợ Việt-nam thiếu công cụ phải mượn cái đục cái tràng của người Trung-quốc chạm trổ thành con giống con má i Việt-nam thì nhất định vật đó là của người Việt-nam. Văn học chữ Hán do người Việt viết cũng là một trong những quan niệm hình thái do hạ tầng cơ sở xã hội phong kiến Việt-nam quyết định. Trên lịch sử xã hội Việt-nam đã có xã hội phong kiến, đã có văn học chữ Hán thì văn học chữ Hán ấy phải được thừa nhận là văn học Việt-nam. Đứng trên quan điểm dân tộc đại chúng của văn học ngày nay, phê phán văn học chữ Hán do người Việt viết không dân tộc , không đại chúng tức là chúng ta đã không dân tộc, không đại chúng…» 47

Đó là ba quan điểm giải quyết vấn đề hiện nay vẫn tồn tại. Theo ý chúng tôi, muốn giải quyết vấn đề, cần chú ý đến những điểm sau đây:

I. VĂN HỌC HÁN VIỆT LÀ MỘT BỘ PHẬN QUAN TRỌNG CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VIỆT-NAM THỜI PHONG KIẾN

Đặc biệt trong một thời kỳ lịch sử dài ba thế kỷ (XI, XII, XIII), nó là tiếng nói văn học độc nhất của giai cấp phong kiến; mà thời kỳ này giai cấp phong kiến lại đang đóng một vai trò tiến bộ, quyền lợi của nó đang phù hợp với quyền lợi dân tộc. Phá Tống, bình Chiêm, kháng Nguyên, đuổi Minh, xây dựng Nhà nước phong kiến dân tộc, làm phát triển sức sản xuất nông nghiệp: công cuộc bảo vệ độc lập và kiến thiết quốc gia của giai cấp phong kiến được toàn thể nhân dân ủng hộ, tham gia. Văn học Hán Việt đã có tác dụng đào luyện tinh thần dân tộc, nung nấu ý chí tự cường cho các tầng lớp nhân dân; đồng thời, nó đã phản ánh những giai đoạn vinh quang trong lịch sử Việt-nam, ghi lại những nét sinh hoạt vật chất, tình cảm, tư tưởng của nhân dân cần lao và anh dũng. Nó là « văn học gọt gi ũa » – «văn học ở hình thái quan niệm» như Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói – « đầu tiên của dân tộc Việt-nam » . Nó cũng là cơ sở xuất phát của truyền thống văn học gọt giũa dân tộc sau này. Không kể cái nội dung giá trị của nó đã thành một di sản tinh thần bất diệt của nhân dân Việt-nam, ngay cả đến những hình thức văn học (các loại thơ bát cú, ngũ ngôn, tứ tuyệt; phú, hịch, v.v…) mà nó vận dụng để diễn đạt tư tưởng và tình cảm, sau này, cũng được chuyển hóa vào sự sáng tác văn học Nôm và nghiễm nhiên thành những hình thức văn học hoàn toàn dân tộc. Hơn nữa, nó lại còn chở vào đời sống trí tuệ của dân tộc những hình tượng, khái niệm, lối nói… dùng để tư tưởng và cảm xúc, làm giầu khả năng nghĩ, hiểu, nói Việt-nam không phải ít. Khi ta thấy người bình dân Việt-nam, trong ca dao, dùng đến và coi như của chính mình những khái niệm «má hồng bạc mệnh», «duyện nợ ba sinh»… những hình tượng «ông Tơ bà Nguyệt», «chim sa cá lặn», «gỡ mối tơ hồng», «trúc nhớ mai đi tìm», «sớm đào tối mận»… – những khái niệm và hình tượng này rất nhiều – ta không thể nào quên biết ơn những thế hệ nhà văn «khai sơn phá thạch» của dân tộc ở những thế kỷ XI, XII, XIII đã có công đem vào đời sống trí thức Việt-nam những công cụ tinh thần ấy để bồi dưỡng khả năng suy luận, nhận thức và cảm xúc của dân tộc.

Sở dĩ có được sự tác dụng to tát ấy là bởi, do những điều kiện lịch sử đặc biệt, hai dân tộc Hán và Việt, trong một thời gian nhất định, đã quan hệ vô cùng mật thiết với nhau về mặt văn hóa.

Thứ nhất: khi nước ta bị Hán đô hộ thì trình độ kinh tế, chính trị, văn hóa của ta kém hẳn trình độ Trung-quốc; vì vậy, nhân dân Việt-nam hấp thụ văn hóa Trung-quốc rất nhanh chóng và sâu xa. Ngay những tiếng dùng hàng ngày của ta cũng phải mượn của tiếng Trung-quốc, tính ra đến già phần nửa. Thông qua từ ngữ, những cách cảm nghĩ và phô diễn Trung-quốc xâm nhập vào đời sống trí thức Việt-nam và in vào đó những dấu vết quyết định. Sự ảnh hưởng này mạnh đến nỗi, mãi mãi về sau, từ ngữ Trung-quốc vào ngôn ngữ Việt-nam với quy luật riêng của nó (tiếng dùng để bổ nghĩa đặt trước tiếng được bổ nghĩa) mà người Việt-nam cũng không thấy cần phải Việt hóa đi theo quy luật ngôn ngữ của mình. Đến tận thời cận đại, chúng ta cũng vẫn nói: hỏa xa, thế giới sử, Quốc dân đảng, Đông dương đại hội, duy vật luận, vô sản chuyên chính, Đồng minh hội, nhân sinh quan, luyến ái quan, cảm tử quân, văn học khái luận, v.v… và cho như thế là tự nhiên không có gì vướng mắc cả.

Thứ hai: Suốt thời kỳ đầu của cuộc bảo hộ (đặc biệt, những thế kỷ I, II, III, IV, V) dân tộc Việt-nam, chưa thành hình; tinh thần dân tộc mới ở trạng thái manh nha (mặc dầu bộ máy cai trị của thực dân tạo ra một thống nhất bề ngoài, thực chất của xã hội Việt-nam vẫn là phân tán triệt để về kinh tế). Do đó, sự vay mượn văn hóa Hán tộc, đối với người Việt-nam ở các thế kỷ đầu Bắc thuộc, không gặp sức cản trở trong bản thân ý thức người Việt-nam. Chỉ khi nào tinh thần dân tộc đã thành hình và đã mạnh mẽ cứng cỏi thì sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai mới bị chọn lọc, chế biến và giới hạn. Trong một bài luận về ngôn ngữ Anh, ông Paul Meier có nhận xét về sự ảnh hưởng của tiếng Norman (tiếng của ngoại tộc đô hộ) đối với tiếng Saxon (tiếng của dân bị đô hộ) như sau:

« Ở các bực thang xã hội, giữa kẻ thắng trận và kẻ bại trận không có gì ngăn cách cả; họ sống hòa hợp với nhau; …không có gì kháng cự lại sự làm giầu ngôn ngữ Anh bằng cách vay mượn từ ngữ của kẻ xâm lược… Trong nước Anh thế kỷ XI, không có tinh thần dân tộc, không có thống nhất dân tộc khả dĩ tạo nên sự ngăn cách giữa hai nhân dân ( N orman và S axon)… Có biết rõ những điều kiện ấy mới hiểu được tại sao ngôn ngữ của dân bị đô hộ lại thu hút từ ngữ của dân thắng trận nhiều đến thế, biết những điều kiện ấy thì thấy sự thu hút ấy hoàn toàn là dễ hiểu và bình thường… Sự kiện nào đã duy trì và tăng cường được tính chất S axon của từ vị cơ bản Anh, khiến cho tính chất này thường xuyên giữ được ưu thế, mặc dầu từ ngữ N orman xâm lược nó một cách ào ạt như vậy? Sự kiện căn bản đó là sự xuất hiện của tinh thần dân tộc nảy nở trên cơ sở phát triển sớm sủa của giai cấp tư sản Anh t ừ thế kỷ XIV… » 48

Nhận xét của Paul Meier giúp chúng ta hiểu được tại sao thời xưa người Việt-nam lại có thể gọi chữ Hán là chữ ta, dùng từ ngữ Hán một cách thoải mái như ngôn ngữ của chính mình. Có thể nói: trong thời kỳ lịch sử mà tinh thần dân tộc Việt-nam còn đang là mầm mống, quan hệ Việt-Hán, về văn hóa , không phải là quan hệ thù địch mà là quan hệ thân tộc 49 . Riêng về ngôn ngữ thì quan hệ thân tộc ấy càng rõ rệt. Vả lại, nói chung thì cách đặt câu của Trung-quốc cũng theo một trật tự luận lý như cách đặt câu của Việt-nam. Cho nên, một khi từ ngữ Hán đã quen thuộc với người Việt-nam, những khái niệm và hình tượng dùng để nhận thức thế giới, người Việt-nam đã tiếp thu của dân tộc Hán và coi như của mình, những tiếng Hán đã bị đọc theo giọng Việt-nam thì văn học Hán Việt đối với người Việt-nam, không còn là một văn học ngoại lai nữa; nó đã thành văn học của người Việt-nam ở hình thái quan niệm trong một thời gian lịch sử nhất định.

Thứ ba: Sau khi đã phá được ách đô hộ của phong kiến Trung-hoa, suốt thời gian độc lập dân tộc ngót mười thế kỷ, giai cấp phong kiến Việt-nam luôn luôn duy trì và củng cố địa vị chính thống của Hán tự và Hán văn trong sự học, sự thi, sự thảo các giấy tờ nhà nước . Vì có hiện tượng văn hóa này, Hán tự và Hán văn dần dần, cùng với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội phong kiến, lan rộng đến các tầng lớp trên của bình dân và biến thành công cụ sinh hoạt hàng ngày của mọi người (làm văn tự, làm đơn từ kiện cáo, làm chúc thư, làm văn tế, làm câu đối, hoành phi treo hoặc dán trong nhà những ngày Tết, Cưới, Khao, Ma chay, v.v…) Trường học càng mở rộng (tối thiểu, mỗi làng cũng đón một thầy đồ về dạy học), số người biết chữ càng nhiều; số người dùng Hán văn càng đông thì những hình thức văn học Hán càng phổ biến. Một bài thơ, một bài phú, một vở tuồng diễn ở đình làng, một câu đối dán ở văn chỉ hay ở nhà thờ họ, đối với bất kỳ người Việt-nam nào, cũng không còn là những tác phẩm ngoại lai và cũng không còn xa lạ nữa. Đó là những tác phẩm Việt-nam, được trân trọng vì có tính cách bác học; và bất kỳ người Việt-nam nào cũng mong ước đạt tới được trình độ học vấn đủ để làm ra những tác phẩm tương tự. Tinh thông Hán học, sáng tác được thi, phú, kinh nghĩa, văn sách bằng Hán văn, lều chõng đi thi, đỗ ra làm quan: đó là lý tưởng cao nhất và duy nhất của mỗi người Việt-nam ở thời phong kiến. Đây không phải chỗ đánh giá lý tưởng ấy và phê phán chính sách văn hóa của giai cấp phong kiến Việt-nam; chúng ta chỉ ghi lại một sự trạng, là lý tưởng ấy đã in sâu vào đầu óc người Việt-nam một tín niệm tập truyền: văn học Hán Việt là văn bác học của dân Việt-nam.

Đó là những lý do lịch sử khiến cho văn học Hán Việt được nhân dân Việt-nam thời phong kiến coi là văn bác học của dân tộc, truyền thống văn học gọt giũa của dân tộc. Không ai có thể phủ nhận được sự thực lịch sử này.

II. VĂN HỌC HÁN VIỆT ĐÃ LÀ MỘT CÔNG CỤ XÂY DỰNG TINH THẦN DÂN TỘC VIỆT-NAM

Một bài thơ của Lý Thường Kiệt: Nam quốc sơn hà nam đế cư … đã kích động ý chí sắt đá bảo vệ độc lập dân tộc của tướng sĩ, bồi dưỡng ý thức yêu nước và cứu nước của ba quân, trong một tình thế hiểm nghèo có thể đưa đến cảnh «quốc phá gia vong». Nhờ tinh thần «vì nước quên mình» của quân, dân Đại Việt mà hơn mười vạn quân Tống ào ào kéo xuống đồng bằng tưởng nuốt chửng ngay thủ đô Thăng long một sớm một chiều đã bị chặn lại trên bờ sông Như nguyệt. Tướng Tống là Quách Quỳ thấy « lương ăn của chín đạo quân đã cạn; lúc ra đi quân có 10 vạn, phu có 20 vạn; vì nóng nực và lam chướng quân phu đã chết quá nửa rồi, còn non nửa cũng đều ốm» , bắt buộc phải nhận lời sứ ta mà lui quân. Sách Việt điện u linh tập chép: « Đang đêm nghe tiếng vang trong đền (Trương Hát) đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đởm, không đánh đã tan » – chứng tỏ sức mạnh phi thường của vần điệu chính nghĩa trong việc cổ vũ lòngngười.

Một bài Hịch của Trần Hưng Đạo làm bốc cháy rừng rực căm thù của tướng sĩ đối với giặc Nguyên: quân đội hạ quyết tâm cứu nước bằng cách khắc vào cánh tay hai chữ Sát Thát in hằn trên da thịt; một bài phú Bạch Đằng giang của Trương Hán Siêu đánh thức dậy tinh thần quật cường của dân tộc đã bị chính sự đổ nát của lũ hôn quân ám chúa nhất thời làm mờ nhạt; một bài sớ Thất trảm của Chu An treo gương dũng cảm bảo vệ đạo đức «vì dân vì nước» cho kẻ sĩ; một bài Vạn ngôn thư của Lê cảnh Tuân nhắc nhở Bùi bá Kỳ đừng vì công danh mà quên nhiệm vụ đối với non sông đang bị quân Minh giày xéo – nhà sử học Lê Tung, trong cuốn Việt giám thông khảo tổng luận, đã có câu: «Thất trảm chi sớ nghĩa động càn khôn, Vạn ngôn chi thư trung quán nhật nguyệt» ; một bài Thuật hoài của Đặng Dung đề cao chí khí «vai khiêng trái đất mong phò chúa» và lo ngại «quốc thù vị phục đầu tiên bạch» (nợ nước chưa trả xong đầu đã bạc), biểu lộ một tâm hồn yêu nước nồng nàn, đanh thép; những tập Thơ «lời nhanh ý mạnh, không quên quân thân» của Nguyễn Trãi chan chứa tinh thần «bạch phát chỉ nhân thiên hạ lự» (mái đầu đã bạc mà chỉ để lòng lo việc thiên hạ) – «di tập của tiên sinh không nên để một mảnh giấy một nét chữ nào phải mai một ở trong khói tha n gai góc». (Nguyễn năng Tĩnh, Tựa Ức trai thi văn tập); những thi tứ ca ngợi cảnh trí hùng vĩ và kỳ diễm của núi sông trong văn chương Lê Thánh Tôn; những vần thơ phản đối chiến tranh cốt nhục tương tàn của Nguyễn bỉnh Khiêm: «xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu, uyên ngư tùng tước vị thùy khu» (núi xương, sông máu thảm đầy nơi; cả vực, chim rừng ai khiến đuổi?)… và bao nhiêu văn thơ Hán Việt khác nữa cũng súc tích những tình yêu nước, chí tự cường, đã biểu thị được sáng ngời tâm hồn Việt-nam trong các thế kỷ quá khứ, một tâm hồn yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, yêu tổ quốc, một tâm hồn anh dũng và thi vị, có đủ sức mạnh «xả thân vị nghĩa» , quyết chiến, quyết thắng mà cũng có dư khả năng cần cù kiến thiết quốc gia trong những điều kiện khó khăn, gian khổ.

Xưa nay, văn học Hán Việt được trân trọng lưu truyền và gây được tác dụng tốt qua thời gian, căn bản là nhờ vào cái nội dung chân chính dân tộc ấy. Nhà nho học Bùi Tồn Am, trong sách Lữ trung tạp thuyết, nói về giá trị của các nhà văn Hán Việt tiền bối, có câu:

«…Trương Hán Siêu, Lê Quát viết văn cốt ở bài xích dị đoan, chấn khởi đồi tục. Trần Đình Thám, Lê Công Trãi có tiếng hay thơ, người thì biết giữ liêm sỉ không nhục mệnh vua, người thì có sự nghiệp kinh bang tế thế. Mạc Đĩnh Chi có tiếng giỏi phú cũng có khí tiết trong trẻo; Nguyễn Trực Thiện giỏi văn tứ lục mà vững vàng trong khi gặp biến và giữ mình một cách khiêm cung. Cái lối vui đạo của người quân tử đại khái như thế. Đến như những thứ văn phù hoa vô vị cũng là chỉ có văn mà không có hạnh thì không sao nổi tiếng được».

Ý kiến của Bùi Tồn Am có thể đại biểu cho ý kiến của giới trí thức thời phong kiến khi đánh giá các áng văn tiền bối, lấy nội dung tư tưởng và tình cảm làm tiêu chuẩn quyết định. Lời Ngô Thế Vinh khen Nguyễn Trãi: «…Vốn không để tâm ở văn chương mà phát ra lời thì sáng đẹp rắn rỏi. Sự trước tác theo lối văn về đời Ngu Hạ. Bình sinh ngâm vịnh, lúc cùng lại càng kiên, lúc già lại càng dẻo. Câu khen của tiền bối: «không quên quân thân» rất có thể dễ dàng tìm thấy ở trong tập thơ» cũng chỉ là phát triển quan điểm của Bùi Tồn Am và của các tiên nho chân chính khác.

Trong một tập luận nhan đề: THƠ VÀ CHÂN LÝ, nhà đại thi hào Goethe đã viết:

«Cái phần quan trọng nhất, căn bản, cái làm xúc động người ta sâu sắc nhất, tác dụng đến tinh thần người ta có hiệu quả nhất, trong một tác phẩm thi ca, là cái gì còn lại của thi sĩ trong một bản phiên dịch ra tản văn; vì rằng chỉ có cái đó mới thực là chân giá trị của lời thơ ở trạng thái tinh túy, hoàn chỉnh. Một vẻ trang sức rực rỡ nhiều khi làm ta tưởng tập thơ có cái chân giá trị ấy mà thực tế tập thơ không có và nhiều khi lại che lấp mất chân giá trị ấy khi tập thơ thực tế chứa đựng nó. Ta thường thấy trẻ con có tính biến tất cả mọi thứ thành trò chơi: như vậy, sự kêu vang của từ ngữ, sự nhịp nhàng của câu thơ dễ làm thỏa thích chúng; và khi chúng đem bài thơ đọc lên cốt làm nổi bật những cái đó thì cái lý thú của một tác phẩm đẹp nhất cũng sẽ bị tiêu tán đi…»

«Cái gì còn lại của thi sĩ trong một bản phiên dịch ra tản văn» là nội dung tư tưởng và hình tượng nghệ thuật. Văn học Hán Việt đã chứa đựng một nội dung tư tưởng dân tộc phong phú. Đặc biệt trong những thế kỷ đầu của thời đại dân tộc độc lập (thế kỷ XI – thế kỷ XIV) – Hán tự là văn tự chính thống của dân tộc, Hán văn là văn học gọt giũa duy nhất của dân tộc – văn học Hán việt, với nội dung tư tưởng và tình cảm nói trên, đã tích cực đóng góp vào công cuộc cứu nước, dựng nước, đã dự phần vào sự sáng tạo và củng cố tinh thần dân tộc Việt-nam, dân tộc tính Việt-nam, đã một thời làm rạng rỡ uy danh của Tổ quốc Việt-nam – mặc dầu về mặt khác nó vẫn là lợi khí thống trị của giai cấp phong kiến. Về bài Hịch của Trần Hưng Đạo, ông Trần đức Thảo viết:

«Đứng về mặt giá trị tư tưởng, nó tỏ lòng ái quốc, tinh thần hy sinh và quyết chí tiêu diệt xâm lăng. Nhưng xét đến nội dung thiết thực và động cơ tư tưởng thì chúng ta lại thấy biểu lộ một cách có thể nói là «trắng trợn» những ý nghĩ của một giai cấp chuyên môn bóc lột… Mối lo lắng của Trần Hưng Đạo kêu gọi tướng sĩ, quy lại, chỉ là sợ mất địa vị bóc lột nhân dân: «Đến lúc bấy giờ, thầy trò ta bị bắt, đau đớn lắm thay! Chẳng những thái ấp của ta bị tước mà bổng lộc của các người cũng về tay kẻ khác…» Đây thật là tư tưởng phong kiến thuần tuý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thông cảm với những lời cương quyết của vị anh hùng đại diện cho tinh thần bất khuất của dân tộc. Đọc bài Hịch của Trần Hưng Đạo, chúng ta lại nhớ lại cuộc kháng chiến anh dũng của toàn dân chống giặc Nguyên. Và hình ảnh chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong lịch sử lại là một nguồn cảm xúc chân chính củng cố lập trường dân tộc bây giờ. Sở dĩ như thế, căn bản là vì trong một thời gian, quyền lợi của giai cấp phong kiến còn phù hợp với quyền lợi của nhân dân, nhà nước phong kiến đã lãnh đạo một cách xứng đáng cuộc chiến đấu bảo vệ tổquốc» . 50

Và ông đã khẳng định: «…xét đến nội dung thì nếu không nhận bài Hịch của Trần Hưng Đạo vào văn học Việt-nam thì cũng khó lòng mà đưa nó vào văn học Trung-hoa» .

Trường hợp bài Hịch cũng là trường hợp của tất cả các áng văn thơ Hán Việt có giá trị tiến bộ trong lịch sử đời sống văn học Việt-nam. Vấn đề ở đây không phải là ngày nay ta nhận hay không nhận các bài văn Hán Việt vào văn học sử Việt-nam. Vấn đề là xét xem văn học Hán Việt, về nội dung, có là một văn học dân tộc hay không. Về vấn đề này, tôi tưởng không ai dám phủ nhận tinh thần dân tộc chân chính của văn học Hán Việt. Nhóm Lê Quí Đôn cũng đã viết:

«…Không ai có thể phủ nhận một sự thực lịch sử là có một thời gian rất lâu, cha ông chúng ta dùng chữ Hán để diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình. Trong những thời kỳ đó của lịch sử… những tác phẩm chữ Hán là những tác phẩm chúng ta viết để cho chúng ta xem và đã có tác động đến đời sống tinh thần của nhân dân, đến cuộc đấu tranh của dân tộc…»

Tức là nhóm Lê Quí Đôn cũng thừa nhận nội dung dân tộc của văn học Hán Việt.

Theo ý chúng tôi, một văn học có nội dung tư tưởng dân tộc, phản ánh những cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc, ảnh hưởng to tát đến đời sống tinh thần của nhân dân, có tác dụng tốt đến vận mệnh lịch sử của nhân dân, lại được viết bằng một thứ chữ mà nhân dân nhìn nhận là «chữ ta» (chữ của mình) mặc dầu nó ở ngoài du nhập vào, một văn học như thế tất nhiên là một thành phần cấu tạo của văn học sử dân tộc.

III. VĂN HỌC HÁN VIỆT LÀ MỘT KHO HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT DÂN TỘC

Cái lý do chính khiến nhiều người ngại ngùng không thoải mái liệt văn học Hán Việt vào văn học sử dân tộc là: văn học ấy dùng Hán văn và Hán tự là ngôn ngữ và chữ viết của ngoại tộc. Tác giả những dòng này, trước đây, cũng ngại ngùng như vậy. Điểm này cần xét lại. Trong bài luận đã dẫn, ông Trần đức Thảo có nêu ra một vấn đề lý thuyết quan trọng :

«… M ột mặt, ngôn ngữ là yếu tố căn bản để định nghĩa một nền văn học dân tộc; nhưng một mặt khác đấy không phải là một yếu tố độc nhất».

Vậy ngoài ngôn ngữ ra (yếu tố căn bản) còn những yếu tố nào khác cũng định nghĩa được một nền văn học dân tộc? «Muốn giải đáp, phải đi sâu vào định nghĩa và quan niệm văn học nói chung». Tôi hoàn toàn đồng ý với ông Trần đức Thảo về cách đặt vấn đề và nêu ra hướng giải quyết vấn đề như vậy.

Như tất cả chúng ta đều biết, một tác phẩm văn học hoàn chỉnh bao gồm năm nhân tố cấu thành: là đề tài (nguyên liệu sáng tác), tư tưởng nhà sáng tác, những hình tượng văn học, ngôn ngữ và bút pháp, văn tự. Một tác phẩm văn học dân tộc hoàn chỉnh là một tác phẩm sáng tác bằng những nguyên liệu lấy trong đời sống dân tộc, chứa đựng một nội dung tư tưởng dân tộc được biểu hiện bằng những hình tượng thích nghi với tâm lý và khiếu thẩm mỹ dân tộc (do đó tác động trực tiếp và sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc), phô diễn ra bằng ngôn ngữ dân tộc và được ghi lại bằng chữ viết dân tộc.

Đề tài và tư tưởng nhà văn thuộc về nội dung. Hình tượng, ngôn ngữ và bút pháp thuộc về hình thức nghệ thuật. Còn văn tự chỉ là một ký hiệu để ghi tiếng nói. Trong hình thức nghệ thuật thì hình tượng có nhiệm vụ biểu hiện nội dung; ngôn ngữ có nhiệm vụ, thông qua hình tượng, phô diễn nội dung thành lời văn . Khi dịch thật sát đúng một tác phẩm văn học ra tiếng ngoại quốc thì, qua thứ ngôn ngữ khác này, nội dung tư tưởng và nội dung hình tượng của tác phẩm vẫn tồn tại. Thí dụ: nếu ta dịch tiếng Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Tú Xương ra tiếng ngoại quốc thì những hình tượng của các tác phẩm ấy, cùng với cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của các thi sĩ ấy, cùng với bản thân tư tưởng đựng trong hình ảnh, hình tượng, cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm đó, nhất định sẽ không vì chuyển qua một ngôn ngữ ngoại quốc mà biến tướng đi được. Qua bản dịch, người nước ngoài vẫn có thể gặp được Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương. Đọc bản dịch của những câu thơ:

« …Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ

Tiếng oan d ậ y đất, án ngờ loà mây

Hạ từ van vỉ suốt ngày

Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn

Giường cao rút ngược dây oan

Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người… »

(Nguyễn Du: Truyện Thuý Kiều )

H oặc:

« Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bẩy nổi ba chìm với nước non.

Tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son » .

(Hồ Xuân Hương: Vịnh bánh trôi )

H oặc:

« …Sát quỷ, ông dùng thanh kiếm gỗ,

Ra oai, bà giắt cái khăn hồng.

Cô dương tay ấn, tan tành núi,

Cậu chỉ ngọn cờ, cạn khúc sông.

Đồng giỏi sao đồng không giúp nước,

Hay là đồng sợ súng thần công?… »

(Tú Xương: Vịnh lên đồng )

Người ngoại quốc vẫn thể hiện được phần nào trong trí tưởng tượng của mình những hình tượng văn học trong các đoạn thơ ấy và nhờ đó hiểu được tư tưởng của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương. Hơn nữa, họ vẫn lý hội được một cách cụ thể tính cách Việt-nam của những nếp cảm nghĩ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương mặc dầu ba nhà thơ này có cá tính khác nhau; cũng như qua bản dịch ra tiếng Việt chúng ta vẫn cảm được tính cách Pháp của kịch Molière, của văn Anatole France, tính cách Nga của tiểu thuyết L. Tolstoi, của thơ Maiakovski, tính cách Đức của văn thơ Goethe, Shiller, H. Heine, v.v… Ngôn ngữ không phải là một yếu tố độc nhất để định nghĩa dân tộc tính của một văn học. Dân tộc tính của một tác phẩm văn học còn hiện ra ở nội dung tư tưởng, ở thể cách cảm nghĩ, ở thể cách hình tượng hoá tư tưởng và thực tại. Nói đến giá trị nghệ thuật của một tác phẩm chính là nói đến cách hình tượng hoá ấy . Một tác phẩm văn học làm xúc động người ta mau nhất, tác dụng đến tâm hồn người ta có hiệu lực nhất, một mặt là do nội dung tư tưởng chân chính của nó, nhưng một mặt khác là nhờ thể cách hình tượng hoá nội dung đó.

Những văn thơ Hán Việt của chúng ta, ngoài cái nội dung tư tưởng dân tộc của nó, còn có tính dân tộc ở cách hình tượng hoá của nó nữa. Đem những văn thơ ấy dịch ra tiếng Việt, giá trị và tác dụng của những hình tượng trong đó không hề bị suy suyển. Cái hình ảnh « sứ nguỵ qua lại tới tấp trên đường uốn tấc lưỡi cú vọ làm nhục Triều đình, đem tấm thân chó dê khinh nhờn tổ phụ », cái hình tượng nước mất nhà tan «… khi bấy giờ chẳng những là thái ấp của ta không còn mà bổng lộc của các ngươi cũng vào tay kẻ khác, chẳng những là gia quyến ta bị đuổi mà vợ con của các ngươi cũng bị giặc bắt sống… » trong bài Hịch tướng sĩ ; cái hình ảnh « vai khiêng trái đất mong phò chúa… gươm mài bóng nguyệt biết baorày» trong bài Thuật hoài của Đặng Dung; cái hình tượng chiến đấu trên sông Bạch Đằng hồi kháng Nguyên: « …muôn đội thuyền bay, hai quân giáo chỉ; gươm tuốt sáng loè, cờ bay đỏ khé. Tướng Bắc quân Nam, hai bên đồi luỹ. Đã nổi gió bay mây lại kinh thiên động địa… Trời giúp quân ta, mây tan trận nó, khác nào như quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích bích khi xưa, giặc Bồ Kiền bị tan ở bến Hợp phì thuở nọ…» trong bài phú Bạch Đằng giang của Trương Hán Siêu; cái hình tượng ngoại tộc bóc lột nhân dân: « Hơ lũ đầu đen trên lửa nóng, đẩy phường con đỏ xuống hang sâu… Thuế má vét cho đầy, núi khe sạch nhẵn như chùi; kẻ bị đem vào núi đào vàng, ma thiêng nước độc, người bị ép xuống khơi mò ngọc cá nuốt sóng vùi; …máu mỡ dân chúng sớm vét tối bòn,nhà cửa công tư nay xây mai dựng; chốn châu lý nặng nề sưu dịch, trong xóm làng quạnh vắng cửi canh…» hoặc hình tượng thắng trận của quân ta: «… Đô đốc Thôi Tụ quỳ gối xin thương, Thượng thư Hoàng Phúc cúi đầu chịu trói… Lãnh câu máu chẩy đầy sông, nước vang tiếng rú. Đan xá thây chồng khắp nội, cỏ rậm máu hoen… » trong bài Bình Ngô đại cáo – và bao nhiêu hình tượng khác trong các văn thơ Hán Việt khác, chuyển vào bản dịch tiếng Việt, vẫn kích thích và bồi dưỡng lòng yêu nước của chúng ta ngày nay, như đã kích thích và bồi dưỡng lòng yêu nước của cha ông chúng ta trong dĩ vãng. Những hình tượng quen thuộc ấy, cấu tạo nên bằng những nguyên liệu lấy trong đời sống thường của nhân dân, đã thuộc hẳn vào kho di sản văn học của dân tộc và sẽ cùng với nhân dân Việt-nam tồn tại bất diệt. Sự bị phô diễn bằng ngôn ngữ Hán, ghi lại bằng văn tự Hán không thể làm cho những hình tượng ấy mất tính cách dân tộc được. Chúng ta có thể khẳng định rằng: xét theo cách biểu hiện nghệ thuật (hình tượng hoá), văn học Hán Việt của các thế kỷ quá khứ là một bộ phận của văn học sử dân tộc, một bộ phận khăng khít của truyền thống văn học dân tộc.

IV. NGÔN NGỮ VẪN LÀ YẾU TỐ CĂN BẢN ĐỂ ĐỊNH NGHĨA MỘT NỀN VĂN HỌC DÂN TỘC

Văn học Hán Việt phải vận dụng một ngôn ngữ ngoại tộc để diễn đạt một nội dung dân tộc và thể hiện những hình tượng có dân tộc tính: đó là cái mâu thuẫn nội tại đã hạn chế khá nhiều trình độ dân tộc tính của nó .

Ông Lê Tùng Sơn viết: « Văn học chữ Hán cũng là tiếng nói Việt-nam vì do người Việt-nam viết với sự suy nghĩ Việt-nam để diễn đạt sự việc Việt-nam». Ý kiến này cần bàn lại. Ngôn ngữ không lìa khỏi được tư tưởng. Cách nói cũng chính là cách nghĩ và cảm. Ngôn ngữ Hán biểu thị cách cảm nghĩ của dân tộc Hán. Một mặt khác, mỗi từ ngữ Hán đựng một ý nghĩa nhất định do điều kiện sinh hoạt của dân tộc Hán cấu tạo nên; bất kỳ ai dùng từ ngữ ấy cũng chỉ có thể hiểu nó theo ý nghĩa nhất định ấy. Bởi vậy, trong khi dùng ngôn ngữ Hán, cha ông chúng ta đã bắt buộc sự suy nghĩ Việt-nam phải Hán hóa khá nhiều; và sự việc Việt - nam diễn đạt qua ngôn ngữ Hán cũng bị hạn chế chặt chẽ trong ý nghĩa Hán của từ ngữ. Nói khác đi, trong trường hợp này, tư tưởng Việt-nam và sự việc Việt-nam đã bị giảm bớt tính dân tộc. Có nhiều lối nghĩ, lối nói Việt-nam mà ngôn ngữ Hán (hay bất cứ ngôn ngữ ngoại quốc nào) không có khả năng diễn đạt được. Có nhiều sự việc Việt-nam mà ngôn ngữ Hán (hay bất cứ ngôn ngữ ngoại quốc nào) không có tiếng nào để chỉ thị đúng được (vì trong hoàn cảnh sinh hoạt không phải là Việt-nam, không có sự việc ấy). Cho nên, ngoài những khái niệm phổ biến, có nhiều ý nghĩ, tình tự, sự việc, phong tục trong một áng văn dân tộc đem dịch ra tiếng nước ngoài chỉ có thể đạt được tính ước chừng chứ không thể hoàn toàn đúng với nguyên văn được. Ông cha chúng ta, bởi chỉ dùng ngôn ngữ văn tự Hán để sáng tác, nên đã phải gạt đi hoặc không thể vận dụng được nhiều yếu tố quan trọng của sự cảm nghĩ dân tộc, vì những yếu tố này chỉ có ngôn ngữ dân tộc mới thể hiện được. Đặc biệt là yếu tố châm biếm Việt-nam chẳng hạn thì hầu như vắng mặt hẳn trong văn học Hán Việt. Cái cười, lúc nào thì cười; ở trường hợp nào thì cười cách nào, cười cách nào thì có tác dụng nào… là biểu thị sâu sắc nhất của một dân tộc tính. Và mọi dạng thái của cái cười, ở một dân tộc, lại chỉ có những dạng thái ngôn ngữ riêng của dân tộc ấy mới diễn tả được. Thí dụ: cái cười Hồ Xuân Hương rất gần với tiếu lâm trong bài thơ Sư bị làng đuổi:

« Cái kiếp tu hành nặng đá đeo

Vị gì một chút tẻo tèo teo

Thuyền từ cũng muốn về Tây trúc

Trái gió cho nên phải lộn lèo» .

Cái cười đả kích ngỗ ngược, hóm hỉnh, khúc khích, lý thú, cái cười rất Xuân Hương mà cũng rất Việt-nam ấy chỉ có lối nói ấy (nói lái), những tiếng đặc biệt ấy mới tận tả được. Bài thơ này đem dịch ra ngoại ngữ – mặc dầu vẫn giữ được nội dung tư tưởng và hình tượng – sẽ mất gần hết ý vị tiếu lâm của nó, nếu không muốn nói là không thể nào dịch được ý vị này.

Ngôn ngữ Hán đã chặn ngang cha ông ta thời xưa không cho đi vào cái cười ấy, lối nghĩ ấy, cách nói ấy. Đó là một sự mất mát lớn và đau xót. Chính vì thế mà tới một mức phát triển nào đó, tư tưởng dân tộc yêu cầu được nẩy nở toàn diện đã thôi thúc các nhà văn Việt-nam thời quá khứ phải sáng tạo ra chữ Nôm và dùng chữ Nôm để diễn đạt mọi khía cạnh của tâm hồn dân tộc. Chỉ có ngôn ngữ dân tộc mới thể hiện được, sâu sắc và toàn diện, dân tộc tính của tư tưởng và tình cảm.

Có những ý tưởng, nếu phô diễn bằng Hán văn, sẽ bị đóng khung trong một nghĩa hạn định, cứng rắn, hoàn chỉnh. Thí dụ: tài mệnh tương đố , hoặc tạo vật đố hồng nhan , hoặc hồng nhan bạc mệnh . Tính gọn ghẽ thái quá của Hán văn – mà người viết Hán văn phải tuân theo – khiến cho những ý tưởng ấy cô đọng lại trong những lời văn giống như những định thức có tính cách điện tín. Ưu điểm của nó là giản khiết; nhưng vì giản khiết quá mà nó đã hạn chế một phần nào sự bộc lộ cá tính nhà văn Hán Việt trong khi phát biểu những ý tưởng kia. Ta thử so sánh: « T ài mệnh tương đố» với «chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau» (Nguyễn Du). « T ạo vật đố hồng nhan» với «Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen!» (Nguyễn Du). Ta sẽ thấy cũng một ý tưởng mà diễn ra bằng ngôn ngữ dân tộc, thi sĩ đã có thể nói lên được cả thái độ riêng của mình đối với cái sự tình mà ý tưởng ấy biểu thị. Những tiếng khéo là, quen thói đặt vào giữa tài và mệnh, trời xanh và má hồng đã cho ta cảm thấy rằng Nguyễn Du kín đáo châm biếm cái định luật: tài ghét mệnh, trời ghét má hồng – bằng một thái độ phúng thích nhẹ nhàng.

Lại có những khái niệm Việt-nam mà từ ngữ Hán không thể diễn được đầy đủ nội dung phức tạp, nội dung này biến hóa tùy từng trường hợp sinh hoạt; những khái niệm ấy chỉ có tiếng Việt-nam mới có thể hình dung được sâu sắc. Thí dụ: khái niệm ăn ở . Có trường hợp khái niệm ấy biểu thị trọn vẹn sự sống chung của đôi lứa vợ chồng: «khi ăn ở, lúc ra vào, càng vui duyên mới càng dào tình xưa» ; có trường hợp, nó chỉ biểu thị một yếu tố của sự sống chung vợ chồng (giao hợp): «phải tuồng ăn xổi ở thì, tiết trăm năm cũng bỏ đi một ngày» ; lại có trường hợp nó chỉ biểu thị thái độ xử thế nói chung: «ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay cũng già». Những trạng thái tế nhị, khía cạnh của khái niệm ấy diễn đạt được bằng tiếng ăn ở có ý nghĩa linh động thích nghi với từng trường hợp sống, ngôn ngữ Hán không thể có tiếng nào diễn đạt được tương đương như vậy. Dùng Hán văn để phản ánh thực tại Việt-nam, vật giới cũng như tâm giới, tất nhiên phải hy sinh mất nhiều khía cạnh, nhiều sắc thái, nhiều tình tiết lý thú. Văn học Hán Việt, vì thế, mà chỉ phản ánh được một phần nào của thực tại Việt-nam, của tâm hồn Việt-nam; đó là sự hạn chế của ngôn ngữ Hán tộc đối với các nhà sáng tác văn học Hán Việt. Dân tộc tính của văn học Hán Việt, do đấy, bị tỉnh lược một phần quan trọng, cốt yếu.

« Văn học chữ Hán cũng là tiếng nói Việt-nam » nếu xét về nội dung tư tưởng, và hình tượng nghệ thuật; nhưng đó là một tiếng nói pha, không thuần túy, thiếu sót, vì nó phải xuyên qua một ngôn ngữ ngoại lai, mặc dầu ngôn ngữ này, một thời, đã được coi như ngôn ngữ bác học duy nhất của dân tộc.

*

Tóm lại, về vấn đề : «Văn học chữ Hán do người Việt-nam viết có nằm trong văn học dân tộc không?» , quan điểm của chúng tôi như sau:

1) Vì những điều kiện lịch sử đặc biệt của quá trình phát triển xã hội Việt-nam, văn học Hán Việt đã có một thời khá dài (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV) là văn học gọt giũa duy nhất của dân tộc và sau đó, suốt thời đại phong kiến (đến cuối thế kỷ XIX), vẫn tiếp tục tồn tại ở cương vị chính thống. Nó là một bộ phận khá lớn, một khoảng lịch sử khá dài của đời sống văn học Việt-nam. Nó dự phần quan trọng vào sự cấu tạo truyền thống văn học dân tộc. Nó là một thành phần cấu tạo của văn học sử Việt-nam.

2) Xét về nội dung, văn học Hán Việt đã phản ánh được phần nào đời sống dân tộc – chủ yếu là những cuộc chiến đấu cứu nước anh dũng của toàn dân ở những thế kỷ XI, XIII, XIV, XV – ghi lại được tinh thần dân tộc của các tầng lớp nhân dân, thể hiện bằng hình thức nghệ thuật những đức tính tốt của dân tộc, biểu dương một nhân sinh quan chính nghĩa khang kiện thích hợp với tâm lý dân tộc chuộng lao động, chuộng nhân đạo, chuộng hòa bình và khảng khái chống đối mọi cường quyền áp chế con người. Nó là một yếu tố giá trị của di sản tinh thần Việt-nam.

3) Xét về cách biểu hiện nghệ thuật, văn học Hán Việt đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật có dân tộc tính, đủ khả năng thỏa mãn được cách nhìn, cách hiểu, cách cảm xúc, cách tư tưởng của người Việt-nam, do đó, đã chuyển được vào tâm hồn Việt-nam, thông qua trí tưởng tượng và khiếu thẩm mỹ dân tộc, những cảm xúc và ý tưởng chân chính có lợi cho cuộc chiến đấu sinh tồn của dân tộc trong lịch sử. Nó là một bộ phận di sản hình thức đẹp của dân tộc.

4) Nhưng vì nội dung hiện thực, nội dung tư tưởng, hình tượng nghệ thuật của văn học Hán Việt phải diễn đạt qua ngôn ngữ Hán tộc, nên dân tộc tính của nó bị hạn chế, bị giảm sút, bị Hán hóa một phần nào. Nhiều yếu tố cơ bản và đặc thù của dân tộc tính Việt-nam mà chỉ có ngôn ngữ Việt-nam mới thế hiện nổi đã bị gạt bỏ ra ngoài phạm vi sáng tác của các nhà văn Hán Việt. Cũng vì diễn đạt bằng ngôn ngữ Hán cho nên văn học Hán Việt đã không thể phổ cập rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân. Do đấy, nó vẫn có tính cách quý tộc và phạm vi tác dụng xã hội của nó bị thu hẹp. Đó là một bộ phân của đời sống văn học dân tộc, nhưng chưa phải là một văn học dân tộc thực sự. Khái niệm văn học dân tộc có một nội dung phức tạp hơn nhiều (sẽ bàn đến ở các chương III, IV, V).

5) Nghiên cứu và biên tập văn học sử Việt-nam, không thể chỉ «giới thiệu sơ lược những tác phẩm Hán Việt trong các bài khái luận về văn học chữ Hán… đặt vào phần phụ ở cuối mỗi thời kỳ» – như nhóm Lê Quí Đôn đã thực hành trong bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam. Trái lại, phải coi nó là một thành phần cấu tạo của đời sống văn học dân tộc. Phải xác định đúng phần đóng góp của nó vào sự tạo thành truyền thống văn học dân tộc, cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật. Tôi tin rằng nếu chúng ta dịch ra quốc âm toàn bộ các áng văn học Hán Việt tiến bộ từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX – mà tất nhiên chúng ta phải làm công việc này – thì cái thành phần văn học Hán Việt, trong di sản văn học Việt-nam, không phải là nhỏ, phụ, ít giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Mặc dầu bị ngôn ngữ Hán hạn chế tính dân tộc, văn học Hán Việt vẫn là một kho văn học quý của dân tộc Việt-nam.