Chương HAI VĂN HỌC DÂN GIAN
1) Trong lịch sử văn học Việt-nam, có một bộ phận sáng tác vẫn thường được mọi người mệnh danh là văn học bình dân hoặc văn học dân gian . Đó là những tục ngữ, ca dao, câu đố, vè, chuyện cổ (văn học truyền khẩu). Lại có những truyện Nôm khuyết danh như Lý Công, Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân, v.v… cũng vẫn gọi là truyện Nôm bình dân để phân biệt với những Chinh phụ ngâm, Đoạn trường tân thanh… là những truyện Nôm cổ điển .
Khái niệm văn học bình dân hiểu theo nghĩa các văn Nôm khuyết danh làm nẩy ra nhiều vấn đề khó khăn không thể giải quyết được. Thứ nhất: nếu liệt tất cả những truyện Nôm khuyết danh vào văn học bình dân không phân biệt trình độ giá trị nghệ thuật (thí dụ: xếp Nhị độ mai, Bích câu kỳ ngộ, Lục súc tranh công, Trê cóc vào cùng một loại với Lý Công, Phạm Tải – Ngọc hoa, Hoàng Trừu…) chỉ vì tất cả đều khuyết danh thì tức là theo hình thức mà bỏ mất nội dung. Với tiêu chuẩn hình thức chủ nghĩa ấy, những cuốn Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Sãi vãi, ngay cả Đoạn trường tân thanh nữa, giả sử vì một sự không may nào đó mà không lưu lại được tên tác giả thì cũng đều bị xếp vào loại văn học bình dân hay sao? Đó là trường hợp đã xảy ra: trường hợp Gia huấn ca. Hồi trước, lúc mọi người còn đinh ninh là tập này của Nguyễn Trãi thì nó được đặt vào một vị trí không thuộc phạm vi văn học bình dân. Nay mọi người đã thấy rõ tập ấy không phải của Nguyễn Trãi thì lập tức nó rơi vào loại văn nôm khuyết danh thuộc phạm trù văn học bình dân. Đó là một sự vô lý. Thứ hai: nếu phân biệt giá trị tư tưởng và nghệ thuật giữa các tác phẩm Nôm khuyết danh để xác nhận cuốn này thuộc văn học bình dân (thí dụ Lý Công) cuốn này không thuộc văn học bình dân (thí dụ Nhị độ Mai)… thì lại vấp phải một khó khăn khác to hơn. Khái niệm bình dân , trong xã hội phong kiến, đối lập với khái niệm quý tộc. Văn học bình dân là văn học của khối người bị trị; văn học quý tộc là văn học thống trị. Tất nhiên không ai lại nghĩ rằng Lý Công là một tác phẩm bình dân và Nhị độ Mai là một tác phẩm quý tộc. Xét theo nội dung tư tưởng và hình tượng nghệ thuật thì Nhị độ mai cũng có tính chất bình dân không kém Lý Công (lại còn hơn là khác). Hơn nữa, xét theo mọi phương diện, ai dám nhận định rằng thơ Xuân Hương, thơ Tú Xương không có tính bình dân? Vậy những tác phẩm nào, bất kỳ là hữu danh hay khuyết danh, mà tư tưởng và nghệ thuật có tính cách bình dân thì đều gọi là văn học bình dân cả? Như vậy thì hầu hết các tác phẩm Nôm giá trị mà ta vẫn liệt vào hàng văn học cổ điển cũng đều thuộc cùng một loại với những Lý Công, Hoàng Trừu… ư? Và như vậy thì lấy danh nghĩa gì để phân biệt một Thạch Sanh với một Truyện Kiều? một Hoàng Trừu với một Sơ kính tân trang?
2) Vì khái niệm văn học bình dân hiểu theo nghĩa trên gây nhiều khó khăn như vậy, nên đã có nhà văn học sử chỉ dùng nó để gọi văn học truyền khẩu mà thôi; còn tất cả tác phẩm chữ Nôm đều không được kể là văn học bình dân. Đó là chủ trương của nhóm Lê Quí Đôn đã thực hành trong bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam. Nhóm này viết:
«…Chữ viết và văn học chính thống ngày trước không thỏa mãn được yêu cầu văn học của nhân dân. Văn chữ Hán, nhân dân không biết thưởng thức. Chữ Nôm thì khó và bọn phong kiến cũng không dạy cho. Thái độ của chính quyền phong kiến đối với tiếng nói dân tộc và chữ Nôm ảnh hưởng đến thái độ của sĩ phu. Phần đông nhà nho, ở nhiều thời kỳ lịch sử, coi nhẹ tiếng mẹ đẻ, coi nhẹ mọi hình thức nghệ thuật dân tộc. Họ có dùng tiếng Việt để sáng tác cũng ít khi chịu khổ công học tập trong sinh hoạt và trong nghệ thuật của nhân dân. Do đó, văn viết bằng tiếng Việt chưa từng đáp ứng được nhu cầu văn chương của đông đảo nhân dân. Tất nhiên, người bình dân phải tự túc bằng phương tiện của mình là văn chương truyền miệng…» 51
Lại có đoạn viết: « …Chúng ta thường nói nhân dân lao động sáng tạo lịch sử, nhưng văn viết bằng chữ Hán, cho đến cả văn chữ Nôm, phần lớn chỉ phản á nh sự hoạt động và tâm lý của những tầng lớp trên: vua, quan, sĩ phu. Các sức mạnh chống đánh ngoại xâm, đẩy mạnh sản xuất, thay đổi triều đại, chúng ta phải tìm trong văn chương truyền miệng… » 52
Và: « …Lao động thì cần cù, chống địch thì dũng cảm, sống thì quây quần đoàn kết, dân tộc ta đã tỏ ra có một sức sống mãnh liệt dồi dào; cho nên văn chương bình dân vì thế mà cũng khá phong phú ». 53
Như vậy, tức là nhóm Lê Quí Đôn cho rằng chỉ có văn học truyền khẩu là văn học bình dân, còn văn học chữ Viết – cả chữ Hán lẫn chữ Nôm là văn học của các giai tầng trên. Suy diễn ý kiến này một cách luận lý thì phải khẳng định rằng: văn học truyền khẩu là văn học bình dân, văn học chữ viết là văn học thống trị. Hai thứ đối lập nhau. Chính nhóm Lê Quí Đôn cũng đã nói trắng ra như vậy:
« Tóm lại, nếu văn viết Việt-nam ngày xưa không phản ánh sinh hoạt lao động, tinh thần lao động của nhân dân, bởi vì người viết, người thưởng thức đều ở các giai tầng trên, thì trái lại, văn chương truyền miệng, bởi nguồn gốc , tính chất và đối tượng phục vụ của nó, đã thể hiện tinh thần lao động của dân tộc rất đầy đủ…» 54
Căn cứ vào lập luận đó, nhóm Lê Quí Đôn đã chia các tác phẩm chữ Nôm cả hữu danh và khuyết danh làm hai loại lớn:
a) Loại: « Ở giai đoạn phôi thai… tư tưởng chưa có sắc thái nhân dân rõ ràng, cách phô diễn còn khô khan, ngôn ngữ còn mượn cổ văn Trung-quốc một cách sống sượng… chứng tỏ nhà văn của chúng ta còn chưa sử dụng quốc âm thành thạo, chưa luyện thành một tiếng nói văn chương thực sự ».
Loại này gồm tất cả những tác phẩm Nôm «từ thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XV» như: thơ nôm Nguyễn Trãi, thơ nôm Lê Thánh Tông và năm áng văn nôm khuyết danh: Vương Tường, Trê Cóc, Trinh thử, Thạch Sanh, Gia huấn ca. 55
b) Loại «văn học cổ điển của dân tộc» gồm tất cả những văn thơ Nôm hữu danh và khuyết danh từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX. Văn thơ có tên tác giả như Chinh phụ ngâm, Đoạn trường tân thanh, Hoa tiên, Sơ kính tân trang, Cung oán ngâm, v.v… cùng với văn thơ khuyết danh như Phan Trần, Phạm Công – Cúc Hoa, Tống Trân, Phạm Tải – Ngọc hoa, Phương hoa, Nhị độ mai, Bích câu kỳ ngộ, Thị Kính… đều là «văn học cổ điển của dân tộc». 56
Quan điểm này đã giắt các biên tập viên trong nhóm Lê Quí Đôn vào những mâu thuẫn không giải quyết được, làm cho bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt-nam giảm mất tính cách hệ thống. Theo lập luận của nhóm ấy, như đã trình bầy ở trên, thì văn học chữ viết, cả hữu danh và khuyết danh, là văn học «không phản ánh sinh hoạt lao động, tinh thần lao động của dân tộc bởi vì người viết, người thưởng thức đều ở các giai tầng trên…» và «chưa từng đáp ứng được nhu cầu văn chương của đông đảo nhân dân».
Vậy thì các truyện nôm Thạch Sanh, Tống Trân, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Nhị độ Mai, v.v… theo nhóm Lê Quí Đôn, chính là do những người ở các giai tầng trên viết ra và chỉ để những người ở các giai tầng trên thưởng thức. Nhưng theo nội dung các chương sách nói về những truyện Nôm khuyết danh ấy thì ta lại thấy nhóm Lê Quí Đôn tự phản đối mình:
« Trong văn chương cổ điển, có một số tác phẩm như Trê Cóc, Thạch Sanh, Phạm Công – Cúc Hoa, Nhị độ Mai, Phan Trần… được nhân dân yêu mến, truyền tụng từ đời này qua đời khác và có tác dụng lớn trong việc rèn luyện đạo đức và kích thích tinh thần đấu tranh của mọi người. Những tác phẩm ấy… gọi là tác phẩm vô danh hay khuyết danh… Tác phẩm khuyết danh phản ánh khá trung thành đời sống của nhân dân, khăng khít với cuộc đời và diễn tả những « nguyện vọng và mơ ước » của nhân dân. Truyện khuyết danh phản ánh được phẩm chất nhân sinh quan của nhân dân. Nó ca ngợi tinh thần lao động… Đặc biệt trong truyện khuyết danh có nhiều nhân vật xuất thân từ quần chúng nhân dân lao động , v.v… » 57
Chưa kể đến tính bất nhất trong việc nhân định các sự kiện văn học – như truyện TRÊ CÓC đã bị xếp vào loại «ở giai đoạn phôi thai: kể từ thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XV», nay lại được kể vào loại văn học cổ điển của dân tộc – chứng tỏ các tác giả bộ Lược thảo chưa quán xuyến được đối tượng nghiên cứu của mình; chưa bàn đến chuyện sắp xếp những truyện Nôm Thạch Sanh, Phạm Công – Cúc hoa, Tống Trân vào loại văn học cổ điển như nhóm Lê Quí Đôn đã làm có đúng hay không; chưa nói đến tính cách vô lý của sự chia ranh giới một cách hình thức giữa văn học truyền khẩu (được coi là văn học bình dân) với văn học chữ Nôm (bị coi là văn học quý tộc) – theo ý kiến này thì truyện Trương Chi khi còn là truyền khẩu, do các nghệ sĩ sẩm chợ ca hát, thì là văn học bình dân, đến một lúc nào đó được ghi lại trên giấy bằng chữ Nôm thì lại biến thành văn học thống trị vì là văn viết; chưa nói đến những nhận xét của các tác giả trái nghịch nhau từ trang này sang trang khác-như Trê Cóc, Thạch Sanh bị liệt vào loại văn học ở giai đoạn phôi thai vì:
« T ư tưởng chưa có sắc thái nhân dân rõ ràng, cách phô diễn còn khô khan, ngữ ngôn còn mượn cổ văn Trung-quốc một cách sống sượng… chứng tỏ nhà văn chúng ta còn chưa sử dụng quốc âm thành thạo ». (Tập I, trang 111)
Nhưng ở những trang bình luận về Trê cóc, Thạch Sanh thì lại cho rằng:
«Ngôn ngữ trong Trê Cóc cũng rất đáng chú ý. Các tiếng dùng ch í nh xác… Tác giả lại hay dùng tục ngữ ca dao tạo cho câu chuyện một không khí rất thích hợp với các nhân vật… những đối thoại giữa Trê và Cóc cũng là những đoạn rất hay, rất sinh động… Thật là sắc sảo. Nghệ thuật của Trê Cóc nhắc ta nhớ đến nhà ngụ ngôn trứ danh Pháp: La Fontaine» (Tập I, trang 149-150)
Hoặc: « Tác giả Thạch Sanh đã viết truyện với cái quan điểm ân nghĩa rất sâu sắc của quần chún g … Có thể nói rằng truyện Thạch Sanh đã nêu trước lên cái viễn ảnh lấy nghệ thuật vận động quần chúng đấu tranh cho hòa bình… » (Trang 163, 164)
Chưa kể đến những khuyết điểm ấy, chỉ nội một lập luận trên kia cũng đủ chứng tỏ rằng sự phân ra ba loại, văn học bình dân, văn học «ở giai đoạn phôi thai», văn học «cổ điển» của dân tộc, trong bộ Lược thảo, là không dựa trên một cơ sở lý luận nào vững chắc cả. Xem như vậy thì khái niệm «văn học bình dân» hiểu theo nhóm Lê Quí Đôn là đơn thuần «văn học truyền khẩu», cũng không thể chấp nhận được.
c) Lại có tính chủ trương đem văn học bình dân phân biệt với văn học cổ điển – danh từ cổ điển này không bao hàm tính chất quý tộc, thống trị, cũng không kể đến hình thức hữu danh hay khuyết danh mà dùng để chỉ những áng văn có một trình độ nghệ thuật cao thống nhất với một nội dung chính nghĩa, tức là những áng văn bác học, gọt giũa của dân tộc. Chủ trương này cũng không khỏi sai lệch.
Đứng về phương diện lịch sử mà xét thì tính chất bình dân tức là tính chất nhân dân trong xã hội phong kiến . Nhân dân là một khái niệm lịch sử. Không nên lẫn lộn nhân dân với cư dân trong một xứ, với dân tộc , với « các tầng lớp lao động bị bóc lột », với « những người người lao động trực tiếp sản xuất ra những của cải vật chất cho xã hội» . Ở mỗi thời kỳ lịch sử của xã hội, khái niệm nhân dân lại mang một nội dung riêng, phù hợp với sự biến đổi cấu tạo nội bộ của xã hội.
Theo quan điểm của nhà sử học xô viết A. P Boutenko trình bày trong tạp chí Những vấn đề lịch sử , số 4, 1955 (xuất bản ở Mac-tư-khoa) thì:
« T iêu chuẩn chủ yếu cho phép ta biết được một bộ ph ậ n nào của cư dân có thuộc vào hàng ngũ nhân dân hay không là xét xem, về khách quan, bộ phận ấy có lợi gì hay không trong sự giải quyết những nhiệm vụ của sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, và xét xem nó có khả năng giải quyết như vậy hay không ».
Ông lại viết: « Trong quá trình phát triển lịch sử, những nhiệm vụ khách quan đặt ra cho xã hội thực hiện, ở mỗi giai đoạn lại thay đổi; cho nên sự cấu tạo của những lực lượng xã hội có khả năng tham gia giải quyết những nhiệm vụ ấy, họp thành nhân dân, cũng tất yếu phải t h ay đổi theo »
Thí dụ: trong thời kỳ cách mạng 1789-1793 ở Pháp, giai cấp tư sản, mặc dầu chuyên sống bằng bóc lột công nhân, vẫn nằm trong hàng ngũ nhân dân cùng với công nhân, toàn thể nông dân, các tầng lớp tiểu chủ thủ công và tiểu tư sản nói chung, vì rằng nhiệm vụ cách mạng của xã hội lúc đó là đánh đổ chế độ phong kiến, mở đường cho lực lượng sản xuất tiến lên phương thức tư bản chủ nghĩa; giai cấp tư sản Pháp có lợi trong sự giải quyết theo hướng ấy và có khả năng tham gia giải quyết. Những đến thời kỳ giai cấp tư sản đã thành lực lượng kìm hãm sức sản xuất xã hội, nhiệm vụ cách mạng đề ra cho xã hội là thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp tư sản sẽ là đối địch với quần chúng nhân dân ; lúc này, nhân dân chỉ còn gồm có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp tiểu tư sản, dân nghèo. Hoặc ở Trung-quốc, lúc đang tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân chống đế quốc, phong kiến và tư bản quan liêu thì nhân dân gồm có công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Nhưng đến giai đoạn hiện nay phải thực hiện nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa thì giai cấp tư sản dân tộc không còn thuộc vào khối nhân dân nữa; các nhà tư sản dân tộc sẽ thuộc vào hàng ngũ nhân dân trong điều kiện họ tự nguyện tự giác từ bỏ quyền lợi giai cấp cố hữu của họ là chiếm giữ làm tư hữu những thủ đoạn sản xuất, bóc lột thặng dư giá trị của sức lao động công nhân. Nhà sử học Boutenko định nghĩa:
« N hân dân là một cộng đồng thể nhân loại cứ theo quá trình tiến triển lịch sử của xã hội mà biến đổi và gồm những bộ phận, những tầng lớp, những giai cấp trong toàn số cư dân, do vị trí khách quan mà có khả năng tham dự chung vào việc giải quyết những nhiệm vụ của sự phát triển tiến bộ và cách mạng đề ra cho một xứ nhất định, ở một thời kỳ nhất định ».
Theo định nghĩa này thì trong xã hội phong kiến, nhân dân bao gồm: những nông dân (cố, bần, trung, phú), thợ và chủ thủ công, dân nghèo, thương nhân. Đặc biệt trong thời phong kiến lãnh chủ thì bọn tiểu địa chủ bóc lột tá điền cũng phải được coi là một thành phần của nhân dân (ý kiến ông Trần đức Thảo), vì bọn ấy không có đặc quyền chính trị và tổ chức võ trang, dễ bị bọn quý tộc áp bức. Khối nhân dân đó ta vẫn thường gọi là các tầng lớp bình dân để đối lập với giai cấp quý tộc thống trị. Các tầng lớp này có nhiệm vụ và khả năng làm phát triển xã hội phong kiến từ hình thái phân quyền đến hình thái quốc gia tập quyền; rồi cùng với đà phát triển của kinh tế hàng hóa mỗi ngày một mạnh, các tầng lớp ấy sẽ tiến hành đấu tranh giải thế chế độ phong kiến, mở đường cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất chủ yếu của xã hội.
Những tác gia và tác phẩm văn học nào, trong thời đại phong kiến, biểu hiện được trung thực ý chí đấu tranh của các tầng lớp bình dân , nguyện vọng và khí phách của họ, có tác dụng giáo dục họ theo hướng phản phong, là những tác gia và tác phẩm bình dân . Có những nhà văn lớn xuất thân ở giai cấp quý tộc thống trị, tuy không phải là những nhà tư tưởng của quần chúng cần lao bị bóc lột và áp bức mà vẫn là những thiên tài bình dân vì tác phẩm của các nhà văn ấy phục vụ đắc lực sự phát triển tiến bộ và cách mạng của xứ sở, của toàn thể khối bình dân chống phong kiến mưu cầu giải phóng (thí dụ: Nguyễn Du). Danh từ bình dân , ở đây, chỉ một tính chất của nội dung tư tưởng, của hình tượng nghệ thuật, của tác dụng xã hội hơn là thành phần giai cấp của tác giả hay trình độ nghệ thuật. Như vậy thì nhiều tác phẩm cổ điển của văn học Việt-nam thời phong kiến đều có bình dân tính (theo lối nói bây giờ là có nhân dân tính), mặc dầu không phải do những người bình dân sáng tạo ra. Và cũng có tác phẩm của chính người bình dân làm ra mà lại không có bình dân tính vì nhiễm phải ảnh hưởng của ý thức hệ quý tộc.
Bởi những lẽ trên, khái niệm văn học bình dân không thể dùng để gọi văn học của người bình dân sáng tạo ra , cũng không thể dùng để chỉ một trình độ nghệ thuật . Văn học bình dân là một dòng văn học, một phạm trù sáng tác phẩm mà tính chất duy nhất là đối lập với giai cấp thống trị trong căn bản, và tác dụng khách quan duy nhất là thúc đẩy sự phát triển tiến bộ, cách mạng của xã hội phong kiến có lợi cho các tầng lớp bình dân. Vì vậy, không thể dùng khái niệm «văn học bình dân» để chỉ văn học truyền khẩu đơn thuần , hoặc văn học truyền khẩu và các tác phẩm chữ Nôm ở trình độ nghệ thuật thấp kém, hoặc các áng văn không phải là cổ điển .
II. ĐỊNH NGHĨA VĂN HỌC DÂN GIANVăn học dân gian là một phạm trù khác với văn học bình dân. Trong bài nói chuyện của Chủ tịch Mao Trạch Đông ở Diên an về văn học và nghệ thuật, có đoạn:
«Trong sự sinh hoạt của nhân dân, bao giờ cũng có một kho tàng về văn học… Nó là những hình thái tự nhiên, tuy thô sơ nhưng lại linh động nhất, phong phú nhất, căn bản nhất. Nó là nguồn gốc duy nhất vô cùng, vô tận của văn học… ở hình thái gọt gi ũa… Văn học, dưới hình thái tự nhiên, tuy là nguồn duy nhất của văn học dưới hình thái quan niệm, tuy có một nội dung linh động, phong phú nhiều hơn văn học dưới dạng hình thái quan niệm, nhưng nhân dân vẫn chuộng văn học dưới hình thái quan niệm, chứ không thích văn học dưới hình thái tự nhiên… Tại vì tuy hai thứ cùng đẹp cả, nhưng văn học gọt gi ũa rồi bao giờ cũng có tính chất tổ chức hơn, tập trung hơn, điển hình hơn, lý tưởng hơn văn học tự nhiên, vì vậy mà có tính chất phổ biến hơn…»
Về văn học gọt giũa, Chủ tịch Mao Trạch Đông lại căn cứ vào trình độ các hạng độc giả và nhiệm vụ của văn học cách mạng mà chia ra làm ba hạng:
- Hạng phổ cập: « Văn học phổ cập và văn học nâng cao đều là những thứ văn học đã gọt gi ũa qua rồi. Vậy giữa hai thứ đó còn có gì khác nhau? Có khác nhau về trình độ. Văn học phổ cập là văn học gọt gi ũa ít hơn, thô thiể n hơn, vì vậy mà đông đảo quần chúng nhân dân lúc này có thể tiếp thu được mau hơn… »
- Hạng nâng cao tương đối: « P hát triển từ cơ sở văn học quần chúng trình độ thấp (không phải là thấp về ý vị, hứng thú), cần thiết cho các cán bộ trong quần chúng… Các bộ là những phần tử tiên tiến của quần chúng… Năng lực hấp thụ của họ cao hơn quần chúng, vì vậy họ không thể nào vừa lòng với công tác phổ cập cùng một trình độ với quần chúng nữa» .
- Hạng nâng cao tuyệt đỉnh, cả về tư tưởng và nghệ thuật, có tính tổ chức cao độ, tính tập trung cao độ, tính điển hình cao độ, tính lý tưởng cao độ, và nhờ thế mà có tính phổ biến cao độ.
Cả ba hạng văn học ấy, cao thấp có khác nhau… đều «phục vụ đông đảo nhân dân», «giúp đỡ quần chúng thúc đ ẩ y lịch sử tiến lên» đều có nhân dân tính, đều là văn học nhân dân cả.
Tất nhiên, thời xưa, những người làm văn không thể có ý thức rõ rệt là mình cần gọt giũa tác phẩm đến mức này để hợp với trình độ của loại độc giả này, hoặc phải gọt giũa cao hơn chút nữa để phục vụ loại độc giả có trình độ cao hơn, nhằm thực hiện từng nhiệm vụ đấu tranh của nhân dân ở từng giai đoạn. Nhưng đứng về phương diện trình độ nghệ thuật của bản thân tác phẩm văn học, ta cũng có thể chia các công trình sáng tác ra làm bốn hạng:
- Hạng văn học ở hình thái tự nhiên
- Hạng văn học gọt giũa ở mức thấp (phổ cập)
- Hạng văn học gọt giũa ở mức độ tương đối cao
- Hạng văn học ở hình thái quan niệm hoàn chỉnh.
Văn học dân gian chính là hạng văn học ở hình thái tự nhiên , «tuy thô sơ nhưng lại linh động nhất, phong phú nhất, căn bản nhất… nguồn gốc duy nhất vô cùng vô tận của văn học ở hình thái quan niệm», hoàn toàn do những người không làm văn chuyên nghiệp trong dân gian ngẫu cảm làm ra một cách ứng khẩu nhất thời, chủ yếu nhờ phương tiện truyền miệng mà lan rộng đến mọi người ở khắp nơi, người này sáng tạo rồi người khác lại thay đổi đi chút ý cho hợp với yêu cầu của từng địa phương hay từng trường hợp, do đó biến thành văn học tập thể sáng tác, văn học vô danh.
Để hiểu văn học dân gian, chúng ta còn phải chú ý đến những điểm sau đây:
1 ) Tác phẩm khuyết danh và tác phẩm vô danh là hai phạm trù sáng tạo văn học khác hẳn nhau . Tác phẩm khuyết danh là một công trình sáng tạo gọt giũa có cá tính của một nhà văn tự giấu tên mình đi (vì một lý do nào đó) hoặc tên tuổi bị thất lạc (vì những biến cố xã hội tàn phá đi di sản văn học). Còn tác phẩm vô danh là một công trình sáng tạo tự nhiên, không gọt giũa – như chất quặng đào ở dưới đất lên – dần dần qua không gian và thời gian bị nhiều người sửa chữa, thêm thắt, biến đổi tùy hoàn cảnh, không bao giờ ở yên một hình thức hoàn thành, mang một tính cách tập thể phức tạp, đến nỗi người nào khai sinh ra nó lúc đầu giá có biết đến hình thức cuối cùng nhất thời của nó cũng sẽ không còn nhận được ra là đã do mình làm ra nữa. Vô danh, ở đây, là phi cá tính. Vô danh là đặc tính loại biệt của văn học dân gian. Văn học dân gian là sản phẩm của trí tuệ dân gian tập thể.
2 ) Văn học dân gian, ở hình thức truyền khẩu, thường thường khác (ít hoặc nhiều) văn học dân gian bị ghi lại bằng chữ viết. Ở hình thức truyền khẩu, nghĩa là không cố định, nó khoác trên mình nó những biến thái do nhiều người ở các địa phương khác nhau, các thời đại khác nhau, các cảnh ngộ khác nhau tạo ra. Vì vậy mà mỗi chuyện cổ, mỗi bài ca dao thường thường có nhiều thuyết bản dị biệt. Nhưng đến lúc có một nhà văn dùng chữ viết ghi một áng văn truyền khẩu, giấy trắng mực đen, thì tất yếu nó bị cá tính và ý thức chủ quan của nhà văn ấy sửa đổi lần cuối cùng và từ đấy nó thành một hình thức cố định. Thí dụ: chuyện Trọng-Thủy-Mỵ-Châu; theo nhân dân vùng Cổ-loa kể lại cho nhau thì sau khi An dương-vương và Mỵ Châu chết, Trọng Thủy đâm ra thờ thẫn ngày đêm lang thang và cuối cùng bị oan hồn Mỵ Châu hiện lên dìm chết ở giếng. Nhưng khi dùng chữ viết ghi chuyện thì nhà văn Vũ Quỳnh (thế kỷ XV) lại chép là Trọng Thủy buồn phiền đến tự tử ở giếng và những ngọc trai bể Đông do máu Mỵ nương kết tinh thành đem về rửa bằng nước giếng ấy sẽ trong sáng gấp bội phần. Một kết thúc báo oán rửa hờn đã biến thành một mối oan tình thắm thiết của hai tâm hồn quấn quýt, tìm gặp lại nhau trong hình ảnh «ngọc trai nước giếng». Vì có hiện tượng sửa đổi này cho nên nhà nghiên cứu không thể ỷ cậy hoàn toàn vào hình thức «ghi bằng chữ viết» của văn học truyền khẩu, coi đó là tài liệu duy nhất còn lưu lại.
3 ) Văn học dân gian, bị truyền khẩu, lại luôn luôn bị sửa đổi, nên không có thời điểm tính rành rọt (trừ một số ít mà đề liệu, nội dung và ngôn ngữ thuộc vào một giai đoạn lịch sử chính xác) . Nói chung thì toàn bộ văn học dân gian phản ánh từng hình thái lịch sử xã hội rõ rệt hơn là một thời gian lịch sử cục hạn. Hình thái lịch sử phong kiến đẻ ra một văn học dân gian của nó. Hình thái lịch sử nô lệ hay hình thái lịch sử tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra một văn học dân gian khác. Do đó, văn học dân gian, trong bộ văn học sử dân tộc, nên được sắp xếp thành một bộ phận lớn ở từng hình thái lịch sử của dân tộc , không phân chia thành thời kỳ hay giai đoạn nhỏ. Tuy vậy ở, mỗi thời kỳ hay giai đoạn văn học sử, nếu có những câu tục ngữ bài ca dao hay chuyện cổ mang dấu vết cụ thể của lịch sử tính, thì ta sẽ dùng những tài liệu hãn hữu ấy để soi sáng nền văn học gọt giũa đồng thời. Thí dụ: chuyện Cống Quỳnh. Bản thân những sự việc trong câu chuyện cho ta biết nó xuất hiện khoảng giữa thế kỷ XVIII. Ta sẽ phân tích nó như một tác phẩm văn học dân gian của giai đoạn lịch sử này; nó sẽ giúp ta hiểu được khá sâu sắc tinh thần chống phong kiến-chủ yếu là chống tập đoàn chúa Trịnh – của nhiều tác phẩm gọt giũa cùng thời.
4 ) Nói rằng văn học dân gian là văn học ở hình thái tự nhiên không có nghĩa là nó do bản năng dân gian sáng tạo ra , như một số người lầm tưởng. Karl Marx có nói rằng con người khác hẳn loại vật là ở chỗ khi bắt đầu lao động thì con người đã có sẵn trong trí tưởng tượng cái kết quả, cái hình thái lao động phẩm mà hắn cố gắng đạt kỳ được. Marx viết:
«… Cái phân biệt hẳn người kiến trúc sư dở nhất với con ong giỏi nhất là chỗ người kiến trúc sư xây dựng tổ của mình trong đầu óc trước khi xây dựng nó trong thực tế… Không phải con người lao động chỉ biến hình đổi dạng những nguyên liệu thiên nhiên mà hắn còn đồng thời thể hiện một mục đích riêng, có ý thức. Mục đích này quyết định phương thức hoạt động của hắn như một quy luật mà ý chí hắn phải tuân theo».
Có sự tham gia sáng tạo của lý trí, của trí tưởng tượng, của ý chí, của ý thức về một mục đích rõ rệt, lao động của con người không thể chỉ là công việc của bản năng. Có điều, ở dân gian thì sự vận dụng lý trí trừu tượng ít hơn cảm giác và trí tưởng tượng. Nói rằng dân gian sáng tác văn học bằng bản năng là không hiểu gì về quá trình lao động của con người. Nói văn học dân gian là văn học tự nhiên không phải là phủ nhận tư tưởng tính và tổ chức tính của những tác phẩm dân gian . Nói thế chỉ có nghĩa là ở văn học dân gian, tư tưởng tính chưa được trải qua một công trình khái quát trừu tượng, và tính tổ chức còn ở trạng huống thô sơ, mộc mạc, chưa được quan niệm hóa sâu sắc. Có như vậy, văn học tự nhiên của dân gian mới có thể là «nguồn gốc duy nhất vô cùng vô tận của văn học ở hình thái quan niệm » . (Mao Trạch Đông)
*
Để kết luận chương sách này, chúng tôi đề nghị:
1) Không dùng danh từ văn học bình dân để chỉ văn học truyền khẩu và những tác phẩm khuyết danh ít nghệ thuật tính. Văn học bình dân không phải đơn thuần là một loại văn học do nhà văn ở tầng lớp bình dân sáng tác ra. Nó cũng không phải là một thứ hạng văn học. Nó chủ yếu là một tính chất, một truyền thống bao gồm mọi tác phẩm văn học – không kể truyền khẩu hay chữ viết, có tên tác giả hay khuyết danh; không kể thành phần giai cấp của tác giả – có tác dụng thúc đẩy xã hội phong kiến tiến lên, có lợi cho các tầng lớp bình dân. Văn học bình dân là văn học nhân dân trong thời đại phong kiến. Nó đối lập với văn học chính thống của giai cấp địa chủ quý tộc.
2) Dùng danh từ văn học dân gian để gọi và chỉ để gọi toàn bộ văn học truyền khẩu vô danh, do trí tuệ dân gian tập thể sáng tạo ra, không mang dấu vết duy nhất của một cá tính nhà văn rõ rệt, tư tưởng tính và tổ chức tính còn ở hình thái tự nhiên, hình dạng diện mạo không cố định, luôn luôn có thể bị sửa đổi tùy theo từng địa phương, từng thời gian, từng cảnh ngộ, cho đến lúc cáo chung cái hình thái lịch sử xã hội sản xuất ra nó.
3) Trong bộ văn học sử Việt-nam, văn học dân gian, xét theo nội dung, xuất hiện trên cơ sở của hình thái lịch sử xã hội nào thì sắp xếp thành một khối lớn mang đặc tính của hình thái ấy, không dàn theo trật tự các thời kỳ và giai đoạn lịch sử, vì thời điểm xuất hiện của từng bài ca dao, từng chuyện cổ, v.v… không thể xác định được; trừ một số ít văn thơ truyền khẩu biết đích xác ở vào thời kỳ nào, nhà văn học sử sẽ đặt vào thời kỳ ấy để làm cơ sở cho sự tìm hiểu văn học gọt giũa.
4) Nghiên cứu những sự kiện văn học dân gian, cần cố gắng tìm hiểu các thuyết bản truyền khẩu lưu hành trong nhân dân đem đối chiếu với thuyết bản được ghi lại bằng chữ viết trong sách vở, so sánh, phê phán, tìm hiểu, phát hiện những điểm nhất trí và nhũng điểm mâu thuẫn hoặc sai biệt trong các thuyết bản; như vậy mới có thể nắm được thực chất của từng sự kiện. Theo ý chúng tôi, lập một Viện nghiên cứu văn học dân gian , hiện nay, là một công việc rất cần thiết và hữu ích cho sự nghiên cứu văn học sử Việt-nam.