Chương BA VĂN HỌC CỔ ĐIỂN
Trong lịch sử văn học Việt-nam, có giai đoạn văn học cổ điển không? Những tác gia và tác phẩm nào được liệt vào hạng văn học cổ điển? Giai đoạn văn học cổ điển bắt đầu từ năm nào? kết liễu năm nào? Lấy tiêu chuẩn nào để quyết định tính cách cổ điển của giai đoạn ấy? của những tác giả và tác phẩm được liệt vào hạng ấy? Văn học cổ điển Việt-nam có những đặc điểm gì khác với văn học cổ điển khác nước trên thế giới hay không? Có những điểm nào giống? Thí dụ, ở Pháp, văn học lãng mạn đến sau và đối kháng với văn học cổ điển. Ở ta, có tình trạng ấy không? Tại sao những Chinh phụ ngâm, Đoạn trường tân thanh, thơ Hồ Xuân Hương có lãng mạn tính phong phú lại vẫn được liệt vào văn học cổ điển? Chúng ta ngày nay có thể thống nhất nhận định về văn học cổ điển Việt-nam trên cơ sở nào?
Đó là những vấn đề mà các nhà văn học sử Việt-nam hiện nay không thể không đặt ra để giải quyết. Nếu những vấn đề ấy chưa được giải quyết đúng đắn và dứt khoát thì công việc biên tập cũng như công việc giảng dạy văn học sử Việt-nam ở các trường Trung học và Đại học sẽ còn vấp phải những bối rối không thanh toán được.
I. HIỆN TRẠNG VẤN ĐỀĐiểm lại một số sách Văn học sử Việt-nam đã xuất bản, ta thấy:
1) VIỆT-NAM VĂN HỌC SỬ YẾU CỦA DƯƠNG QUẢNG HÀMTrong bộ VIỆT-NAM VĂN HỌC SỬ YẾU CỦA DƯƠNG QUẢNG HÀM 58 không có giai đoạn nào, tác giả nào, tác phẩm nào được mệnh danh là cổ điển cả. Tác giả chia lịch sử văn học theo triều đại, theo hình thức văn tự (chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ) tuyệt nhiên không căn cứ vào một lý luận nào cả. Sách soạn không có hệ thống, không có phương pháp, hoàn toàn theo trật tự phi lý của chương trình văn học sử Việt-nam dạy ở ban Trung học Đông Pháp hồi Pháp thuộc và dựa vào « huấn lệnh của quan Đông Pháp học chánh giám đốc về việc dạy các tiếng Viễn đông đăng trong Học chánh phổ thông tập san số tháng hai tây năm 1938, phần phổ thông trang 175-179» như đã in ở trang đầu bộ Việt-nam văn học sử yếu. Danh từ «văn chương cổ điển» chỉ được dùng đến có một lần để tiêu đề chương thứ nhất của thiên thứ hai (trang 22): đó là những sách Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Sơ học vấn tân, v.v… tức là «các sách giáo khoa cũ để học chữnho».
2) VIỆT-NAM VĂN HỌC SỬ TRÍCH YẾUTrong bộ VIỆT-NAM VĂN HỌC SỬ TRÍCH YẾU của Nghiêm Toản 59 một bản dọn lại của bộ Dương quảng Hàm, cũng tuyệt nhiên không nói đến văn học cổ điển Việt-nam. Tác giả chia lịch sử văn học của dân tộc theo chữ viết và triều đại y hệt Dương quảng Hàm; sáng kiến của tác giả là gọi văn học chữ Nôm và chữ quốc ngữ là «văn học vừa bình dân vừa bác học», và nêu ra ở bài tựa một lập trường:
«Văn học là phản ánh của xã hội, do tự dân chúng phát sinh và phải luôn luôn quay về dân chúng mới đủ năng lực trưởng thành; văn học Việt-nam theo hai động lực phát triển nhịp nhàng: tranh đấu và dân chúng hóa».
Tác giả tuyên bố là soạn bộ Việt-nam văn học sử trích yếu theo lập trường ấy; nhưng trong thực tiễn biên tập, tác giả đã quên mất lập trường.
3) VĂN HỌC SỬ VIỆT-NAM THẾ KÝ XIXTrong bộ VĂN HỌC SỬ VIỆT-NAM THẾ KÝ XIX 60 của hai ông Nguyễn tường Phượng và Bùi hữu Sủng, biên soạn tương đối có hệ thống hơn các bộ kia, ở mục khái quát tập Tiền bán thế kỷ thứ XIX, có viết:
« Năm 1862, nước Pháp chiếm cứ Nam kỳ rồi đô hộ nước ta; biến cố lớn lao ấy không những chấm dứt thời kỳ tự chủ của dân tộc ta (939-1862) mà còn làm rung động hệ thống tư tưởng và văn chương cổ điển Việt-nam» .
Ở mục khái quát tập Hậu bán thế kỷ XIX, lại thấy viết:
«Từ năm 1862 trở đi, dân tộc ta mất chủ quyền, giai cấp nho sĩ từ địa vị thống trị trụt xuống địa vị bị trị rồi dần dần lùi bước… Từ năm 1862 trở đi tư tưởng cổ điển (tư tưởng Nho đượm mầu tư tưởng Lão Phật) bị sụp đổ trước sức tấn công của tư tưởng tây phương…»
Rồi hai tác giả mệnh danh thời kỳ 1862-1910 là «thời kỳ tan rã của văn chương cổ điển, tức là hậu bán thế kỷ thứ XIX». Ở phần Tổng kết tập Hậu bán thế kỷ thứ XIX, hai ông viết «Nền đô hộ Pháp thiết lập vững, giai cấp sĩ phu bị gạt ra ngoài sân khấu xã hội Việt-nam; theo gót các ông, văn chương cổ điển cáo chung và lui về quá khứ» .
Theo những lời dẫn ra đó thì hai ông Nguyễn tường Phượng và Bùi hữu Sủng cho rằng:
- Văn học cổ điển Việt-nam từ 1862 trở đi bị tan rã.
- Văn học cổ điển Việt-nam có liên hệ mật thiết với ưu thế chính trị và xã hội của «giai cấp sĩ phu», của «tư tưởng Nho đượm mầu tư tưởng Lão, Phật».
- Đến lúc giai cấp sĩ phu bị gạt ra ngoài sân khấu xã hội và tư tưởng Nho đượm mầu Lão phật sụp đổ trước sức tấn công của tư tưởng Tây Phương thì «văn chương cổ điển… cáo chung và lui về quá khứ».
Điều mà hai ông không nói rõ là văn học cổ điển Việt-nam (theo sự hiểu của hai ông) bắt đầu từ bao giờ (phải chăng là từ đầu thế kỷ XIX?) để rồi bị tan rã sau 1862? Hay là toàn bộ văn học do giai cấp sĩ phu làm ra bằng tư tưởng cổ điển (Nho đượm Lão Phật) trước 1862 đều là văn học cổ điển Việt-nam? Xem vậy, khái niệm «văn học cổ điển», trong tư tưởng hai ông Nguyễn tường Phượng và Bùi hữu Sủng, vẫn còn mơ hồ chưa được xác định.
4 ) LƯỢC THẢO LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT-NAMGần đây, trong bộ LƯỢC THẢO LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT-NAM của nhóm Lê Quí Đôn, các tác giả đã cho thời kỳ từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX là thời kỳ văn học cổ điển của Việt-nam:
« Thời kỳ từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX, nhất là giai đoạn sau từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, là thời kỳ phát triển nhất của văn chương cổ điển Việt-nam… Nền văn học đó, về nội dung, có giá trị hiện thực và nhân đạo; về hình thức có tính chất dân tộc và tính chất nhân dân ». (Tập II, trang 9)
Các tác giả bộ Lược thảo xếp số lớn các truyện Nôm khuyết danh, như: Nhị độ mai, Phan Trần, Bích câu kỳ ngộ, Quan âm Thị Kính, Phạm Công – Cúc hoa, Tống Trân, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Phương Hoa, Nữ tú tài, Bần nữ thán, Lục súc tranh công… vào hạng văn học cổ điển. Theo ý kiến của tác giả đó thì những tác phẩm khuyết danh này lại còn giá trị hơn cả những Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Truyện Kiều của Nguyễn Du (xem mục Chương mở đầu và Phần thứ tư, tập II, trang 180-188). Sự sắp xếp của nhóm Lê Quí Đôn đã gây nhiều thắc mắc. Theo tiêu chuẩn của nhóm ấy đưa ra «văn học cổ điển… về nội dung, có giá trị hiện thực và nhân đạo, về hình thức có tính chất dân tộc và tính chất nhân dân ») nhiều người sẽ ngạc nhiên thấy một tác phẩm như Trê Cóc không được coi là cổ điển mà Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hãng lại được liệt vào văn học cổ điển, hoặc Đại Nam quốc sử diễn ca được coi là một áng văn cổ điển (hiện thực tính? nhân đạo tính? nhân dân tính?) mà Trinh thử hay Thơ Lê Thánh Tông lại không là cổ điển, v.v…
Đó là hiện trạng của vấn đề. Theo ý chúng tôi, sở dĩ các nhà văn học sử nói trên hoặc không quan niệm có văn học cổ điển Việt-nam (Dương quảng Hàm, Nghiêm Toản) hoặc thừa nhận có nhưng nhận định và biên tập còn luộm thuộm, mơ hồ, là bởi chưa giới thuyết đúng khái niệm «Văn học cổ điển».
II. XUẤT XỨ VÀ NỘI DUNG LỊCH SỬ CỦA KHÁI NIỆM VĂN HỌC CỔ ĐIỂN CHỦ NGHĨAMuốn định nghĩa văn học cổ điển một cách chính xác, phải tìm hiểu những đặc tính cốt yếu của giá trị cổ điển và của chủ nghĩa cổ điển trong lịch sử văn học thế giới ở những nước tiêu biểu nhất. Đó là một công việc vượt quá tầm chương sách này. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra một số điểm cần thiết cho sự giới thuyết căn bản khái niệm văn học cổ điển.
1 ) Riêng ở Âu châu, khái niệm cổ điển nẩy ra trong trào lưu nhân văn chủ nghĩa mà khởi điểm là khoa học nhân văn (khoa nghiên cứu những cổ văn Hy-lạp). Trào lưu này xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XIV và toàn thịnh ở hai thế kỷ XV, XVI, bắt đầu từ nước Ý rồi tràn sang các nước Pháp, Đức, Hà-lan, Anh, v.v… Nguyên là suốt thời Trung cổ ở châu Âu, dưới quyền thống trị độc đoán của Nhà Thờ, tư tưởng bị chìm đắm trong thế giới thần học và kinh viện học. Khoảng thế kỷ XIV, người ta mới phát hiện được những cổ văn La mã trong các tu viện – đặc biệt là tác phẩm của Tacite và Cicéron. Khi thành Constantinople thất thủ (1453), các học giả Hy-lạp phải lánh nạn sang Ý. Họ đem theo những cổ văn Hy-lạp, làm nghề sao chép những cổ văn đó để sinh nhai, mở những lớp dạy tiếng Hy-lạp. Nhờ thế, giới trí thức Ý lúc đó mới được đọc các tác phẩm Hy-lạp viết bằng nguyên văn Hy-lạp. Trong những trường Đại học Padoue (Venise) Học viện Platon (Florence), các nhà tư tưởng Ý say sưa nghiên cứu văn học, triết học cổ Hy-Lạp và đem hết nhiệt tình ra giảng dạy, truyền bá những quan niệm về thế giới, về nhân sinh, về chính trị, về nghệ thuật mà họ mới thu hoạch được. Phong trào nghiên cứu cổ văn Hy-Lạp lan ra khắp châu Âu một cách nhanh chóng. Các học giả ở bốn phương trời kéo đến nước Ý để tìm đọc những nguyên văn Hy-Lạp và khi trở về nước mình lập tức dùng lời nói, ngòi bút, phổ biến rộng rãi «cái nhụy thơm ngát» của những áng văn quý giá ấy. Ở Pháp, ở Đức, ở Hà-lan, ở Anh, v.v… chỗ nào diễn đàn Đại học cũng là nơi truyền bá tư tưởng và nghệ thuật cổ Hy-Lạp. Dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ này, cổ văn Hy-Lạp trở thành môn học cơ bản của rất nhiều trường Đại và Trung học ở nhiều nước châu Âu. Những tác phẩm cổ Hy-Lạp được tôn sùng là những sách dạy con người cách sống chân chính hợp với danh vị người . Những tác phẩm ấy là những tác phẩm cổ điển (classicques). Vì thời đó, môn học chuyên khảo về cổ văn Hy-Lạp gọi là humanités , những người chuyên khảo cổ văn Hy-Lạp gọi là humaniste (ta dịch là nhà nhân văn chủ nghĩa), cho nên cổ điển học cũng là đồng nghĩa với nhân văn học . Cuộc vận động nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu trong những thế kỷ XIV, XV, XVI là một cuộc vận động lấy cổ điển học làm đòn bẩy để « trả lại cho đời người tất cả cái thú vị của sự sống về tất cả các phương diện » (F.Engels). Mục đích tối hậu của nó là: đào luyện con người , một con người toàn diện. Lý tưởng về con người ấy, phải tìm trong những áng văn cổ điển Hy-Lạp. Do đó, khái niệm cổ điển bao hàm hai ý nghĩa chính: nhân văn chủ nghĩa, mẫu mực lý tưởng . Văn học cổ điển Hy-Lạp được đề cao là khuôn vàng thước ngọc trong công cuộc sáng tạo con người lý tưởng, phổ biến.
Sự khám phá ra văn học, nghệ thuật, triết học cổ điển Hy-Lạp đã đẻ ra thời đại văn hóa phục hưng ở châu Âu, «một cuộc biến động tiến bộ vĩ đại nhất mà từ trước đến giờ nhân loại chưa từng thấy» (Engels). Văn hóa cổ Hy-Lạp chứa đựng một nội dung như thế nào mà lại có một tác dụng cách mạng lớn lao đến thế? Tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa ở châu Âu hồi thế kỷ XIV, XV như thế nào mà lại cho phép con người khai thác nội dung ấy có kết quả phi thường như vậy?
Chúng ta đều biết xã hội cổ Hy-lạp và cổ La mã là một xã hội nô lệ chế. Thời ấy, chế độ nô lệ còn là một hình thái xã hội tiến bộ làm phát triển sức sản xuất.
« Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong nông nghiệp và công nghiệp, mới xây d ự ng được sự phú túc của nước Hy lạp cổ. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy-lạp, không có khoa học nghệ thuật Hy lạp. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng sẽ không có nước La mã ». (Engels: Anti-Duhring)
Đặc điểm của xã hội Hy lạp là nhờ những điều kiện riêng biệt, công thương nghiệp phát triển khá cao và tập trung ở một số thành thị đông đúc. Bởi vậy, bên cạnh những cuộc đấu tranh gay gắt, phức tạp, giữa giai cấp chủ nô quý tộc và giai cấp nô lệ, giữa tầng lớp phú hào và các tầng lớp dân nghèo tự do, dân cầy, dân thủ công, ngay trong hàng ngũ thống trị lại xuất hiện sự mâu thuẫn giữa bọn chủ nô quý tộc và bọn chủ nô không phải quý tộc gồm các loại buôn lớn, tiểu thương, hạng cho vay lãi (bọn này càng ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế). Thời thịnh vượng nhất của cổ Hy lạp là thời bọn chủ nô không phải quý tộc thắng bọn chủ nô quý tộc, xây dựng một quốc gia dân chủ thay thế cho quốc gia quý tộc. Quá trình lớn lên của tầng lớp chủ nô tân tiến, dân chủ, quá trình đấu tranh của nó chống đối và thắng bọn chủ nô quý tộc, quá trình kiến thiết quốc gia dân chủ do tầng lớp ấy chấp hành – tất cả dựa trên cơ sở đấu tranh giai cấp của đông đảo quần chúng nô lệ và dân tự do – cũng là quá trình hình thành của khoa học, triết học, nghệ thuật, văn học cổ điển của Hy-lạp, món ăn tinh thần của châu Âu cận đại sau này. Triết học duy vật và biện chứng, tinh thần nghiên cứu khoa học tự nhiên vượt khỏi gông cùm thần bí chủ nghĩa, tư tưởng duy lý, sự tôn trọng nhịp điệu hài hòa trong việc đào luyện con người toàn diện (đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục) – «kiến tạo những hình thức của cá thể tính đẹp» (Hégel) – ý niệm và thực tiễn dân chủ trong việc quản trị quốc gia, sự sùng thượng cái Đẹp muôn vẻ, sự chú trọng đặc biệt đến mỹ tính hoàn toàn của hình thức nghệ thuật, ý thức cá nhân chủ nghĩa (con người hành động theo xét đoán của lương tâm mình, không để sức áp chế nào bên ngoài khuất phục), quan niệm người công dân (cả về nhiệm vụ lẫn quyền lợi), luân lý; sống theo tự nhiên (không kiềm chế một năng khiếu nào trong con người) và tận dụng nghị lực cá nhân – bấy nhiêu yếu tố đã cấu thành cái nội dung cơ bản của nền văn hóa cổ điển Hy lạp mà sau này La mã kế tục thể hiện với tinh thần chuộng trật tự, chuộng pháp lý, chuộng thực tế của nó. Bấy nhiêu yếu tố đã được phục hưng lại ở Âu-châu trong những thế kỷ XV, XVI và đã tạo ra «sự biến động tiến bộ vĩ đại của nhân loại» mà Engels đã nói.
Ý nghĩa lịch sử của phong trào Văn hóa phục hưng đã được Engels nhận định đầy đủ và sâu sắc trong bài tựa cuốn Biện chứng pháp của tự nhiên như sau :
«Vương triều dựa vào thị dân đã phá tan thế lực của quý tộc phong kiến và sáng lập những quốc gia quân chủ lớn hoàn toàn lấy dân tộc làm cơ sở; trong khuôn khổ những quốc gia này, những dân tộc cận đại Âu châu phát triển đồng thời với xã hội tư sản cận đại; trong lúc thị dân và quý tộc xung đột nhau như vậy, chiến tranh nông dân ở Đức báo hiệu những cuộc đấu tranh giai cấp tương lai; trên sân khấu chính trị không những nông dân tham gia đấu tranh – điều này không có gì lạ – mà đằng sau nông dân, đã hiện ra những tiền bối của giai cấp vô sản sau này, tay gi ơ cao lá cờ đỏ và miệng gào thét đòi công cộng hóa tài sản.
« Trong những bản thảo còn giữ lại được sau khi Byzance thất thủ, trong những tượng cổ phát hiện ra ở các di tích của La mã, một thế giới mới hiện ra trước con mắt ngạc nhiên của Tây phương: thế giới cổ Hy-lạp; những hình thức rực rỡ của nó phá tan những bóng ma trung cổ. Nước Ý sản sinh ra một sự thịnh vượng nghệ thuật không ai ngờ được, tưởng như l à ánh hồi chiếu của văn hóa cổ điển, sự thịnh vượng mà về sau không nước nào đạt tới được. Ở Ý, Pháp, Đức, xuất hiện một nền văn học mới, nền văn học cận đại đầu tiên trong lịch sử. Anh, Tây ban nha, sau đó ít lâu, cũng sáng tạo ra được một thời văn học cổ điển…
« Lần đầu tiên con người thực sự khám phá ra trái đất; đó là cơ sở của mậu dịch thế giới sau này; thủ công nghiệp chuyển sang công trường thủ công làm điểm xuất phát cho đại công nghiệp cận đại. Sự chuyên chế tinh thần của Nhà thờ bị phá vỡ; đa số các dân tộc Nhật nhĩ mãn li khai hẳn với Nhà thờ và theo Cải lương giáo; còn những dân tộc R omans, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ả rập và cổ Hy lạp, càng ngày càng bồi dưỡng tinh thần tự do tư tưởng thêm sâu sắc, chuẩn bị mở đường cho triết học duy vật thế kỷ XVIII.
« Đó là một cuộc biến động tiến bộ lớn lao nhất của loài người từ trước đến giờ, một thời đại cần đến những thiên tài khổng lồ ở các lãnh vực, tư tưởng, dục v ọ ng, tính khí, khổng lồ vì khả năng nhiều mặt và trí thức của họ… Óc phiêu lưu của thời đại tác động ít hoặc nhiều đến họ. Thời ấy, ít thấy có một nhà văn hóa nổi tiếng nào mà lại không từng du lịch nhiều, biết bốn năm sinh ngữ, thành tựu ở nhiều chuyên môn. Léonard de Vinci không những chỉ là một họa sĩ mà còn là nhà số học, nhà cơ khí học, nhà kỹ sư xuất chúng đã cống hiến khá nhiều công trình khám phá cho nhiều ngành của vật lý học. Albert Durer là họa sĩ, điêu khắc, thợ chạm khắc, kiến trúc sư và lại sáng chế ra một hệ thống thuật xây thành lũy có nhiều ý kiến về sau được Montalembert phát triển và đem áp dụng vào những công trình xây thành lũy cận đại của nước Đức. Machiavel là nhà chính trị, sử gia, thi sĩ và đồng thời là nhà văn quân sự đầu tiên xứng với danh hiệu ấy của thời cận đại. Luther không những chỉ quét sạch những cái bẩn thỉu của Nhà thờ mà còn đem trật tự đến cho ngôn ngữ Đức, sáng tạo ra tản văn Đức, sáng tác cả lời lẫn nhạc bài ca Thượng đế của chúng ta là một thành trì kiên cố đã trở thành bài Marseillaise của thế kỷ XVI.
« Những anh hùng của thời đại này chưa bị lệ thuộc vào sự phân công lao động hạn chế hoạt động của con người trong một phạm vi nhất định như các nhà văn hóa kế tiếp họ. Những cái đặc tính chủ yếu của họ là hầu hết đã lăn mình vào dòng thời đại, thường xuyên tham gia đấu tranh thực tiễn, đứng về phe này hay phe khác, và lãnh đạo cuộc đấu tranh, kẻ này bằng lời nói và ngòi bút, kẻ kia bằng gươm giáo, thường thường bằng cả hai loại khí giới ấy. Nhờ thế mà con người họ tràn đầy sinh lực, có khí phách lớn, khiến họ thành những con người trọn vẹn » . 61
Ta có thể rút ở ý kiến của Engels ra mấy nhận xét và diễn dịch sau đây:
a) Miếng đất tiếp thu và dinh dưỡng văn hóa cổ điển Hy-Lạp, ở châu Âu hồi văn hóa phục hưng, là một trạng thái xã hội trong đó sự sản xuất kinh tế đã bước vào thời kỳ đầu của phương thức tư bản chủ nghĩa ; giai cấp tư sản, động lực tích cực của sự tiến bộ ấy, đã thành hình và đang gặp điều kiện tốt để kiến lập một thị trường dân tộc.
b) Sự khám phá ra cổ đại Hy-Lạp xuất hiện đúng lúc các dân tộc tư sản châu Âu đủ điều kiện để thành hình và đang đi tìm những lý thuyết chủ đạo cho công cuộc kiến thiết quốc gia nhằm mở đường cho sức sản xuất kinh tế tư bản chủ nghĩa tiến lên. Những tư tưởng văn học, nghệ thuật, hình thức, quản trị nhà nước của cổ Hy lạp – La mã rất thích hợp với yêu cầu phát triển của xã hội ở nhiều nước châu Âu – chủ yếu là yêu cầu phát triển của giai cấp tư sản đang lớn.
c) Cái mà Engels gọi là văn học cổ điển , ở châu Âu hồi văn hóa phục hưng, là một văn học cận đại , của những dân tộc cận đại, chủ yếu và căn bản do giai cấp tư sản xây dựng , để chống phong kiến và tự thể hiện, bằng cách mô phỏng văn học cổ đại Hy-Lạp được coi là mẫu mực hoàn toàn. Nội dung và hình thức của nền văn học dân tộc ấy là hồi quang của văn học cổ đại Hy-Lạp. Tác dụng của nó là phá đổ những cái gì cản đường tiến thủ của giai cấp tư sản và của xã hội đang chuyển sang hình thái tư bản chủ nghĩa ở bước đầu, bồi dưỡng tư tưởng và tình cảm cho con người tư sản theo hướng: tự do cá nhân chủ nghĩa, dân chủ, duy lý chủ nghĩa, dũng cảm truy cầu chân lý bằng trí tuệ cá nhân, phát triển con người trọn vẹn.
d) Lúc giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc đang cấu kết hoặc đang mâu thuẫn với nhau (mặc dầu nhất thời giai cấp tư sản liên minh với vương triều để xây dựng quốc gia quân chủ và thị trường dân tộc) cũng là lúc cả hai giai cấp bóc lột ấy đã đứng trước sự đe dọa của nông dân và vô sản-những giai cấp này đã bắt đầu chiến đấu cho lý tưởng bản thân của mình. Trong điều kiện lịch sử ấy, giai cấp tư sản sẽ vì vận mệnh riêng của nó mà chủ trương chỉ đồng hóa những nhân tố nào trong văn hóa cổ Hy-Lạp có lợi cho chính mình nó, trong chừng mực lợi chung cho sự phát triển lịch sử của xã hội đang tiến lên tư bản chủ nghĩa. Khái niệm văn học cổ điển (một giá trị) dần dần sai biệt với khái niệm chủ nghĩa cổ điển (một chủ trương văn học) của giai cấp tư sản châu Âu.
2) Tính chất và diện mạo chủ nghĩa cổ điển trong các văn học cận đại châu Âu bị hoàn toàn lệ thuộc vào trình độ phát triển của giai cấp tư sản ở từng nước, vào tương quan lực lượng giữa giai cấp tư sản và các giai cấp khác trong xã hội lúc nó xây dựng văn học cổ điển dân tộc.
Tuy cùng hút tính chất ở cổ văn Hy-Lạp, mỗi dân tộc châu Âu vẫn tạo ra một văn học cổ điển riêng của mình, có nhiều điểm không giống văn học cổ điển các dân tộc khác. Nguyên nhân của hiện tượng này là trình độ phát triển không đều của xã hội cận đại và của giai cấp tư sản ở các nước, châu Âu.
Thế nào là giai đoạn cổ điển của một quốc trình văn học? Bàn về giai đoạn này, hai nhà văn học sử E.Legouis và L.Cazamian đã viết:
«Giai đoạn cổ điển [trong nguyên văn, hai tác giả gọi là «khoảnh khắc cổ điển» T.T.], mặc dầu không thuần nhất theo chúng ta nhìn, mặc dầu nội bộ chứa nhiều cái xung khắc nhau, vẫn là một giai đoạn tương đối thống nhất và có tổ chức. Ở giai đoạn này, những biểu hiện nghệ thuật nhất luật hơn là những cảm hứng. Trong chừng mực mà những trạng thái tâm hồn khác nhau có xu hướng tuân theo một số quy luật biểu hiện đồng nhất hoặc tương tự thì sự nhất trí tinh thần hoàn toàn tương đối của giai đoạn ấy càng s iết chặt lại trong một nhất trí nghệ thuật rõ nét hơn. Đó là đặc điểm của nh ữ ng thời đại mà nghệ thuật tự đi vào con đường kỷ luật và vươn đến sự cố định một quân bình.
« Nghiên cứu những phương tiện, những lý do của khuynh hướng s iết chặt ấy tức là nghiên cứu sự hình thành và ảnh hư ở ng của lý tưởng thật sự cổ điển chủ nghĩa trong văn học. Nghiên cứu rộng ra nữa đến các nhân tố xuyên qua đẩy sự nhất trí kia tựu thành, những nhân tố thuận theo hướng nhất trí cũng như những nhân tố từ chối hướng đó, tức là nghiên cứu bản thân giai đoạn cổ điển». 62
Nhận định này cũng giúp ta hiểu được một vài nét chính của giai đoạn cổ điển. Nhưng đó mới chỉ là xét giai đoạn cổ điển về phương diện hình thức. Vấn đề phải đặt ra là: động lực nào đã tạo ra và thúc đẩy khuynh hướng nhất trí hóa những biểu hiện nghệ thuật? Khuynh hướng nhất trí hóa này có tác dụng xã hội lợi cho giai cấp nào? Hại cho giai cấp nào? Tại sao lại có những nhân tố kháng cự lại khuynh hướng nhất trí hóa? Tại sao có sức kháng cự ấy mà khuynh hướng nhất trí hóa vẫn cứ thắng để làm ra giai đoạn cổ điển? Đó là những câu hỏi thuộc về thực chất xã hội và ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa cổ điển văn học.
Trước hết, văn học cổ điển chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện được trên cơ sở thành hình của một dân tộc. Nó biểu hiện và kết tinh tính chất ưu việt của dân tộc ở một khoảnh khắc trưởng thành ổn định đặc biệt, trong đó dân tộc tính gặp điều kiện tốt nhất để thành tựu một cách quyết định và phong phú.
Goethe đã viết:
«Ở đâu và khi nào thì có thể nẩy ra một nhà văn cổ điển dân tộc? Khi nhà văn ấy, lúc xuất hiện, gặp được, trong lịch sử dân tộc mình, những biến cố lớn và phản hưởng của những biến cố này kết hợp thành một tổng thể thuần nhất và ý nghĩa; khi hắn thấy ở đồng bào tính vĩ đại trong tư tưởng, tính thâm thúy trong tình cảm, tính mãnh liệt và thủy chung như nhất trong hành động; khi chính bản thân hắn tràn đầy tinh thần dân tộc, tự cảm thấy có khả năng, vì có thiên tài, thông cảm với quá khứ cũng như với hiện tại; khi hắn gặp lúc dân tộc đã đạt tới một trình độ văn hóa cao khiến hắn dễ dàng hấp thụ được văn hóa ấy để bồi dưỡng cho trí thức mình. Con người, dù là thiên tài trác việt đến đâu, cũng bị thời đại hạn chế ở một số điểm và cũng khai thác thời đại ở một số điểm khác; và chỉ có dân tộc mới đẻ ra được một đại văn hào dân tộc».
Bởi lẽ ấy: « T a không thể nghiên cứu một nghệ sĩ hay một lưu phái nghệ thuật cắt lìa ra khỏi xứ sở, công chúng nghệ thuật và thời đại của nó. Ta chỉ có thể hiểu và thực sự cảm được văn học một dân tộc khi ta hình dung nổi toàn bộ quá trình sinh hoạt và lịch sử của dân tộc ấy» . (Goethe) 63
Theo Goethe, sự trưởng thành của một dân tộc đến trình độ đẻ ra được nhà văn cổ điển dân tộc biểu hiện ra ở ba nét chính:
- Đã đạt tới một trình độ văn hóa cao.
- Có một tâm lý cộng đồng, một hòa cảm nhất trí về quá khứ và hiện tại.
- Toàn dân có tư tưởng vĩ đại, tình cảm sâu sắc, hành động mãnh liệt và thủy chung như nhất, khi gặp một biến cố lớn quyết định vận mệnh dân tộc.
Đạt tới một trình độ văn hóa cao, ở đây, nghĩa là đã tiến đến mức có khả năng nhận thức, suy nghĩ, hành động một cách duy lý và đã có một ngôn ngữ văn học thành thục đủ sức diễn đạt những tư tưởng vĩ đại, những tình cảm sâu sắc, những phản hưởng của biến cố lịch sử dân tộc trong tâm hồn toàn dân. Riêng về văn học, một ngôn ngữ dân tộc thành thục là điều kiện căn bản để làm xuất hiện một văn hào cổ điển dân tộc. Nếu ngôn ngữ văn học dân tộc còn non nớt thì dù có tư tưởng lớn, tình cảm mạnh, dù trải qua những biến cố quan trọng gây ra những phản hưởng sâu sắc trong tâm lý, một dân tộc cũng chưa đủ điều kiện để sản sinh một thiên tài văn học cổ điển. Như hồi văn hóa phục hưng, sở dĩ cổ văn Hy-Lạp tác dụng ít và chậm đến văn học Anh (hơn là đến văn học Pháp) bởi vì lúc đó ở Anh:
« N gôn ngữ dân tộc chưa thành thục. Văn x uôi thiếu hẳn một truyền thống kiên cố và thiếu những tác phẩm tiền bối kiệt xuất. Những nhà nhân văn chủ nghĩa tài giỏi nhất vẫn phải trước tác bằng tiếng L a tinh. Hai tác phẩm trứ danh của nước Anh thời ấy lừng tiếng khắp châu Âu, là cuốn Utopie của Thomas More và cuốn Instauration magna của F. Bacon, đều viết bằng tiếng L a tinh: đó là một điều rất có ý nghĩa ».
Nước Anh phải kinh qua cả một quá trình đấu tranh Cải lương tôn giáo – muốn được nhân dân ủng hộ, các nhà Cải lương giáo phải viết những ý kiến của mình bằng tiếng Anh cho dễ phổ cập (đầu tiên là dịch Kinh thánh), do đó, mới tạo được những điều kiện văn học làm cơ sở cho giai đoạn cổ điển sau này (giai đoạn này (1702-1740) đến chậm hơn ở Pháp nửa thế kỷ).
Ở châu Âu, động lực xã hội chủ yếu thúc đẩy sự thành hình của dân tộc là giai cấp tư sản. Cho nên, nói: quan hệ giữa văn học cổ điển và sự thành hình dân tộc cũng tức là nói quan hệ giữa văn học cổ điển và sự thành hình của giai cấp tư sản (mặc dầu còn những nhân tố khác tham dự vào sự nghiệp trưởng thành dân tộc). Chính vì thế mà lúc một văn học dân tộc trưởng thành đến trình độ thai nghén ra cổ điển chủ nghĩa bắt gặp giai cấp tư sản của dân tộc ấy đang ở tình trạng tương quan lực lượng như thế nào giữa nó và các giai cấp khác thì tính chất và diện mạo của chủ nghĩa cổ điển văn học sẽ biểu thị giai cấp tư sản ở tình trạng đó. Tùy theo yêu cầu riêng của mình trong những điều kiện lịch sử nhất định, giai cấp tư sản mỗi nước sẽ rút ra, ở những giá trị cổ điển Hy-Lạp, những nhân tố thích hợp với nó, để kiến thiết chủ nghĩa cổ điển văn học lợi cho nó. Nếu cần, nó sẽ còn thay đổi ít nhiều, thêm bớt ít nhiều cái di sản cổ điển Hy-Lạp kia để khỏi xâm phạm đến quyền lợi giai cấp của nó trong một thời gian lịch sử nhất định. Hiện tượng thay đổi, thêm bớt cổ nhân là hiện tượng phổ biến trong lịch sử. Đó là một sự tất yếu chứ không phải là sự hiểu nhầm cổ nhân. Trong bức thư phê bình một cuốn tiểu luận về pháp lý La-mã của Ferdinand Lassalle (xuất bản năm 1861) Marx viết:
«Anh chứng minh rằng hiện giờ người ta làm luật… theo nguyên bản di thư La-mã như thế là hiểu nhầm di thư ấy. Nhưng không phải vì thế mà nói được rằng di thư La-mã, ở hình thức cận đại của nó, là một bản làm ra do sự hiểu nhầm di thư đó. Trong lúc lý hội di thư La-mã để lập ra bản luật hiện nay, dù các nhà pháp lý học cận đại có nhầm lẫn đến thế nào đi nữa, ta cũng không thể nói như vậy được. Nếu không thì người ta sẽ có thể bảo rằng tất cả di sản của một thời đại trước, khi bị thời đại kế tiếp đồng hóa, đều là cái cũ bị hiểu nhầm. Thí dụ: chắc chắn rằng luật tam duy nhất, hiểu theo quan niệm của các nhà soạn kịch Pháp thời Louis XIV, là sự hiểu nhầm kịch Hy-lạp (nhất là hiểu nhầm Aristote, người đã quy thức hóa luật ấy). Nhưng, mặt khác, cũng lại chắc chắn rằng các nhà soạn kịch cổ điển Pháp đã hiểu kịch Hy-Lạp theo một cách hoàn toàn phù hợp với nhu cầu nghệ thuật của bản thân họ. Vì thế cho nên sau khi Dacier và nhiều người khác đã viết sách giải thích đúng đắn Aristote rồi, họ vẫn cứ bám chặt mãi lấy lề lối soạn kịch gọi là «cổ điển» của họ … 64 Hình thức bị hiểu nhầm chính là hình thức phổ biến nhất, và tới một trình độ phát triển nào đó của xã hội, thì điều ấy trở thành thông lệ». (Thư gửi Lassalle ngày 22-7-1861)
Theo quy luật «hiểu nhầm cổ nhân có dụng ý», giai cấp tư sản ở mỗi nước châu Âu đã chiếm hữu những giá trị cổ điển Hy-Lạp một cách có lợi cho nó. Đấy là nguyên nhân của sự khác nhau giữa các chủ nghĩa văn học cổ điển Pháp, Anh, Đức chẳng hạn.
III. VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TÂY PHƯƠNG 1 ) Ở PHÁPLúc sự tiến hóa văn học của dân tộc Pháp đạt tới mức đòi hỏi giai cấp tư sản Pháp phải sáng tạo ra chủ nghĩa cổ điển văn học (giữa thế kỷ XVII) là lúc giai cấp này đang ở thế cấu kết chặt chẽ với quân chủ chuyên chính. Nó đang cần dựa vào quân chủ là một chính quyền tập trung mạnh mẽ, để phát triển về kinh tế. Nó cần đến một quốc gia thống nhất, thái bình, một chính sách khuyến khích công thương, bảo hộ mậu dịch, kiến thiết thị trường dân tộc, chiếm rộng thị trường tiêu thụ ở các nước ngoài. Nó cần một chính quyền mở to cánh cửa cho con em nó xông vào giữ những cương vị quan yếu trong bộ máy quản trị quốc gia để ủng hộ nó phát triển kinh dinh và uy thế chính trị. Vương triều Louis XIII, XIV đã thỏa mãn những điều kiện ấy. Giai cấp tư sản vì tự biết chưa đủ sức tiêu diệt chế độ phong kiến nên đã lợi dụng chế độ này qua hình thức quân chủ chuyên chính là công cụ tốt nhất lúc ấy, để nó bồi dưỡng lực lượng và tự khẳng định dần dần. Điều kiện này đã bắt buộc nó phải kết hợp mật thiết với quân chủ. Kết hợp, ở đây, có ý nghĩa là thuận theo một cách tự nguyện một số điểm của ý thức hệ phong kiến, của sinh hoạt phong kiến. Trên cơ sở lịch sử và xã hội ấy, giai cấp tư sản Pháp cấu tạo ra chủ nghĩa cổ điển văn học Pháp.
Nội dung của chủ nghĩa cổ điển Pháp là: độc tôn Lý trí, kiềm chế tình cảm và tưởng tượng; chuộng trật tự, tôn ti, hài hòa, tiết độ; sùng bái và mô phỏng các mẫu mực văn học cổ Hy-Lạp, sáng tác theo quy chế đã ấn định (phân ranh giới giữa các thể văn, luật tam duy nhất…) chọn chủ đề cao quý, ngôn ngữ trang nhã trừu tượng; đặc biệt chú trọng miêu tả tâm lý con người có phổ biến tính hơn là đề cập đến những cuộc đấu tranh xã hội; đề cao nguyên lý uy quyền; lấy sự hoàn mỹ về hình thức làm giá trị chính của tác phẩm văn học; khinh thị dân bách tính cho là không đáng làm đề tài sáng tác. Đó là một chủ nghĩa văn học có mục đích duy trì trật tự trong tình cảm, tư tưởng và hành động bảo vệ chế độ quân chủ tuyệt đối, củng cố và làm thẳng lý tưởng «chính nhân» (honnête homme) trong sinh hoạt xã hội, tiêu diệt mọi hình thức phản kháng, nổi loạn, phá hoại, ở ngay trong ý thức con người. Rõ ràng là chủ nghĩa ấy đặc biệt có lợi cho sự tiến thủ của giai cấp tư sản Pháp thế kỷ XVII. Sở dĩ nó có giá trị tiến bộ là bởi nó đáp ứng đúng yêu cầu của sự phát triển xã hội nói chung lúc bấy giờ và biểu thị được một cách tập trung và sâu sắc dân tộc tính Pháp (tinh thần duy lý) bằng những hình thức nghệ thuật hoàn bị biểu hiện được dân tộc tính ấy ở một mức kết tinh cao độ, trên con đường phát triển của dân tộc Pháp. 65 Bởi thể hiện khuynh hướng phát triển tiến bộ của một xã hội đang chuyển tới một hình thái lịch sử cao hơn (hình thái tư bản chủ nghĩa), bởi được dinh dưỡng bằng duy lý chủ nghĩa của một giai cấp đang đóng vai trò tiến bộ, cho nên, mặc dầu còn vướng mắc ít nhiều trong giới hạn của ý thức hệ quân chủ phong kiến, văn học cổ điển chủ nghĩa Pháp vẫn là một giá trị văn hóa tiến bộ và phổ biến của nhân loại.
2) Ở ANHỞ Anh chủ nghĩa cổ điển văn học xuất hiện chậm hơn ở Pháp nửa thế kỷ và có tính chất riêng của nó, vì tình hình phát triển của xã hội Anh và của giai cấp đấu tranh ở Anh khác ở Pháp. Chính lúc các nhà văn cổ điển Pháp phục tùng và ca ngợi quyền «thiên tử» của Louis XIV thì giai cấp tư bản thương mại và tài chính Anh đang tấn công kịch liệt vào hàng ngũ phong kiến quý tộc đã biến thành tư bản điền địa. Kết quả cuộc tấn công này là nước Anh thành một nước thực hành chế độ Nghị viện: quyền nhà vua bị hạn chế và kiểm tra; những tự do tư tưởng, tự do chính trị và tôn giáo được bảo đảm. Nhưng, chung cục, không phải giai cấp tư bản thương nghiệp và tài chính thủ tiêu giai cấp đại quý tộc (tư bản điền địa), hay ngược lại. Các nhà tài chính, thương nhân, công nghệ, dần dần kết hợp với các nhà đại quý tộc, chia nhau nắm chính quyền bằng cách sử dụng Nghị viện và Nhà vua một cách có lợi cho họ.
«Nghị viện, với chế độ hai viện, thực sự tiêu biểu cho nước Anh tư bản chủ nghĩa, dù là tư bản điền địa hay tư bản động sản» . 66
Triết học đại diện cho khuynh hướng tư bản chủ nghĩa Anh đầu thế kỷ XVIII là triết học kinh nghiệm luận của Locke. Chủ trương rằng: mọi trí thức đều do cảm giác và kinh nghiệm thực tiễn cấu tạo nên; về tín ngưỡng tôn giáo, mỗi cá nhân đều có quyền tự do lựa chọn; về chính trị, đề cao dân quyền và quyền khởi nghĩa của dân khi nhà vua làm hại dân hại nước: triết học Locke hoàn toàn phù hợp với tâm lý và nguyện vọng của giai cấp tư sản đang cấu kết với đại quý tộc nắm chính quyền ở Anh sau cách mạng 1688.
Mặt khác, giai cấp tư sản tài chính và công thương, vì thỏa hiệp với giai cấp đại quý tộc để chung sức nhau làm cho dân tộc Anh phú cường, nên đã trở thành bảo thủ. Trong sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa, nó yêu cầu thiết lập một trật tự tôn ti vững vàng, một thế quân bình ổn định cần thiết cho sự phát triển của nó. Yêu cầu này hướng tư tưởng, tình cảm của những con người tư sản vào một khuôn khổ, một tầm thước có tiết độ. Về đời sống luân lý, yêu cầu ấy bồi dưỡng khuynh hướng «thuần phong mỹ tục» của phái Thanh giáo (puritains), kiềm chế chặt chẽ những xúc cảm và tưởng tượng mãnh liệt, phóng túng của cá nhân, tạo thành lý tưởng «con người lịch sự» (gentleman) lấy chừng mực và tôn trọng trật tự xã hội làm tiêu chuẩn của hành động. Nhưng vì, nói chung, giai cấp tư sản Anh đầu thế kỷ XVIII đã phát triển hơn giai cấp tư sản Pháp khoản 1660, nên tầng lớp trung lưu cũng bành trướng được ảnh hưởng tới nhiều lãnh vực sinh hoạt chính trị, vănhóa.
«Những thương nhân đã trở nên giầu có, những nhà tài chính, vốn xuất thân ở hàng ngũ Thanh giáo, vẫn giữ được cách sống cố hữu. Họ mỗi ngày một văn minh hơn, tế nhị hơn, chịu ảnh hưởng hoặc thừa nhận phong cách sinh hoạt của giai cấp trên và tính theo thời đấy họ nhập vào giai cấp ấy, nếu có thể. Nhưng về tư tưởng và tình cảm, họ không đồng điệu với giai cấp trên. Sự có mặt của họ ở cả những nơi hội họp thần thế nhất đã tỏa ra một nhân diện khác thấm vào toàn thể xã hội, khuyến khích tính ưa chuộng sự kính t í n (piété), sự giản dị, luân lý tình cảm…» (E. Legouis và L. Cazamian: Văn học sử Anh)
Truyền thống văn học và ngôn ngữ văn học Anh đúng lúc tiến tới trình độ yêu cầu xuất hiện chủ nghĩa cổ điển thì vừa gặp những điều kiện xã hội nói trên làm cơ sở. Về căn bản thì chủ nghĩa cổ điển văn học nói chung rất phù hợp với nhu cầu trật tự tôn ti, quân bình xã hội của giai cấp tư sản. Về điểm này, chủ nghĩa cổ điển văn học Anh giống chủ nghĩa cổ điển văn học Pháp. Nhưng giai cấp tư sản Anh đã «đem theo vào khí hậu tâm lý và văn học của giai đoạn cổ điển… những nhân tố dị biệt mầm mống của một quá trình phân hóa sẽ phát triển sau này» (E. Legouis) Đó là: óc phê phán xã hội khá kịch liệt, tinh thần tự do tư tưởng, nhãn quan hiện thực chủ nghĩa, yêu cầu về tình cảm cá nhân. Những tác phẩm lớn của các nhà văn đại diện cho giai đoạn cổ điển chủ nghĩa Anh như Pope, Swift, De Foe, Addison, Steele, Johnson chứng minh điều ấy. Văn học cổ điển chủ nghĩa Anh là tiếng nói của một giai cấp tư sản đã khỏe, đã làm hai cuộc cách mạng chống phong kiến và đã có ý thức sâu sắc về lực lượng và vai trò lịch sử của mình.
3) Ở ĐỨCỞ Đức thì tình hình lại khác hẳn. Giai cấp tư sản Đức thế kỷ XVII còn non nớt. Đến tận thế kỷ XVIII, nước Đức vẫn bị phân chia thành hơn ba trăm quốc gia phong kiến nhỏ. Kinh tế lạc hậu và chính quyền phản tiến bộ của giai cấp quý tộc đã kìm hãm sức phát triển của văn hóa. Về tư tưởng, trong lúc giai cấp tư sản Pháp, Anh đã giương cao lá cờ duy lý chủ nghĩa và kinh nghiệm chủ nghĩa thắng lợi, thì ở Đức đang chìm đắm trong vũng lầy của kính ngưỡng chủ nghĩa (piétisme) do Philippe-Jacques Spener tuyên truyền, tổ chức (đầu thế kỷ XVIII). Đó là một cuộc vận động tôn giáo bài xích lý tính, đề xướng đời sống nội tâm, lấy tình cảm làm chủ, tôn trọng cái linh thiêng của tôn giáo. Về văn học, thì sau Luther, không có nhà văn lớn nào cho đến lúc Lessing ra đời. Theo lời nhận xét của Marx thì trước Lessing, văn học Đức ở trong «một tình trạng khốn nạn»:
« Những bác học đại gia nhà nghề, có môn bài, được hưởng các đặc quyền đặc lợi, những giáo trưởng và học giả đủ các loại, những nhà văn không có cá tính xuất thân ở các trường Đại học, trong hai thế kỷ XVII và XVIII, với những bờm tóc giả rậm cứng, với tính khoa trương cao nhã, với những lối không đàm khoát luận chẻ sợi tóc ra làm bốn, đã ngăn cách nhân dân với tư tưởng, ngăn cách khoa học với cuộc sống, ngăn cách con người với tự do. Chính những nhà văn bất lực ấy đã tạo ra văn học của chúngta…»
Vì trình độ phát triển của giai cấp tư sản Đức thấp kém hơn ở Pháp và Anh như vậy, cho nên lúc văn học Đức có điều kiện bước vào giai đoạn cổ điển chủ nghĩa (1750-1810) thì các nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa này, như Lessing, Herder, Goethe, Shiller vận dụng nó như một khí giới đấu tranh giải phóng của giai cấp tư sản, nhằm ba mục tiêu chính: làm cho dân tộc được thống nhất và cường thịnh, thực hiện liên lạc mật thiết với quần chúng nhân dân, khôi phục tính toàn diện cho sự sống của con người bị chia năm xẻ bẩy. Văn học cổ điển chủ nghĩa Đức không chỉ bắt nguồn ở nhân văn cổ điển Hy-lạp mà còn tự dinh dưỡng bằng văn học Anh thời Elizabeth (đặc biệt là Shakespeare) và bằng văn học dân gian (đặc biệt là ca dao, bài hát). Do đó, văn học cổ điển chủ nghĩa Đức – thể hiện ra ở những lý thuyết mỹ học cũng như ở các sáng tác phẩm – phong phú hơn văn học cổ điển chủ nghĩa Pháp, Anh về tinh thần dân tộc, về nhân dân tính, về dân chủ tính, về nhân tính toàn diện. 67
Theo nhận định của nhà nghiên cứu văn học Pháp André Gisselbrecht:
« T hẩm mỹ học và «mộng ước nghệ thuật» của các nhà văn cổ điển Đức – Herder, Goethe, Shiller, H ö lderlin, Hégel – mang hình thức một sự tưởng nhớ (không hy vọng, vậy là có suy nghĩ) Hy lạp chủ nghĩa. Người ta nhận thấy ngay cái «mộng ước nghệ thuật» ấy thực ra chính là một mộng ước về chế độ dân chủ… Chủ nghĩa cổ điển Đức hơn chủ nghĩa cổ điển Pháp là ở chỗ đó. Như th ế không có nghĩa là nó thích Hy-lạp hơn La-mã; sở dĩ như thế chỉ là bởi nó phản ánh sự thiếu «đạo đức cộng hòa» ở Đức, nghĩa là thiếu một giai cấp tư sản cách mạng… Herder, Goethe, Shiller và H ö lderlin học tập ở nghệ thuật Hy lạp không phải cái hình thức mà học tập cái thực chất của nghệ thuật ấy: tinh thần dân chủ. Tất cả đều đồng thanh chứng minh rằng chủ nghĩa cổ điển Hy-lạp giữ được một tầm quan trọng thế giới và một giá trị gương mẫu vĩnh cửu là bởi nó là biểu hiện trực tiếp của đời sống nhân dân, của sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào công việc quản trị quốc gia… Cái điều làm cho văn học cổ điển Đức thành gương mẫu là chỗ nó biết nối chặt tính chất dân tộc vào tính chất nhân dân của văn học» . 68
Những luận cảo: «Tiếng nói của các dân tộc trong những bài hát dân gian của họ» (Herder), «Thơ mộc mạc và thơ tình cảm» (Shiller), «Thơ và chân lý» (Goethe); những tiểu thuyết và kịch làm bằng tình cảm lãng mạn, trí tưởng tượng, tình yêu nước, khát vọng về tự do, ý chí chống cường quyền, như Werther, Goetz de Berlichingèn, Iphigénie (Goethe), Emilia, Galotti, Nathan le Sage (Lessing), Guillaume Tell (Shiller)… là những sản phẩm của giai đoạn văn học cổ điển Đức không thể có được trong văn học cổ điển Pháp, Anh.
IV. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA VĂN HỌC CỔ ĐIỂNXét qua lý thuyết và thực tiễn văn học cổ điển chủ nghĩa ở ba nước Tây phương: Pháp, Anh, Đức, chúng ta đã có thể nhận thấy rằng:
1) Văn học cổ điển chủ nghĩa Tây phương là một văn học cận đại , xuất hiện trên cơ sở một trình độ phát triển xã hội đã có giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản sáng tạo ra để phục vụ quyền lợi bản thân nó lúc ấy đang thống nhất trong căn bản với quyền lợi chung của dân tộc. Cổ điển tính, xét đến gốc, chỉ là tư sản tính ở một thời kỳ lịch sử nhất định trong quá trình đang tiến lên của tư bản chủ nghĩa.
2) Văn học cổ điển chủ nghĩa Tây phương nẩy nở ra trong giai đoạn thành hình của dân tộc tư sản và biểu thị sự thành hình ấy về mặt nghệ thuật ngữ ngôn . Nếu ngữ ngôn của một dân tộc chưa tiến hóa đến mức đủ khả năng thể hiện sâu sắc và trung thực mọi trạng thái tinh thần của dân tộc đã được sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa cận đại hóa đến một độ cao thì văn học cổ điển chủ nghĩa của dân tộc ấy cũng chưa xuất hiện được.
3) Văn học cổ điển Tây phương, dưới danh nghĩa bắt chước văn học cổ HY-LẠP, thực tế chỉ đồng hóa và biểu dương những nhân tố tinh thần hợp với yêu cầu khách quan của sơ kỳ tư bản chủ nghĩa và lợi cho giai cấp tư sản đang trưởng thành: óc duy lý, sự tôn trọng khoa học thực nghiệm, tinh thần tự do phê phán, triết lý hưởng lạc cá nhân, trật tự, hài hòa, cái đẹp quân bình, tư tưởng dân chủ, sự truy cầu phát triển cá tính con người… Những nhân tố ý thức hệ này là những vũ khí tư tưởng để giai cấp tư sản tự khẳng định đối lập với chế độ phong kiến, mặc dầu nó vẫn phải dựa vào vương triều để phát triển vì chưa đủ lực lượng tiêu diệt phong kiến toàn bộ.
4) Văn học cổ điển Tây phương, vì là vũ khí đấu tranh của một giai cấp (tư sản) tuy đang lên nhưng vẫn phải cấu kết với vương triều để làm vững một trật tự xã hội và làm thắng một đường lối chính trị có lợi cho sự phát triển của nó, cho nên đã đề xướng và phục tùng những quy tắc nghệ thuật, rút ra ở nền văn hóa cổ Hy-Lạp, do đó hạn chế sức sáng tạo vùng vẫy của tình cảm cá nhân, của trí tưởng tượng, của cá tính nhà văn – để đảm bảo trật tự trong văn học và xã hội. Bởi vậy nó mang ít nhiều tính cách quý tộc và bảo thủ. Chính vì thế mà ở các nước Tây phương tiêu biểu cho trào lưu cổ điển văn học (Pháp, Anh) khái niệm lãng mạn chủ nghĩa đối nghịch với khái niệm cổ điển chủ nghĩa (tuy sự đối nghịch này không phải là tuyệt đối).
5) Văn học cổ điển Tây phương ở mỗi nước có một sắc thái riêng, nhưng nói chung, có những điểm nhất trí sau đây:
- Trong tác phẩm văn học, hình thức nghệ thuật dân tộc thống nhất với nội dung tư tưởng tiến bộ trên một mức độ cao.
- Kết hợp ngữ ngôn bác học với ngữ ngôn dân gian làm cho ngữ ngôn văn học có quan niệm tính, dân tộc tính, phổ biến tính.
- Thiết tha đến những vấn đề có liên quan mật thiết với sự giải phóng con người, với vận mạng của dân tộc; và hướng sự sáng tác vào chỗ giải quyết những vấn đề ấy theo một lập trường tiến bộ (tư sản).
- Tập trung khả năng vào công việc khám phá con người, biểu hiện con người; coi con người sống trong xã hội là đối tượng chủ yếu của văn học; cố gắng vượt qua giới hạn của giai cấp, của thời đại, của sự sống cá biệt, để đạt tới con người phổ biến, con người vĩnh cửu .
6) Văn học cổ điển Tây phương, với những đặc tính nói trên, không chỉ còn là một chủ nghĩa văn học , một thời kỳ văn học mà đã trở thành một giá trị văn học , một thành quả lớn của lịch sử văn học nhân loại. Đó là một giá trị nhân đạo chủ nghĩa, một giá trị nghệ thuật tính, một giá trị chiến đấu tính, làm vẻ vang cho trí tuệ con người, góp một phần quang vinh vào truyền thống văn học tiến bộ của tất cả loàingười.