← Quay lại trang sách

Chương BỐN VĂN HỌC CỔ ĐIỂN (tiếp theo)

NHẬN định về văn học cổ điển Việt-Nam không thể áp dụng máy móc khái niệm «chủ nghĩa cổ điển» Tây phương vì hoàn cảnh lịch sử và xã hội của văn học cổ điển Việt-Nam hoàn toàn khác hoàn cảnh lịch sử và xã hội của văn học cổ điển Tây phương. Tuy nhiên, không phải vì thế mà văn học cổ điển Việt-nam không có những nét chung với văn học cổ điển Tây phương. Tìm ra được những điểm giống nhau và những điểm khác nhau giữa văn học cổ điển Việt-nam và văn học cổ điển Tây phương là tìm ra được cái tiêu chuẩn chính xác để khẳng định thời gian của giai đoạn văn học cổ điển Việt-nam.

Khác hẳn ở Tây phương, văn học cổ điển ở Việt-nam thành hình trong điều kiện xã hội phong kiến chưa có giai cấp tư sản. Những người sáng tạo ra văn học cổ điển, ở Việt-nam, không phải là những nhà trí thức đại diện cho giai cấp tư sản đang lớn lên mà lại là những tầng lớp nho sĩ quan liêu và nho sĩ bình dân tiến bộ. Bởi vậy, nội dung tư tưởng của văn học cổ điển Việt-nam căn bản không phải là ý thức hệ tư sản mà là những giá trị tương đối chân chính của ý thức hệ phong kiến kết hợp với những giá trị ý th ứ c hệ bình dân trong một hoàn cảnh xã hội kinh tế hàng hóa đã bắt đầu có tính chất tư bản chủ nghĩa.

Như chúng ta đã biết, tính chất cơ bản của một văn học cổ điển là tính chất dân tộc. Sở dĩ văn học cổ điển có được một giá trị lớn lao, phổ biến, nhân loại là vì nó mang trong bản thân một dân tộc tính sâu sắc và độc đáo. Cổ điển tính bao hàm ý nghĩa phổ biến tính, nhân loại tính. Thực tiễn văn học sử thế giới đã chứng minh rằng một thiên tài văn học càng biểu hiện tính độc đáo của dân tộc mình đậm nét chừng nào thì càng gần nhân loại chừng nấy. Vì thế, cổ điển tính cũng là biểu thị của dân tộc tính. Trên con đường phát triển lịch sử của một dân tộc, có những thời quan trọng tạo điều kiện cho đặc tính của dân tộc ấy tự khẳng định một cách tập trung; và lại có một thời ưu thế nhất trong đó đặc tính dân tộc kết tinh ở một trình độ cao nhất, ở một hình thái trọn vẹn nhất. Lúc đó, bao nhiêu yếu tố tinh thần, hình thành qua một lịch trình lâu dài, gặp điều kiện tốt nhất để cô đọng lại thành một tính thuần nhất, đặc thù, quyết định. Ở dân tộc tính ấy, mỗi người trong dân tộc nhận thấy cách cảm nghĩ, cách nhìn cách hiểu, cách sống tinh thần của riêng mình. Và qua đặc tính ấy, những người không cùng thế hệ, không cùng nghề nghiệp, không cùng địa vị xã hội, không cùng thân phận, không phân biệt nam, nữ, đều cảm thấy cùng thuộc một cộng đồng thể là dân tộc .

Tâm lý cộng đồng ấy, sinh hoạt tinh thần cộng đồng ấy tuy manh nha từ lúc một tập thể nhân quần còn là một bộ tộc và hình thành rõ nét dần cùng với quá trình bộ tộc chuyển thành dân tộc, nhưng phải đợi đến thời kỳ trưởng thành của dân tộc mới có tính cách dân tộc triệt để được. Một dân tộc chỉ có thể đạt tới mức trưởng thành khi nó đã xây dựng được vững vàng một quốc gia thống nhất, một chính quyền tập trung mạnh, trên một lãnh thổ thống nhất. Muốn thế, nó phải có một kinh tế cộng đồng, chủ yếu là thị trường dân tộc. Đứng về mặt lịch sử mà xét, sự cộng đồng về lãnh thổ cũng như quốc gia trung ương tập quyền có thể xuất hiện trước khi có một sinh hoạt kinh tế cộng đồng. Nhưng nếu quốc gia trung ương tập quyền chưa đủ khả năng kiến thiết ngay một kinh tế cộng đồng làm cơ sở bền chắc cho nó, thì sự tập quyền ấy sẽ một là tan vỡ, hai là chỉ có hình thức chứ không có thực chất; và sự cộng đồng lãnh thổ cũng sẽ bị phá hủy. Sự cộng đồng của ngôn ngữ chỉ thành tựu được trong quá trình cộng đồng hóa kinh tế, lãnh thổ và tâm lý dân tộc.

Riêng văn học muốn đạt tới tính cách dân tộc trọn vẹn lại còn lệ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa nằm trong phạm trù loại biệt tính của văn học. Một khối người cộng đồng ổn định, thành lập trong quá trình lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế, về cấu tạo tâm lý biểu hiện trong cộng đồng văn hóa, là một dân tộc; nhưng không phải chỉ có thế mà đã tất yếu sản sinh ra ngay được một văn học thực sự dân tộc. Dân tộc Nga la tư bắt đầu thành hình từ thế kỷ XVII mà đến giữa thế kỷ XVIII, văn học dân tộc Nga mới được Lomonosov đặt viên đá thứ nhất; và trải qua cả nửa sau thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX, với sự đóng góp thiên tài của những Derjavine, Pouchkine, Krylov, Griboiédov… nó mới thành hình thực sự, nghĩa là, theo nhận định của nhà phê bình văn học Nga Biélinski, mới thoát khỏi được những ảnh hưởng nước ngoài để biểu hiện sâu sắc tính độc đáo của dân tộc.

Một nền văn học muốn đạt được tính dân tộc cao độ phải trải qua một quá trình xây dựng một truyền thống văn học dân tộc gọt gi ũa . Truyền thống này gồm bốn nhân tố chính: chất liệu văn học dân tộc, hình tượng văn học dân tộc, hình thức văn học dân tộc, ngôn ngữ văn học dân tộc – tất cả đều phải đã tập trung trong những tác phẩm văn học gọt giũa tới một mức tương đối cao. Có truyền thống ấy, lại gặp được những điều kiện lịch sử thích hợp, văn học của một dân tộc mới có thể trở thành một văn học thực sự dân tộc được. Theo kinh nghiệm lịch sử văn học các nước thì chất liệu, hình tượng, hình thức văn học, ngôn ngữ văn học chỉ có được tính chất dân tộc cao độ khi nào những nhân tố ấy bắt rễ được chặt chẽ vào đời sống của đông đảo quần chúng nhân dân. Nhân dân tính không bao quát toàn diện dân tộc tính, nhưng nó là nguồn sinh lực chủ yếu vô cùng tận của dân tộc tính. Một dân tộc tính được nhân dân tính dinh dưỡng nhiều chừng nào, sâu sắc chừng nào thì càng kết tinh cao độ chừng nấy. Điều kiện lịch sử thích hợp nói trên chỉ là biến cố lịch sử nào giúp cho dân tộc tính thống nhất được với nhân dân tính. Như ở Nga, điều kiện lịch sử đó là cuộc khởi nghĩa Poutgachev và chiến tranh ái quốc 1812. Ở Anh, đó là cuộc Cải cách tôn giáo, cuộc cách mạng 1648, cuộc cách mạng 1688. Vì phải tranh thủ quần chúng để làm hậu thuẫn cho mình, các nhà cải cách tôn giáo phải viết sách bằng tiếng Anh phổ thông, do đó, nâng dần ngôn ngữ dân gian lên tới trình độ văn học gọt giũa. Một dẫn chứng điển hình cho hiện tượng này là bản dịch Kinh thánh ra tiếng Anh của Tyndale, nhà cải cách tôn giáo dũng cảm dám chống lại Giáo hoàng giữa lúc chính phủ đang ủng hộ Giáo hoàng chế (Tyndale bị xử năm 1536).

« Các nhà cải cách tôn giáo cần phải nói với nhân dân; điều này có lợi rất nhiều cho sự xây dựng một nền tản văn Anh cứng cỏi, minh bạch và lanh lẹ… [Bản dịch của Tyndale được Coverdale bổ chính năm 1535] đã tạo ra một thứ tản văn có ảnh hưởng rất lớn, mọi tầng lớp xã hội đều hiểu được, thấm vào đầu óc mọi người cùng với tình cảm tôn giáo, làm cho ngôn ngữ của những kẻ dốt nát nhất, cục cằn nhất cũng nhờ thế mà đượm một vẻ đẹp nào đó…» (Ernest Legouis: Văn học sử Anh)

Nếu ta biết rằng cuộc vận động cải lương tôn giáo ở Anh (cũng như ở Tây Âu nói chung) là một hình thức đấu tranh của giai cấp tư sản (nhằm đánh bại những lực lượng phong kiến bảo thủ nhất: bọn quý tộc lãnh chúa và bọn tăng lữ cựu giáo) đồng thời lại là biểu thị của một tinh thần dân tộc chủ nghĩa đã khỏe khoắn:

« Đối với đa số, sự thắng thế của Tân giáo chỉ là sự giải phóng dân tộc thoát khỏi một uy quyền ngoại quốc. Nói gọn một câu, đó là sự phá bỏ uy quyền Giáo hoàng, sự chặt đứt cái d ây vẫn nối chặt nước Anh vào lục địa và hãm nước A nh vào thế bị lệ thuộc vào La mã hàng bao nhiêu thế kỷ nay». (E.Legouis: sách đã dẫn )

Ta sẽ nhận thấy những cuộc đấu tranh tôn giáo và cách mạng của giai cấp tư sản và toàn thể các tầng lớp bình dân khác, ở Anh trong hai thế kỷ XVI, XVII, đã dinh dưỡng tinh thần dân tộc Anh bằng sinh lực của quảng đại nhân dân, và dựa vào sự kết hợp này để thúc đẩy xã hội Anh tiến mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa. Chính sự kết hợp hữu cơ ấy đã giúp ngôn ngữ Anh chiếm đoạt được một tính chất dân tộc phong phú làm cơ sở cho cuộc xây dựng văn học thực sự dân tộc của nước Anh (với những Shakespeare, Milton, Dryden, Pope, Swift…) Ngôn ngữ Anh trở thành một ngôn ngữ văn học dân tộc là nhờ những điều kiện lịch sử đã cho phép nó bắt rễ vào nhân dân. Về chất liệu văn học, hình thức văn học, quá trình dân tộc hóa cũng theo quy luật ấy.

Nói: tính chất cơ bản của một văn học cổ điển là tính chất dân tộc cũng tức là nói: tính chất cơ bản của một văn học cổ điển là tính chất nhân dân – không phải tính chất dân tộc hay tính chất nhân dân nói chung, trừu tượng, phi lịch sử mà là một tính chất tập trung cao độ ở một giai đoạn cụ thể và nhất định, giai đoạn trong đó toàn thể các lực lượng tiến bộ của dân tộc chung sức lại thực hiện những nhiệm vụ lịch sử có tác dụng đẩy dân tộc lên tới mức độ thành hình thuần thục. Văn học cổ điển vừa là công cụ vừa là biểu thị của giai đoạn thành hình dân tộc thuần thục ấy. Nó cũng chỉ xuất hiện được trong giai đoạn lịch sử ấy của dân tộc. Bởi vậy, nói chung, văn học cổ điển dân tộc bao giờ cũng là một văn học tiến bộ, chiến đấu.

Ở Tây phương, công việc sáng tạo văn học cổ điển, ở mỗi nước, căn bản do giai cấp tư sản chấp hành trong điều kiện dân tộc đã thành hình và điều kiện thời kỳ đang lên của chủ nghĩa tư bản . Ở Việt-nam, sự tình không giống như vậy. Điều này quyết định đặc tính của văn học cổ điển Việt-nam. Vấn đề «xác định giai đoạn văn học cổ điển Việt-nam bắt đầu từ lúc nào» có quan hệ mật thiết với vấn đề hình thành dân tộc Việt-nam. Chưa giải quyết được vấn đề sau thì cũng không giải quyết đúng đắn được vấn đề trước. Hiện nay, vấn đề hình thành dân tộc Việt-nam còn đang ở thời kỳ tranh luận chưa kết thúc. Nhiều quan điểm đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau 69 . Trong chương này, chúng tôi không dám có tham vọng tổng kết vấn đề. Chúng tôi chỉ nêu ra một vài nhận xét có tương quan với vấn đề hình thành văn học cổ điển Việt-nam.

*

Quá trình xây dựng một truyền thống văn học dân gian gọt gi ũa , ở nước ta, kéo dài trong một thời gian ngót năm thế kỷ, từ nửa sau thế kỷ XIII (với Hàn Thuyên) đến đầu thế kỷ XVIII. Toàn bộ quá trình xây dựng ấy phục tùng một quy luật khách quan rõ rệt. Quy luật này có thể trình bày đại lược như sau:

Xã hội phong kiến Việt-nam càng phát triển đến những trình độ đẻ ra các yếu tố có tác dụng giải thể nó; những lực lượng tiến bộ trong lòng xã hội phong kiến càng bị đẩy đến chỗ phải thực hành những nhiệm vụ lịch sử thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giải thể ấy – chủ yếu là những nhiệm vụ: phát triển và củng cố quyền tư hữu cá nhân về ruộng đất; phát triển công thương nghiệp và kiến lập thị trường dân tộc; bảo vệ và tăng cường độc lập quốc gia, thống nhất lãnh thổ, trung ương tập quyền; phát huy ý thức cá nhân chủ nghĩa thị dân và ý thức dân quyền chủ nghĩa – thì văn học của dân tộc càng tiến gần đến cổ điển tính, nghĩa là tiến đến một dân tộc tính, một nhân dân tính (chủ yếu là thị dân tính) thuần thục về mọi phương diện: chất liệu văn học, hình tượng văn học, hình thức văn học (thể văn) ngôn ngữ văn học.

Lịch sử văn học Việt-nam thời phong kiến chứng minh quy luật ấy:

1) Chính tinh thần dân tộc quật cường của giai cấp quý tộc và toàn thể bình dân Việt-nam thời kháng Nguyên (1282-1288) đã đẻ ra Hàn Thuyên, người thợ đầu tiên của văn học Nôm, Hiện tượng Hàn Thuyên xuất hiện cùng một lúc với những Hội nghị Bình-than (1282), Hội nghị Diên-hồng (1284), Hội quân Vạn-kiếp (1285), những Hịch tướng sĩ, Vạn kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo, Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu, những chiến thắng Tây-kết, Vân-đồn, Chương-dương, Hàm-tử, Bạch-đằng, những «Tao thà làm ma nước Nam, không thèm làm vương đất Bắc» của Trần Bình Trọng, «Xin Bệ hạ chặt đầu thần trước rồi hãy nói đến chuyện hàng giặc» của Trần Quốc Tuấn, «Phá cường tặc, báo hoàng ân» của Trần quốc Toản: đó là một giác ngộ tinh thần dân tộc triệt để nhất của nhân dân Việt-nam từ ngày lập nước. Sức giác ngộ dân tộc ấy đã thôi thúc tầng lớp trí thức quý tộc (lúc đó còn đóng một vai trò lịch sử tiến bộ) tìm cách giải phóng những năng lực sáng tạo văn học dân tộc khỏi ách đô hộ của văn tự ngôn ngữ phong kiến Trung-quốc. Vì đáp ứng đúng nhu cầu văn học của toàn dân nên sáng kiến của Hàn Thuyên vừa nẩy ra đã gây được một phong trào rộng rãi trong nước. Sử chép rằng: «Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc ngữ: đời ấy nhiều người bắt chước…» Sách An-nam chí lược của Lê Tắc còn chép rằng: thời đó, ngoài những khúc hát soạn bằng Hán văn, lại có «những thơ, phú, bản nhạc làm bằng tiếng Việt để tiện việc ca ngâm». Một mặt khác, do tham gia kháng chiến đông đảo, nhân dân cũng đã bắt đầu có ý thức về quyền lợi văn hóa của mình trong chừng mực mà văn hóa trực tiếp phục vụ cuộc đấu tranh cứu nước. Sách Đại Việt sử ký có ghi rằng: mỗi khi tuyên độc lời chiếu chỉ của nhà vua, nhân viên trong ti Hành khiển phải giảng cả âm lẫn nghĩa cho dân thường dễ hiểu. Sự cần thiết làm cho toàn dân hiểu và thấm nhuần những công việc mà triều đình dự định đem thi hành chứng tỏ rằng giai cấp phong kiến, muốn kháng Nguyên thắng lợi, không thể không dựa hẳn vào sức mạnh của toàn dân. Tình trạng phải giảng cả âm lẫn nghĩa những chiếu chỉ không khỏi làm nẩy ra trong đầu óc mọi người ý nghĩ: sao không viết bằng chữ Nôm để tránh sự phiền hà ấy? Đó là cơ sở tâm lý của sáng kiến Hàn Thuyên và nhất là của sự hoan nghênh nhiệt liệt đối với sáng kiến ấy ở đương thời. Phong trào Hàn Thuyên phát triển rộng rãi đến năm 1306, khi vua Trần Anh Tôn gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, thì «ở triều và ở quê nhiều văn nhân mượn chuyện Hán gả Chiêu quân cho Hung nô, làm thơ và bài hát để chế nhạo». Tuy sử không chép rõ những thơ và bài hát ấy có phải làm bằng chữ Nôm không, nhưng ta có thể suy diễn mà thấy rằng: một phong trào sáng tác văn học quy mô rộng lớn nhằm mục đích phê bình một chính sách của nhà vua (mà các nhà văn cho là xúc phạm đến lòng tự tôn dân tộc) phổ cập đến cả những thôn xã (nghĩa là tiêu biểu phần lớn cho dư luận của bình dân), nẩy ra trong cái đà « nhiều người bắt chước Hàn Thuyên làm thi phú quốc âm» và trên cái truyền thống «lấy tiếng Việt làm thơ, phú, bản nhạc để tiện việc ca ngâm» – một phong trào như thế không thể có ý nghĩa lịch sử nào khác ngoài ý nghĩa kế tục phát triển phong trào Hàn Thuyên. Vả lại, một trong những người kế tục sáng kiến Hàn Thuyên là Nguyễn Sĩ Cố, làm Thiên chương học sĩ đời vua Trần Anh Tôn (1293-1313), « có tài làm thơ phú quốc âm và khéo khôi hài, người đương thời ví ông với Đông Phương Sóc» (Cương mục) – Đông Phương Sóc là một vị quan triều Hán Vũ đế thường đem tài trào phúng chữa lỗi cho vua – một người như thế, có mặt trong phong trào chế nhạo việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm lan khắp «trong triều ngoài nội», không lẽ nào lại không là một trong những nhà dùng văn Nôm phụ họa (nếu không phải là khởi xướng) phong trào «chế nhạo» ấy. Đứng về phương diện lịch sử văn học mà xét thì phong trào vịnh Chiêu quân cống hồ khoảng 1306-1307 và những năm sau đấy là sự kế tục phát triển phong trào văn học Hàn Thuyên trên một quy mô rộng lớn hơn, với một tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc hơn, với một nhân dân tính cao độ hơn. Đó là sản phẩm văn học của sự phát triển dân tộc tính sau cuộc kháng Nguyên anh dũng thắng lợi.

Tuy vậy, công cuộc xây nền đắp móng cho văn học chữ viết dân tộc vẫn bị điều kiện lịch sử giới hạn rất nhiều. Giai cấp phong kiến vẫn không dùng chữ Nôm làm học thừa. Các giấy tờ Nhà nước vẫn làm bằng Hán văn. Các nhà trí thức yêu nước, kể ngay từ Hàn Thuyên, cũng chỉ mới mạnh bạo lấy chữ Nôm làm công cụ sáng tác, còn thể thức văn chương vẫn hoàn toàn mô phỏng Trung-Quốc (thơ, phú Hàn luật chỉ là thơ phú Nôm theo Đường luật). Những điển cố, những biểu tượng văn học của phong kiến Trung-quốc vẫn giữ địa vị thống trị trong công trình sáng tác văn học Nôm. Sở dĩ có sự tình này là bởi phong trào xây dựng bước đầu nền văn học chữ viết dân tộc nẩy nở ra trong lúc dân tộc Việt-nam chưa gặp đủ những điều kiện để thành hình. Một trong những yếu tố cơ sở của sự thành hình ấy – chế độ trung ương tập quyền – cũng mới phôi thai. Đúng như ông Trần đức Thảo nhận định:

«Đời nhà Trần, vương hầu vẫn có quân đội riêng, đồng thời lại giữ đặc quyền được bổ vào những trọng chức trong triều đình và được đi trấn những địa phương quan trọng. Tức là: chế độ căn bản vẫn giữ tính chất phân quyền; giai cấp thống trị vẫn là giai cấp lãnh chủ quý tộc… Chế độ nhà Trần chưa phải là tập quyền, nó còn là một hình thức quân chủ phong kiến phân quyền sắp chuyển sang tập quyền… Chế độ phong kiến còn ở trong thời thời kỳ thịnh, và bọn lãnh chủ còn đủ sức để thống nhất những mâu thuẫn trong xã hội và lãnh đạo công trình xây dựng lực lượng dân tộc và chiến đấu chống ngoạixâm». 70

Vai trò lịch sử của các tầng lớp bình dân, ở thế kỷ XIII, XIV, không phải chỉ là bảo vệ nền độc lập dân tộc mà còn là phát triển công thương nghiệp tư nhân, đòi hỏi một chính quyền quốc gia tập trung bảo đảm tự do trao đổi hàng hoá trong toàn quốc và an ninh xã hội nói chung, phá vỡ kinh tế lãnh chủ phân tán trong các thái ấp. Đối với các tầng lớp ấy, bảo vệ độc lập dân tộc là bảo vệ cái điều kiện căn bản để thúc đẩy xã hội phong kiến Việt-nam tiến từ phân quyền sang tập quyền làm cơ sở chính trị cho sự phát triển của kinh tế hàng hoá cuối thế kỷ XIII. Vì lực lượng bình dân tuy đã mạnh nhưng chưa đạt tới mức đối kháng quyết liệt với chế độ thái ấp và chế độ này vẫn còn có tác dụng thúc đẩy sức sản xuất kinh tế, cho nên giai cấp lãnh chủ vẫn lãnh đạo được toàn dân cứu nước có kết quả. Nhưng giai cấp lãnh chủ quý tộc đã cảm thấy vận mệnh nó nghịch với xu hướng quân chủ tập quyền của khối bình dân. Bởi vậy sau khi chiến thắng quân Nguyên, nó đã tìm đủ cách để duy trì và mở rộng chế độ thái ấp, củng cố chính sách bóc lột nông nô và gia nô, kìm hãm đà tiến của kinh tế hàng hoá. Tính chất bảo thủ này của giai cấp quý tộc lãnh chủ cộng với trình độ phát triển còn non yếu của các lực lượng bình dân (nông dân tự do, thương nhân, thủ công) đã được phản ánh trong tính nửa chừng của công cuộc xây dựng văn học Nôm. Giai cấp quý tộc lãnh chủ thì phủ nhận nó (vẫn giữ địa vị độc quyền cho Hán văn, Hán tự). Tầng lớp trí thức quý tộc yêu nước thì rụt rè và lúng túng (vẫn nô lệ cho những luật lệ văn chương phong kiến Trung-quốc), bình dân thì chưa đủ sức gánh vác nó một mình. Đó cũng là lẽ tất nhiên, không có gì lạ: một dân tộc chưa thành hình thì chưa thể sản sinh ra một văn học thực sự dân tộc được. Lòng yêu nước đơn thuần, dù cao độ đến đâu, cũng không thể độc lực sáng tạo được một văn học dân tộc . Trong điều kiện lịch sử thế kỷ XIII, đầu XIV của xã hội Việt-nam, lòng yêu nước ấy chỉ có thể kích thích ý chí xây dựng một văn học chữ viết dân tộc. Công trình xây dựng này thành công nhiều hay ít còn phải tuỳ thuộc nhiều điều kiện khác.

2) Những điều kiện cần thiết cho sự tiến hành mạnh mẽ công trình xây dựng văn học dân tộc còn ở trạng thái phôi thai ở thời Hàn Thuyên – Sĩ Cố, đã tựu thành khá đầy đủ trong khoảng lịch sử Việt-nam từ 1345 đến 1428. Đây là một thời đại biến động sâu sắc và kịch liệt nhất của cấu tạo xã hội phong kiến Việt-nam. Trong vòng tám mươi nhăm năm, xã hội phong kiến Việt-nam bị đảo lộn không ngừng. Những cuộc khởi nghĩa liên tục của nô tỳ và bần dân từ 1343 đến 1370, cuộc cải cách xã hội lớn lao của Hồ Quý Ly thực hiện có hệ thống từ 1371 đến 1405 giữa lúc quân đội Chế Bồng Nga uy hiếp ở phía Nam và phong kiến nhà Minh đe doạ ở phía Bắc; cuộc kháng chiến anh dũng nhưng thất bại của vua tôi nhà Hậu Trần từ 1407 đến 1414; cuộc bình định và đô hộ của quân Minh vô cùng tàn bạo nhằm đồng hoá dân tộc Việt-nam, từ 1407 đến 1418; cuộc cách mạng giải phóng dân tộc kéo dài mười năm trời (1418-1428) và cuối cùng hoàn toàn thắng lợi: tất cả những biến cố cực kỳ quan trọng ấy xẩy ra liên tiếp trong 85 năm, với bao nhiêu đầu rơi máu chảy, cửa nát nhà tan, bao nhiêu uy quyền sớm nở chiều tàn, bao nhiêu cảnh «nhất điền thiên vạn chủ», bao nhiêu biến đổi quằn quại trong tâm lý từ một sĩ phu yêu nước đến một nông dân đói rách, từ một viên quan thất thế đến một nhà buôn phá sản, từ một anh thợ thủ công mất nghiệp đến một chị nô tì vừa thoát khỏi thân phận của mình… tất cả cơn lốc lịch sử vĩ đại ấy, chung cục, đã phá vỡ kinh tế thái ấp đại quý tộc, tiêu diệt cơ sở xã hội của tầng lớp lãnh chủ phong kiến, bẻ gẫy uy quyền bọn tăng lữ, thanh toán chế độ nông nô, quét sạch giặc ngoại xâm phương Bắc và phương Nam, bảo toàn được độc lập dân tộc, thống nhất được quốc gia, tập trung được chính quyền, giải phóng sức sản xuất nông, công, tạo điều kiện tương đối đầy đủ cho dân tộc sơ bộ thành hình. Con đường xương máu mà xã hội phong kiến Việt-nam đã trải qua, từ tiếng hô khởi nghĩa của lãnh tụ nông dân Ngô Bệ (1344) đến tiếng ca khải hoàn của Bình Ngô đại cáo (1428), cũng là con đường dẫn đến bước đầu sự thành hình của dân tộc Việt-nam ở nửa sau thế kỷ XV (thời Hồng đức). Từ 1428 đến 1460, các vua đầu tiên của nhà Lê chỉ phát triển tiếp tục những thắng lợi thâu hoạch được trong thời gian 1343-1428. Có thể nói: dưới triều Lê Thánh Tôn, dân tộc Việt-nam đã sơ bộ thành hình trên cơ sở những thắng lợi ấy.

Con đường dẫn đến sự thành hình của dân tộc Việt-nam, phản ánh vào sự nghiệp xây dựng văn học, là quá trình nỗ lực liên tục dân tộc hoá văn học Nôm của các nhà trước tác, trên năm bình diện: về ngôn ngữ , Việt hoá những điển cố văn học Trung-quốc và học tập từ ngữ, cách nói bình dân; về chủ đề , thiên trọng những vấn đề liên quan đến vận mạng dân tộc; về hình tượng , sáng tạo những nhân vật Việt-nam; về thể văn , khai thác vốn bình dân; về tư liệu sáng tác , chủ tâm chiếm hữu những cảnh vật, việc trong sinh hoạt bình dân (thơ nôm của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn, các truyện lục bát Trinh thử, Trê cóc, Thạch sanh… tập Gia huấn ca chứng minh sự nỗ lực ấy). Con đường dẫn đến sự thành hình dân tộc, đứng ở góc giai cấp thống trị mà xét, là sự quyết tâm của Hồ Quý Ly dịch ra chữ Nôm Kinh Thi, và thiên Vô dật trong kinh Thư, bài xích Tống nho, phê phán kinh điển (trong cuốn Minh đạo), làm thơ quốc ngữ tạ ơn vua Nghệ tôn ban kiếm, rắp dùng chữ Nôm làm công cụ học, thi; là sự Nguyễn Trãi gắng gỏi vận dụng ngôn ngữ dân tộc để ký thác tâm hồn tế nhị của mình trong Quốc âm thi tập, là sự Lê Thánh Tôn lập ra hội Tao đàn nhị thập bát tú, vua tôi cùng nhau xướng hoạ bằng ngôn ngữ văn tự dân tộc, để lại cho đời sau mấy trăm bài thơ nôm trong Hồng đức quốc âm thi tập.

Về nội dung tư tưởng của văn học Nôm khoảng thế kỷ XIV, XV, ta cũng nhận thấy nhiều nhân tố phức tạp hơn ở thời đại trước. Bên cạnh những tư tưởng thân dân , yêu nước của Lê Thánh Tôn, tư tưởng quân thân của Nguyễn Trãi – khác xa với tư tưởng chủ tớ của Trần Quốc Tuấn và tư tưởng báo đáp hoàng ân của Trần quốc Toản – đã hiện ra khá rõ nét nhiều nhân tố thị dân: óc phê phán tự do và óc thực dụng của Hồ Quý Ly, tư tưởng cá nhân hưởng lạc của chuột đực (trong Trinh thử); triết lý tự nhiên chủ nghĩa (sự tồn tại và biến hoá có quy luật của tự nhiên là một chân lý khách quan thắng được mọi ý định chủ quan của con người trái với nó) trong Trê Cóc; quan niệm «thư trung có gái tuyệt vời» của tác giả Gia huấn ca (khuyết danh); tư tưởng tự do kết hôn của nàng công chúa trong Truyện Thạch Sanh (bất chấp cả lệnh vua, ý kiến cha mẹ, nghĩa đệ huynh giữa Lý Thông và Thạch Sanh)… Như vậy đủ chứng tỏ rằng kinh tế hàng hoá và tầng lớp thị dân đã phát triển tới một mức tương đối cao. Ý thức hệ thị dân đã thấm vào khí hậu tâm lý của thời đại. Nó đã thành một luồng tư tưởng khá quan trọng trong cảm hứng văn học và đã đột nhập cả vào nội tạng ý thức hệ phong kiến gây ra một biến động đáng chú ý (trong bộ luật Hồng đức, những điều khoản đề cao nữ quyền và bảo vệ tư hữu tài sản là biểu hiện của sự đột nhập ấy).

Điều đó không làm ta ngạc nhiên. Chính sự phát triển của kinh tế hàng hoá và tầng lớp thị dân ở thế kỷ XV đã làm cơ sở vật chất cho sự thành hình sơ bộ của dân tộc Việt-nam và của bước đầu văn học dân tộc. Tuy rằng tầng lớp thị dân Việt-nam nửa sau thế kỷ XV chưa tiến được tới trình độ phát triển của tầng lớp thị dân ở các nước. Tây Âu hồi thế kỷ XIV, XV, nhưng nó cũng đã đủ khả năng tối thiểu để tạo thành một cộng đồng kinh tế làm cơ sở cho sự cộng đồng lãnh thổ (năm 1469 và năm 1471, Lê Thánh Tôn định bản đồ cả nước từ biên giới Việt Hoa đến đèo Cù mông chia làm 13 xứ, thống hạt các phủ châu huyện xã tổ chức hành chính thống nhất), cho sự cộng đồng tâm lý và văn hoá, sự tập quyền quân chủ (tầng lớp quý tộc lãnh chúa có thái ấp riêng, quân đội riêng không còn bóng dáng trong sinh hoạt kinh tế và chính trị nữa).

Đời Hồng Đức, không kể Thăng long là nơi các nhà công thương đã chia nhau thành phường ở các phố riêng:

«Ở thôn quê sự chuyên môn hoá của công và thương nghiệp (có những làng chuyên môn từng nghề) đã phát triển nhiều… Dân công thương ở thôn quê cũng tổ chức thành phường hay hộ… đã biết đoàn kết để bảo vệ quyền lợi nghề nghiệp và địa vị xã hội của mình… Nhà nước thì có những cục bách công (sử cũ gọi là bách tác chi cục) dùng thợ chuyên môn để sản xuất những phẩm vật cần dùng cho Nhà nước… Nghề khai mỏ thì về các mỏ đồng, mỏ kẽm, mỏ vàng, mỏ bạc ở miền thượng du Tuyên quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, triều đình giao cho các tù trưởng dân thiểu số đốc xuất dân phu khai quật rồi chiếu lệ nộp một số lượng nhất định làm tuế cống. Về các mỏ ở miền Thượng du (rất ít) thì triều đình để cho các hộ tự do khai quật mà nộp thuế bằng sản vật… Tư Thành cho chế tạo các thứ cân, thước, thăng, đấu theo thể thức nhất định ban ra làm mẫu dùng trong khắp dân gian. Nhà nước lại còn định tiền công của người làm thuê là 30 đồng tiền mỗi ngày… Kinh tế tiền tệ đã thịnh. Nhà nước cũng như các nhà quý tộc địa chủ cần tiền để tiêu dùng cho nên thuế nộp cho Nhà nước cũng như tô nộp cho địa chủ một phần phải nộp bằng tiền… Dân buôn ở Vân đồn mua hoàng hoá ngoại quốc muốn đem về kinh đô hay nơi khác phải có giấy vi bằng của An phủ ty và giấy kiểm điểm của Đề bạc ty…» (Đào Duy Anh: Lịch sử Việt-nam )

Những nét chung của nền kinh tế nước ta cuối thế kỷ XV, như đã được chép trong bộ sử của ông Đào Duy Anh, chứng minh rằng: thời Hồng Đức là thời kinh tế hàng hoá đang tiến lên bước đầu tư bản chủ nghĩa , trong lòng xã hội phong kiến tập quyền. Phương thức sản xuất trong các mỏ, dù còn bị nhiều hình thức phong kiến che phủ, tất yếu phải là hình vẽ phác của phương thức tư bản chủ nghĩa. Không thể khai thác mỏ nếu không có sự phân công lao động tương đối phức tạp. Nói một cách khác, có thể coi mỗi mỏ là một công trường thủ công thô sơ, tập trung thợ và phu đông đảo, có phân công rõ rệt do bản thân công việc lao động khai mỏ quyết định. Trong các cục bách công nhà nước, mặc dầu thân phận người thợ vẫn là một thân phận không tự do, cũng phải có phân công lao động và tập trung thợ thủ công mới tiến hành sản xuất được. Mỗi cục như thế cũng là một công trường thủ công thô sơ. 71

Mặt khác: « T ô tiền chỉ xuất hiện được khi nào thương nghiệp, công nghiệp thành thị, sức sản xuất hàng hoá nói chung và sự lưu thông tiền tệ đã phát triển khá mạnh… Sau nữa, sự biến đổi từ tô hiện vật ra tô tiền tất yếu sinh ra trước hoặc sau khi đã thành hình một tầng lớp lao động công nhật hoàn toàn tay không phải bán sức lao động lấy đồng lương để sống ». (Marx: Tư bản luận)

Đã có tầng lớp lao động công nhật tức là đã thành hình một tầng lớp phú nông thuê người làm (nghĩa là bóc lột theo thể thức tư bản chủ nghĩa). Thôn quê đã phân hoá. Mà:

«sự phân hoá của nông dân đẻ ra một thị trường nội địa cho tư bản chủ nghĩa… So với người trung nông thì người vô sản nông thôn tiêu thụ ít hơn nhưng lại mua ở thị trường nhiều hơn» (Lénine: Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga ).

Engels cũng đã nói rằng quá trình sáng tạo thị trường nội địa là do sự phân hoá của nông dân quyết định.

Một khi Nhà nước đã phải quy định lương công nhật (30 đồng tiền) của người làm thuê thì tất nhiên biện pháp ấy phải đáp ứng một nhu cầu xã hội quan trọng (hoặc để bênh vực người thuê nhân công, hoặc bênh vực người làm thuê: tức là đã có một mâu thuẫn xã hội phải giải quyết). Như vậy là đời Hồng Đức, nông thôn Việt-nam đã phân hoá; tầng lớp phú nông (tư sản thôn quê) và tầng lớp vô sản nông thôn đã thành hình, tạo ra thị trường tiêu thụ rộng rãi cho công thương nghiệp phát triển.

Thêm vào những nhân tố ấy, sự có mặt của tầng lớp thương nhân đem hàng hóa ở tỉnh này đến tỉnh khác, mua hàng ngoại quốc ở Vân-đồn đem đi bán các nơi (và lẽ dĩ nhiên phải mua sản phẩm hoặc hàng hóa ở các nơi đem bán cho ngoại quốc) cũng là một tầng lớp kinh dinh có tính chất tư bản (dù còn ấu trĩ).

Năm 1432, phó Đô ngự sử là Quách đình Bảo tâu với Lê Thánh Tôn:

«Kinh sư là đầu mối bốn phương, cần phải cho tài hóa lưu thông, buôn bán được đầy đủ. Nay nếu đuổi những người tạp cư về nguyên quán, sợ rằng việc buôn bán ở kinh sư sẽ phải thưa thớt không được phồn thịnh như trước.

« Như thế, không những các nhà buôn chạy, buôn ngồi nhiều người sẽ thất nghiệp mà hàng chợ sẽ tiêu điều, thuế khóa cũng sẽ hao hụt, thực là một việc không tiện.

« Vậy trừ những hạng tạp cư vô lại thì đuổi ra ngoài, còn những người vẫn có cửa hàng ở chợ, ở phố thì cho phép ở lại buôn bán sinh nhai và phải ghi tên vào phường mình ở để nộp thuế theo thể lệ» . (Phạm công Trứ: Đại Việt sử ký thực lục, bản ký ).

Chính tầng lớp «buôn chạy, buôn ngồi» này, trong khi làm cho «tài hóa lưu thông» bằng cách chuyển vận hàng hóa ở các tỉnh đến kinh sư, đã tạo ra những liên lạc kinh tế giữa các địa phương trong xứ , cơ sở vật chất của sự thống nhất dântộc.

Trong một tập sách bút chiến với những phần tử tự xưng là «bạn dân», nhân bàn đến sự hình thành của dân tộc Nga, Lénine có viết:

«…Chỉ đến thời cận đại của lịch sử Nga (vào khoảng thế kỷ XVII), các địa phương mới thực sự kết hợp thành một khối. Sự hợp nhất này có được là nhờ có sự trao đổi hàng hóa mỗi ngày một phồn thịnh giữa các địa phương và sự tập trung các thị trường nhỏ địa phương thành một thị trường chung cho cả nước Nga. Những người chỉ đạo và làm chủ quá trình ấy là những nhà đại phú thương tư bản chủ nghĩa; cho nên sự cấu tạo ra những liên lạc dân tộc không là gì khác sự cấu tạo ra những liên lạc tư sản». 72

Thế kỷ XVII, mặc dầu chính quyền vẫn ở trong tay giai cấp phong kiến, Lénine không hề cho rằng giai cấp ấy lãnh đạo quá trình thống nhất dân tộc Nga. Tầng lớp thực sự lãnh đạo quá trình ấy là tầng lớp thương nhân tư bản chủ nghĩa. Ở Việt-nam cuối thế kỷ XV, những người cấu tạo ra sự liên lạc dân tộc cũng là những thương nhân đem hàng hóa ở bốn phương đến kinh sư tiêu thụ. Đó là sự liên lạc kinh tế tư sản. Không thể vì thời đó giai cấp địa chủ bình dân cầm quyền mà gán cho nó vai trò chỉ đạo quá trình thống nhất dân tộc được.

Nói tóm lại sự cộng đồng lãnh thổ, sự phân công lao động xã hội rộng rãi thành nhiều nghề chuyên môn hóa, sự xuất hiện mầm mống của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự thành hình các tầng lớp phú nông và vô sản nông thôn, sự kinh dinh của các nhà buôn lớn, sự lưu thông tiền tệ, sự thống nhất phép đo lường ở các chợ, sự cấu tạo thị trường dân tộc, sự cộng đồng về ngôn ngữ và tâm lý dân tộc: ngần ấy nhân tố đã có mặt trong xã hội phong kiến Việt-nam cuối thế kỷ XV – mặc dù những nhân tố ấy còn non yếu. Chính đó là những điều kiện cơ bản của sự thành hình sơ bộ của dân tộc Việt-nam. Theo ý tôi, đây không phải là một dân tộc tiền tư bản chủ nghĩa. Đây là một dân tộc thuộc phạm trù dân tộc tư sản (nhưng còn ở một trình độ thấp kém).

Trong bài «Thử bàn về sự thành hình của dân tộc Hán» ông Trương chính Minh, khi nói đến mối quan hệ giữa sự phát triển của kinh tế hàng hóa và tính chất văn học cuối triều Minh, có viết:

« Sự cần thiết làm cho hàng hóa được lưu thông không bị gì trở ngại, và sự trở mình của giai cấp thị dân không những thúc đẩy sự thành hình của tiếng nói chung mà lại còn yêu cầu văn chương phải đi sát lời nói cửa miệng, văn học phải đi sát quần chúng thị dân ». 73

Tình hình văn học Việt-nam thế kỷ XV chứng minh ý kiến đúng ấy. Không những các nhà văn thuộc loại nho sĩ bình dân đã sáng tác những tiểu thuyết «đi sát lời nói cửa miệng» (Trinh thử, Trê cóc, Thạch sanh) và phản ánh tư tưởng thị dân mà ngay đến vua Lê Thánh Tôn cũng bị áp lực của thời đại thiên về hướng ấy. Sự trìu mến thiết tha của nhà vua đối với cảnh buôn bán trên bến dưới thuyền của làng Tam Chế và ý nghĩ «vì dân khoan giản bên tô thuế», sự thương xót của nhà vua đối với vợ chàng Trương bị chồng nghi oan và hành hạ đến phải tự tử ở Hoàng giang đề ra một thắc mắc về chế thiết nam quyền trong xã hội phong kiến… là những bằng chứng của sự thiên hướng ấy.

Tuy nhiên, vì kỹ thuật canh tác nông nghiệp biến đổi chậm chạp làm cho sức sản xuất nông nghiệp không phát triển được mạnh và sức mua của nông dân bị hạn chế, vì không có điều kiện bắt được vào luồng trao đổi hàng hóa thế giới một cách rộng rãi, lại bị chính trị của giai cấp phong kiến kìm hãm, cho nên các tầng lớp công thương thị dân Việt-nam nửa sau thế kỷ XV không thể tiến lên thành một giai cấp tư sản như ở Tây Âu được. Do đó, văn học chữ viết dân tộc, thế kỷ XV, biểu hiện một tính chất dân tộc còn pha nhiều yếu tố phong kiến Trung-quốc chưa thanh toán được (xem thể văn và lời văn của thi tập Quốc âm Nguyễn Trãi, Hồng đức quốc âm thi tập, Tiêu tương bát cảnh của Nguyễn Xung Ý). Sau Hồ Quý Ly, mặc dầu đã coi trọng văn Nôm, nhà Lê vẫn độc dụng Hán văn làm công cụ học, thi, thảo giấy tờ công; các nho sĩ vẫn sáng tác và trước thuật bằng Hán văn. Tư tưởng phong kiến vẫn còn chủ đạo nhiều công trình sáng tác văn học (ca tụng tiết trinh, bênh vực chế độ đa thê, phân biệt tôn ti nam nữ, mạt sát luân lý con buôn của Lý Thông trong Thạch Sanh…) Bởi vậy, về nội dung cũng như về hình thức, trình độ gọt giũa của văn học Nôm thế kỷ XV còn chưa được nâng cao đến mức biểu thị một dân tộc tính hoàn chỉnh – chưa có cổ điển tính .