Chương NĂM VĂN HỌC CỔ ĐIỂN VIỆT-NAM (tiếp theo và hết)
1) Đến đầu thế kỷ XVI, kinh tế hàng hóa đứng sững ở mức đầu quá trình tư bản chủ nghĩa không gặp điều kiện để tiến lên nữa, đã làm cho sự thống nhất chính trị và sự thống nhất lãnh thổ của dân tộc bị phá vỡ. Điều này càng chứng minh rằng:
Một dân tộc dù có nhất thời thành hình sơ bộ trên cơ sở của những lực lượng kinh tế hàng hóa đã bắt đầu tư bản chủ nghĩa hóa mà nếu không mở được lối tiến triển cho những lực lượng ấy thì thể nào cũng lại lùi về hình thái phân tán, phân quyền .
Sau những cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng nổ liên tiếp trong ngót mười năm (1511-1517), sau những vụ tàn sát tương tranh trong triều đình (1517-1527), Mạc Đăng Dung, một viên đô lực sĩ xuất thân từ nghề đánh cá vùng Hải-dương, cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc. Từ đấy, nội chiến không lúc nào dứt trong 70 năm. Dưới danh hiệu phù Lê, hết Lê Công Uyên đến Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng nối nhau đánh Mạc. Giang sơn bị chia cắt: từ Thanh-hóa trở vào thuộc Lê, từ Sơn-nam trở ra thuộc Mạc, gây thành cái thế Nam triều Bắc triều trong suốt thế kỷ XVI. Bước sang thế kỷ XVII, tình trạng Nam Bắc phân tranh (giữa Trịnh và Nguyễn) lại càng quyết liệt.
Nhưng, trên đường phát triển của dân tộc, từ đó, lại nẩy ra hai nhân tố mới đặc biệt quan trọng mà nhà văn học sử Việt-nam không thể không thấy liên quan chặt chẽ với sự thành hình của văn học cổ điển Việt-nam. Đó là: sự mở rộng bờ cõi Việt-nam đến mũi Cà-mau và sự giao thiệp buôn bán với Tây phương tư bản chủ nghĩa. Hai biến cố lịch sử này tạo ra nhiều đặc điểm của quá trình hình thành dân tộc Việt-nam kỳ thứ hai.
Đặc điểm thứ nhất : Sau khi đã đủ điều kiện để sơ bộ thành hình trong phạm vi một lãnh thổ thống nhất (từ biên giới Hoa Việt đến đèo Cù-mông) khoảng nửa sau thế kỷ XV, thì sự thống nhất lãnh thổ ấy lại bị phá vỡ. Trong 150 năm bọn chúa Nguyễn kế tục nhau xâm lược và thôn tính hết Chiêm-thành đến Chân lạp, tiêu diệt hoặc đồng hóa những dân bị chinh phục, di dân Việt-nam tới để vĩnh viễn chiếm đoạt các vùng đã cướp được. Đến năm 1758, chúa Nguyễn đã lấn chiếm cả phần nửa nước Chân lạp, tương đương với đất Nam bộ ngày nay và đã hoàn thành công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt-nam. Có thể nói: đến tận năm 1758, dân tộc Việt-nam mới tự đăng ký vào bản đồ thế giới, ở một hình thái trọn vẹn và cố định về mặt lãnh thổ. Vì có hiện tượng «lãnh thổ chưa trọn vẹn và cố định» ở nửa sau thế kỷ XV, cho nên thời đó dân tộc Việt-nam mới chỉ thành hình sơ bộ, thành hình một cách phác họa. Do đấy, nó chưa thể nào có đủ khả năng sáng tạo được một cơ sở kinh tế vững chắc để tự duy trì lâu dài.
Đặc điểm thứ hai : Sự hoàn thành hình thái trọn vẹn và cố định của lãnh thổ quốc gia nói trên diễn ra trong tình trạng Trịnh Nguyễn phân tranh, Bắc Nam chia cắt suốt hai trăm năm. Hai miền như hai nước đối lập nhau (lãnh thổ riêng, kinh tế riêng, chính quyền riêng) mà toàn thể nhân dân cũng như các phe phái cầm quyền ở cả hai miền thì lại tự thấy cùng một nguồn gốc lịch sử, cùng một tâm lý dân tộc, cùng một thể cách sinh hoạt, cùng một ý chí thống nhất (chúa Nguyễn vẫn tự coi mình là thần hạ của nhà Lê). Mãi đến năm 1749, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu mới tỏ lộ tất cả dã tâm của hắn và phe lũ muốn vĩnh viễn chia cắt đất nước Việt-nam, tách hẳn miền Nam ra khỏi miền Bắc. Hắn bắt dân đổi y phục, đổi phong tục cho khác người Bắc hà, đặt các thứ chế độ, định triều phục cho các quan, tỏ ra rằng mình làm vua một nước tự chủ.
Đặc điểm thứ ba : Nhưng bọn Nguyễn Phúc Khoát đặt bài tính mà quên mất một số liệu hiện ra ở ngoài ý chí chủ quan của chúng; đó là sự phát triển kinh tế của Việt-nam theo hướng tư bản chủ nghĩa, ở cả Đường trong lẫn đường ngoài. Chính yếu tố khách quan này sẽ quyết định số phận của cả Trịnh lẫn Nguyễn.
Tình hình Trịnh và Nguyễn phân ra Nam và Bắc ở thể thù địch chỉ lăm le nuốt chửng nhau đã đẩy cả hai phe quân phiệt vào công cuộc chuẩn bị chiến tranh thường xuyên. Bao nhiêu chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa của họ đều có mục đích phục vụ sự chuẩn bị ấy. Giữa trạng huống đó, tàu buôn của tư bản ngoại quốc tới tấp đến ven bờ bể Việt-nam. Tầu Nhật, tầu Trung-quốc, tầu Bồ đào nha, tầu Hà lan, tầu Anh, tầu Pháp đua nhau tìm đến bán đảo Ấn độ Chi na xin thông thương với Đường trong cũng như với Đường ngoài. Trịnh và Nguyễn đều nắm lấy cơ hội để bồi đắp tài chính và tăng cường binh lực. Trịnh sợ nếu từ chối người Tây dương không cho thông thương thì họ sẽ giúp Nguyễn; Nguyễn sợ nếu từ chối thì họ sẽ giúp Trịnh – đặc biệt là bán súng, đạn, đồ đồng, diêm sinh. Do đây mà cả Trịnh lẫn Nguyễn đều cố tranh thủ tầu buôn ngoại quốc, mỗi phe đều yêu cầu họ chỉ giúp riêng mình; và gặp trường hợp Đường trong làm khó dễ, những thương nhân Tây dương lại ra buôn bán với Đường ngoài; gặp khó dễ ở Đường ngoài, họ lại vào Đường trong. Cứ thế, suốt thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ XVIII, tầu buôn Tây phương ven bờ Nam hải hết cặp bến Hội an lại đổ lên Phố hiến, bán hàng, mua hàng, gây thành một luồng mậu dịch rộng rãi giữa Việt-nam với thế giới.
Kết quả của luồng mậu dịch này, đối với Việt-nam, là:
1) Dân Việt-nam học tập được một số kỹ thuật sản xuất cận đại: kỹ thuật đúc súng, đóng chiến thuyền, nấu pha lê, chế tạo đồng hồ… Đặc biệt là sự du nhập kỹ thuật chế tạo khí giới cận đại đã làm biến đổi tổ chức binh bị và phương pháp chiến đấu của quân đội (nhờ sự huấn luyện, hướng dẫn của các nhà chuyên môn ngoại quốc).
2) Phương thức buôn bán tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế. Các thương nhân nhiều của xuất vốn đặt hàng cho thợ thủ công gia đình, rồi mua toàn bộ sản xuất phẩm đem bán cho tầu ngoại quốc. Hoặc các nhà mãi biện nhận tiền của thương nhân ngoại quốc đem về các làng đặt hàng trước cho thủ công nhân.
3) Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phổ biến: trong các lò đúc, hầm mỏ, xưởng đóng thuyền, xưởng chế tạo súng đại bác, sự sản xuất yêu cầu tập trung thợ, phân công hợp tác; chế độ làm thuê lĩnh công, bóc lột thặng dư giá trị của lao động; sự tồn tại của một tầng lớp công nhân sống bằng lương.
«Trong công nghiệp khai mỏ, đã nảy nở rõ ràng yếu tố tư bản chủ nghĩa» . (Đào Duy Anh)
4) Nông dân tư hữu và thủ công nhân đã sản xuất hàng hóa để bán ra thị trường rộng rãi qua tay các thương nhân, chứ không phải để tự cung tự cấp hay trao đổi ở các chợ lân cận. Sức sản xuất nói chung được phát triển khá mạnh theo đà mở rộng của mậu dịch. Lúa gạo Gia định chở bằng thuyền biển ra bán ở Thuận hóa. Tơ, đồng Đường ngoài đem vào bán ở nội địa chúa Nguyễn.
5) Tiền tệ lưu thông rộng rãi. Nạn đầu cơ tiền, đúc trộm tiền luôn luôn xảy ra. Tiền đã thành một nhân tố gần như căn bản của quan hệ kinh tế xã hội:
«Chúa Nguyễn mua kẽm trắng của người Tây để đúc tiền cho có lợi. Sau lại trộn thêm kẽm đen, tiền đúc ra mỏng, gi òn và dễ hư, cho nên vật giá cao vọt lên, nhất là giá gạo, gây thành một cuộc tiền hoang và một cuộc nguy cơ kinh tế dẫn đến cuộc khởi nghĩa Tây sơn» . (Đào Duy Anh)
6) Nhiều trung tâm kinh tế mọc ra. Nông dân đổ xô ra thành thị làm nghề buôn bán:
«…kẻ hào phú và dân nhỏ tranh đua đi buôn bán mạt nghệ thì nhiều mà chuyên chú vào nghề nông càng ít; lại có kẻ âm mưu kết bè gian phi vận chuyển những vật cấm…» (Dụ của Trịnh Minh Vương, năm 1745)
Tầng lớp phú thương, trung thương, tiểu thương trở nên đông đảo.
7) Tầng lớp quan lại phong kiến biến chất: nhiều kẻ vừa làm quan vừa kiêm cả buôn bán, thầu mỏ, đầu cơ, buôn lậu… Có nhiều tiền thành một ước vọng phổ biến. Giá trị của tiền bạc lấn áp giá trị của ruộng đất. Quan lại, hào phú, gian thương, con buôn, mại bản… đua nhau kiếm tiền bằng đủ các thủ đoạn 74 . Hiện tượng này có ý nghĩa là bước đầu của quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản chủnghĩa.
Đây là cuộc biến động sâu sắc thứ hai trong cơ cấu xã hội phong kiến Việt-nam sau cuộc biến động ở thế kỷ XIV. Sự phôi thai của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm nảy ra nhiều mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội phong kiến. Đến cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, xuất hiện những mâu thuẫn nghiêm trọng sau đây:
a) Công thương nghiệp đang yêu cầu tự do phát triển ở cả hai miền mâu thuẫn với tình trạng đất nước chia cắt làm hai, với chính sách thuế khóa (đặc biệt là thuế tuần ti, thuế đò chợ, thuế sản vật), với chính sách gây khó khăn cho tầu ngoại quốc (nhất là tầu buôn Tây phương buôn bán với Việt-nam), với chính sách cấm thông thương giữa Đường trong với Đường ngoài (trước 1637, chúa Trịnh vẫn để nhà buôn Bắc hà vào nội địa chúa Nguyễn bán tơ, mua vàng đem trở ra), với nạn quan tham lại nhũng công khai và phổ biến.
b) Xu hướng phát triển của chế độ tiểu tư hữu nông nghiệp (cơ sở của đà phát triển công thương) mâu thuẫn với nạn quan lại cường hào cướp ruộng đất của nông dân, với chính sách thuế má sưu dịch, với nạn trộm cướp hoành hành. Năm 1711, Trịnh Cương phải ra lệnh cấm:
« C ác nhà quyền quý thế gia, các nha viên cùng các nhà hào phú không được thừa lúc các xã dân nghèo khổ phiêu lưu mà thác cớ mua ruộng đất để chiếm làm của riêng tùy tiện lập thành trang trại…»
Hai mâu thuẫn sâu sắc ấy đã biểu hiện ra ở những cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra suốt một nửa sau thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XVIII. Đặc điểm đáng chú ý, ở thời kỳ lịch sử bão táp này, là các tầng lớp công thương mở đầu những cuộc đấu tranh chống sự áp bức và bóc lột của giai cấp phong kiến. Từ 1658 đến 1761, nhất là từ năm 1658 đến 1732, các nhà công thương đấu tranh với chính quyền chúa Trịnh rất bền bỉ, về thuế tuần ti, thuế đò chợ, thuế sản vật. Họ dùng đủ các phương tiện để đạt kết quả mong ước: buôn lậu, vận tải bí mật hàng cấm, đúc trộm tiền, đầu cơ tiền tệ vàng bạc, kháng nghị về sự nhũng nhiễu của bọn hoạt lại thu thuế, phản đối việc đặt nhiều sở tuần ti, không đóng thuế sản vật. Kịch liệt nhất là cuộc đấu tranh chống thuế sản vật kéo dài từ 1724 đến 1732:
«Vì thuế sơn mà tự chặt cây đi; vì thuế vải mà hủy bỏ giường cửi. Thu gỗ củi mà dân bỏ rìu búa, bồ cá tôm mà dân x é chài lưới, đòi mật ngọt mà dân không giồng mía; đánh thuế bông chè mà vườn tược bỏ hoang. Làng xóm náo động, chán nản tích lũy lâu năm, quốc khố cũng nhân đ ấ y thành thiếu thốn» . (Lịch triều hiến chương)
Kết quả: chúa Trịnh phải bỏ thuế sản vật (1732); cũng như bọn chúng đã phải nhiều lần bỏ hàng loạt sở tuần ti, xá thuế đò, giảm thuế chợ, để « khỏi tổn hại cho việc buôn bán» [(lời của Trịnh Minh Vương nói với các quan năm 1743, lúc đem thi hành biện pháp « bỏ hết tuần ti các xứ, mọi bến đò ngang đò dọc nhất thiết đều miễn thuế hết» (Lịch triều hiến chương)].
Nhưng đến hết phần tư đầu thế kỷ XVIII, khi chính sách bế quan tỏa cảng và chính sách khủng bố đạo Gia tô, ở Nam cũng như ở Bắc, càng bị chúa Trịnh và chúa Nguyễn thi hành triệt để hơn thì nền công thương trong xứ bị cắt đứt hẳn với luồng mậu dịch thế giới. Trong lúc đó, sự bóc lột nông dân và sự cướp ruộng đất ở thôn quê, cộng với các tai ương: mất mùa, lụt, sâu keo, hạn hán, ôn dịch, làm cho sức mua hàng của toàn xứ sụt hẳn xuống một cách kinh khủng. Mất liên hệ với thương mại ngoại quốc, mất cơ sở tiêu thụ ở trong nước, lại bị phong kiến chèn ép mạnh, tầng lớp công thương mất dần sinh lực. Chưa đủ lông cánh để bay cao, nó không đủ năng lực vượt ra ngoài những điều kiện lịch sử kiềm chế nó. Cho nên lúc giai cấp nông dân vùng dậy tấn công phe lũ phong kiến quân phiệt (1737) và liên tiếp khởi nghĩa không ngớt suốt thời gian từ đấy cho tới ngày Nguyễn Huệ hoàn thành một phong trào lịch sử vĩ đại, các tầng lớp công thương chỉ phụ họa theo phần nào chứ không đóng được vai trò lãnh đạo.
Tuy nhiên, trong một thế kỷ rưỡi, kinh tế hàng hóa tiến triển đều đều đến hình thái sơ thủy của tư bản chủ nghĩa cũng đã tạo ra được những cơ sở vật chất cho dân tộc tiến tới sự thành hình ở một trình độ cao hơn hồi cuối thế kỷ XV. Sự phát triển kinh tế ấy đề ra những yêu cầu rõ rệt: thống nhất Nam Bắc, tập trung chính quyền, tiêu diệt chế độ chính trị quân phiệt, tự do kinh doanh công thương nghiệp, xây dựng thị trường dân tộc trên cơ sở một thống nhất lãnh thổ mới do cuộc Nam tiến cấu thành, mở rộng ngoại thương, bảo vệ và phát triển chế độ tiểu tư hữu nông nghiệp, chấm dứt nội chiến, chấn chỉnh bộ máy quản trị quốc gia phong kiến, giảm sưu nhẹ thuế. Đó là những yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội ở hai thế kỷ XVII và XVIII. Đó cũng là những yêu cầu của quá trình trưởng thành của những «liên lạc tư sản» đẩy dân tộc tiến đến một trạng thái thành hình mới. Sự thành hình này, mặc dầu do phong trào Tây sơn thực hiện bằng sức mạnh nông dân, vẫn là kết quả của đà phát triển tư bản chủ nghĩa của nền kinh tế Việt-nam ở thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII. Dưới lá cờ chiến thắng của Tây sơn, dân tộc Việt-nam thành hình kỳ thứ hai, ở một trình độ cao hơn cuối thế kỷ XV.
Nhưng dưới triều Tây sơn, các tầng lớp công thương chưa đủ sức làm chỗ dựa vững cho một chính trị lợi cho tư sản. Nền quân chủ phong kiến được dựng lại. Với chính sách Quang Trung, kinh tế hàng hóa bắt đầu được cơ hội tốt để hàn gắn sự vỡ lở xảy ra trong thời kỳ bạo động nông dân. Nhưng các thế lực phong kiến thoái bộ cũng còn nhiều điều kiện để khôi phục lại địa vị. Quang Trung vừa mất đi, đà khôi phục của thế lực phong kiến mạnh và nhanh hơn đà phát triển của thế lực kinh tế hàng hóa chưa lại sức. Tình trạng này đã dẫn đến sự thắng lợi của Gia long(1802).
Suốt thời kỳ thống trị của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn cho đến lúc thực dân Pháp xâm lược là thời kỳ vật lộn không đều sức giữa Nhà nước phản động và các lực lượng đã giảm sút của nông dân, công thương nhân, trí thức bình dân. Những chính sách phản tiến bộ của triều Nguyễn kìm hãm đà phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, phá hoại sinh lực của nông thôn, đè nén trí sáng tạo văn hóa của dân tộc. Tập đoàn phong kiến Nhà Nguyễn đã lần lần làm suy yếu những cơ sở kinh tế và xã hội của trung ương tập quyền, của thống nhất lãnh thổ quốc gia. Tiếng súng thực dân Pháp bắn ở Đà nẵng (1858) báo hiệu ngày sụp đổ rất ngắn của chế độ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn. Năm 1862, chế độ ấy vỡ một mảng lớn. Năm 1884, nó gục xuống để không bao giờ ngóc đầu lên nữa. Sự thống nhất lãnh thổ quốc gia cũng theo vận mạng của chế độ ấy mà vỡ nát. Sự độc lập dân tộc cũng theo đó mà mất dần (1862) và mất hẳn (1884). Triều đình và bọn địa chủ phong kiến đầu hàng. Công thương nhân chưa thành một giai cấp. Nông dân kiệt lực từ lâu. Lòng yêu nước của một số sĩ phu, chí bất khuất của một số quan lại tự trọng, tinh thần quật khởi của nông dân ở những vùng lẻ tẻ không đủ khả năng cứu vớt được tình thế.
Từ 1884 đến cuối khóa toàn quyền của tên thực dân Paul Doumer (1897-1902) ở Việt-nam, bắt đầu một quá trình trung ương tập quyền mới, một quá trình thống nhất lãnh thổ quốc gia mới, một quá trình thành hình dân tộc mới trên cơ sở một cuộc biến động căn bản về cấu tạo kinh tế xã hội, dưới bàn tay chỉ đạo đẫm máu của thực dân Pháp và theo hình thái thuộc địa bán phong kiến.
*
Quá trình dân tộc thành hình kỳ thứ hai (thế kỷ XVIII) ở trình độ cao hơn kỳ thứ nhất (thế kỷ XV) rồi bị tập đoàn Nhà Nguyễn phá hủy cơ sở, và cuối cùng bị thực dân Pháp can thiệp vào, quá trình ấy đã được phản ánh trong sự nghiệp phát triển văn học dân tộc như thế nào? Có thể chia ra làm 4 thời kỳ lớn:
- Thời kỳ thứ nhất từ đầu thế kỷ XVI đến năm xuất hiện Chinh phụ ngâm (1745)
- Thời kỳ thứ hai từ năm có Chinh phụ ngâm đến năm xuất hiện Truyện Kiều (1815)
- Thời kỳ thứ ba từ Truyện Kiều đến năm xuất hiện Tự tình khúc của Cao bá Nhạ (1864)
- Thời kỳ thứ tư từ 1864 đến năm xuất hiện Đề tỉnh quốc dân ca (khoảng 1902-1905).
I. THỜI KỲ THỨ NHẤTSau một thời gian phát triển chậm chạp của văn học dân tộc (thế kỷ XVI và nửa đầu thế kỷ XVII) – sự cố gắng Việt hóa những thể văn Trung-quốc (thơ phú Đường luật vẫn tiếp tục chậm chạp với Nguyễn bỉnh Khiêm, Nguyễn Hãng, Đào duy Từ) nhưng các nhà trước tác đã xa lìa truyền thống biểu hiện văn học dân tộc (thể lục bát, loại truyện dài) của thời kỳ trước – từ giữa thế kỷ XVII trở đi, nhờ sự kích thích của ngoại thương và của nhân dân đấu tranh kịch liệt chống chế độ quân phiệt của chúa Trịnh, công cuộc phát triển văn học dân tộc lại tiến mạnh. Hiện nay, ta chưa biết được đích xác những tác phẩm văn học của thời kỳ này, vì tài liệu quá ít ỏi và chưa được giám định nghiêm túc. Ta chỉ có thể căn cứ vào một vài sử liệu chắc chắn để khẳng định rằng thời ấy có một luồng văn học Nôm, chủ yếu là truyện, có tính chất chiến đấu phản kháng chế độ chúa Trịnh.
Năm 1663, phủ chúa Trịnh ban ra 47 điều giáo hóa, trong đó có một điều rằng:
« Những sách cần cho sự giáo hóa trong đời thì có thể in ra mà truyền bá. Nhưng gần đây có kẻ hiếu sự đặt ra những truyện quốc âm mà không phân biệt sự gì đáng làm với không đáng làm, rồi đem khắc in mà bán, việc đó cần phải cấm. Vậy từ nay, ai có trong nhà những bản in hay là những sách ấy phải nộp cho quan xem xét và hủy đi».
Năm 1781 lại có một đạo sắc chỉ cấm sách y như thế (chép ở cuốn Lịch triều tạp chí của Cao lạng). Giữa khoảng 1663-1718, lại xẩy ra những việc Trịnh Tạc ra lệnh đuổi hết các giáo sĩ ngoại quốc, cấm người Việt không được theo đạo Thiên chúa, đốt các nhà thờ, đốt sách đạo (1669). Chính năm 1663 cũng là năm khởi đầu cuộc khủng bố này. Và năm 1718 cũng lại là năm chính sách khủng bố ấy quyết liệt nhất: Trịnh Cương bắt những người theo đạo Thiên chúa phải cạo trán và khắc vào mặt 4 chữ «Học Hoa lang đạo». Năm 1723 và năm 1737, một số giáo sĩ dòng Dominicain bị xử tử. Không cần nói, ta cũng biết rằng những sách đạo bị đốt là những sách in bằng chữ quốc ngữ.
Mấy sự kiện vừa kể chứng thực rằng:
a) Khoảng giữa thế kỷ XVII, và suốt thời gian từ đó đến những năm sau sắc chỉ 1718, có một phong trào viết, in và bán những truyện Nôm phổ cập trong nhân dân. Như vậy tức là: nghề in, nghề xuất bản đã thịnh; tác phẩm văn học Nôm đã thành một hàng hóa tiêu thụ khá rộng rãi ở thị trường và đã sinh lợi; số nhà văn Nôm đã đông đảo và có thể đã sinh sống bằng sáng tác; công chúng độc giả biết chữ Nôm và mua sách Nôm đã thành một khối khá lớn làm khách hàng của các nhà xuất bản; trình độ văn hóa của các tầng lớp bình dân đã tương đối cao.
b) Phong trào truyện Nôm ấy tất nhiên phải đe dọa, tố cáo, phản đối quyền độc tài của chúa Trịnh và uy hiếp ngôi thống trị của chúng, nên chúng mới phải dùng đến những biện pháp khủng bố để tự vệ. Tâm lý phản kháng không phải là phổ biến trong các lớp bình dân cho nên thứ văn học chống Trịnh kia mới được hoan nghênh, ủng hộ rộng rãi như thế, khiến bọn chúa Trịnh hoảng hốt phải thẳng tay đàn áp.
c) Năm 1663 cấm sách; năm 1669 đốt sách; đến 1718 lại phải cấm sách tỏ ra rằng chính sách khủng bố của bọn chúa Trịnh chẳng những đã không dập tắt được phong trào văn học chống Trịnh mà lại còn thúc đẩy nó phát triển mạnh thêm. Phong trào văn học Nôm đã thực sự thành một vũ khí đấu tranh chính trị của quần chúng nên không thể nào dùng cường quyền mà dập tắt được dễ dàng. Nó có một cơ sở xã hội vững chắc, và sự xuất hiện và tồn tại của nó đáp ứng một yêu cầu khách quan của thời đại. Chúng ta đều biết rằng thời gian 1663-1718 là thời gian các tầng lớp công thương đang đấu tranh với chúa Trịnh để giành giật những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển những mầm mống tư bản chủ nghĩa. Đó cũng là thời gian nông dân đang bị bóc lột nặng nề nhất và đã lẻ tẻ nổi lên chuẩn bị cho những trận chiến đấu vũ bão sau 1737. Phong trào văn học Nôm, căn bản, thể theo nhu cầu của những tầng lớp ấy mà nẩy ra và phát triển. Tất yếu, nội dung tư tưởng của nó phải bao gồm những nhân tố thị dân kết hợp với những nhân tố ý thức chân chính của nông dân.
d) Không phải ngẫu nhiên mà sự cấm sách Nôm lại xảy ra cùng một lúc với sự phá nhà thờ Thiên Chúa, đốt sách đạo, giết người theo đạo, đuổi giáo sĩ ngoại quốc. Cần nhắc lại rằng đạo Thiên Chúa sang Việt-nam bằng những chiếc tầu buôn tư bản Tây phương, và nó cũng là một công cụ của bọn tư bản Tây phương trong việc buôn bán. Bởi vậy đất gieo hạt đầu tiên của đạo Thiên Chúa là các tầng lớp công thương ở miền ven bể – vì các tầng lớp này có lợi nhất trong việc thông thương với tư bản Tây phương. Khi chúa Trịnh hay chúa Nguyễn khủng bố đạo Thiên Chúa, các giáo sĩ ngoại quốc thường trốn ẩn trong các gia đình công thương ngoan đạo để hoạt động bí mật. Một mặt khác, đạo Thiên Chúa có khả năng thu hút các tầng lớp dân nghèo ở nông thôn bằng những giáo lý huyễn hoặc của nó. Tác dụng của sự truyền giáo Thiên Chúa là phủ nhận uy quyền của vua chúa. Cứ đọc một câu này trong sách Phép giảng tám ngày của Alexandre Rhodes (in năm 1651) viết bằng quốc ngữ: « Có kẻ đi hầu hạ chầu chực bua (vua) mà được làm quan. Đến khi linh hồn hắn ra khỏi xác, những sự ếy (ấy) thì phải bỏ đem về chẳng được đi gì sốt» cũng đủ thấy chúa Trịnh chúa Nguyễn đốt sách đạo không phải là vô cớ. Sách đạo xúc phạm nghiêm trọng đến quyền thế và sự phú quý của chúng.
Trên cơ sở ấy – trình độ văn hóa tương đối cao của các tầng lớp bình dân, quá trình đấu tranh gay gắt của các nhà công thương lớn và nhỏ đòi tự do kinh dinh, tâm lý phẫn uất của nông dân bị bóc lột đang lăm le khởi nghĩa, tình trạng đàn áp khủng bố các nhà trí thức quan liêu không chịu làm nô lệ cho chúa Trịnh, biện pháp cấm Thiên chúa giáo, phá nhà thờ, đốt sách đạo, giết giáo sĩ và giáo dân – văn học dân tộc đã bắt rễ được vào quảng đại quần chúng và thúc đẩy sự giải quyết những vấn đề cốt yếu của dân tộc: phát triển kinh tế hàng hóa theo hướng tư bản chủ nghĩa, tiêu diệt chính quyền cát cứ và độc tài để thống nhất quốc gia, chống cường quyền áp bức tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, bảo vệ nhân phẩm và hạnh phúc cá nhân, duy trì và củng cố lòng tự tôn dân tộc bị xâm phạm (lúc đó, nhà Thanh lấn mất của ta 15 động thuộc tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn mà bọn vua chúa đành phải chịu khoanh tay). Loại truyện là hình thức văn học sở thích của bình dân, thể lục bát là thể thơ dân tộc phổ cập đến mọi tầng lớp xã hội được sử dụng phong phú. Dân tộc tính và nhân dân tính được thống nhất trong nội dung và nghệ thuật văn học. Phong trào dùng loại văn và thể thơ dân tộc và bình dân đã khiến chúa Trịnh Căn, muốn chống lại nó, phải giao cho một sử quan soạn cuốn Thiên Nam ngữ lục bằng lục bát theo lối thuật chuyện, chép sử nước ta từ Hồng bàng đến cuối đời thuộc Minh có thêm đoạn kết luận tán tụng Trịnh Tộ là có công lớn với nền Trung hưng của nhà Lê. 75
Chúng tôi ức đoán rằng một số lớn những tác phẩm Nôm khuyết danh: như Lý Công, Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân, Phật bà Quan âm, Thị Kính, Nhị độ mai, Hoàng Trừu… đều ra đời khoảng 1660-1745. Đó là những tác phẩm còn sót lại qua những cuộc phá hủy truyện Nôm của bọn Trịnh Tạc, Trịnh Cương. Những tác phẩm ấy đều biểu thị một vài yếu tố tinh thần chung: lòng tin cuồng nhiệt có tính chất tôn giáo của những con người tuẫn đạo, lòng trung thành tuyệt đối với chính nghĩa tuyệt đối hóa, sự hy sinh không điều kiện để bảo vệ chính nghĩa. Những tác phẩm ấy đều tố cáo và lên án những hành động dã man của bọn thống trị: khoét mắt, chặt tay, chặt chân, đốt chùa, giết người, đầu độc, bức tử. Những tác phẩm ấy đều đề cao người thiện, gây cho độc giả lòng sùng mộ đối với những người tốt bị đày ải chết chóc vì công lý, vì nhân đạo, vì tín ngưỡng chân chính. Những tác phẩm ấy đều truyền cho người đời một tinh thần lạc quan sắt đá: kẻ làm ác sẽ bị trừng trị xứng đáng mặc dầu nhất thời thắng thế; người làm thiện cuối cùng sẽ được hưởng phúc mặc dầu nhất thời bị đau khổ thất bại. Bối cảnh xã hội cũng những tác phẩm ấy rõ ràng là một thời khủng bố quân phiệt của bạo chúa, thời mà sức chống đối của những phần tử xã hội bị chính sách khủng bố tàn bại còn yếu. 76
Tuy nhiên, sự chống đối này không phải là không có tác dụng:
« Trước kia, phàm người bị tội lưu lại phải chịu thêm tội chặt tay. Đến đời Dụ tôn (1705 - 1720) Trịnh Cương bỏ tội chặt tay và sửa lại rằng tội chặt hai tay và lưu đi viễn châu thì cải làm tội đồ chung thân; tội chặt một tay và lưu đi ngoại châu thì cải làm tội đồ 12 năm; tội chặt hai ngón tay trỏ và lưu cận châu thì cải làm tội đồ 6 năm ». (Đào Duy Anh: Việt-nam lịch sử giáo trình, trang 43)
Theo chúng tôi nghĩ, sự cải cách hình luật của Trịnh Cương là kết quả của cuộc phản kháng (bằng văn học) của nhân dân đối với các tội chặt tay có tính cách trung cổ lưu hành trước đời Dụ tôn. Bọn bạo chúa đã phải nhượng bộ quần chúng một vài điểm trong khi khủng bố các lực lượng chống lại chúng. Ra lệnh cấm các quan lại cường hào không được cướp ruộng đất của nông dân năm 1711, bỏ tội chặt tay năm 1720, bỏ thuế sản vật năm 1732: những hành động ấy của Trịnh Cương quyết không phải là do lòng tốt của hắn mà chính là do áp lực mạnh mẽ của quần chúng đấu tranh bằng đủ các phương tiện, trong đó sáng tác truyện Nôm là một. Các tầng lớp bình dân nhiệt liệt hoan nghênh, ủng hộ, tiêu thụ các sáng tác phẩm Nôm khoảng 1658-1745 bị chúa Trịnh cấm và đốt là bởi văn học chiến đấu ấy đã đáp ứng đúng nhu cầu chính trị của họ.
Cuộc đấu tranh chống Trịnh của các tầng lớp bình dân khoảng 1658-1745 – chủ yếu là công thương gia và nho sĩ bất mãn – đã thúc đẩy văn học dân tộc tiến một bước khá dài. Loại truyện, loại vè, thể thơ lực bát được sử dụng rộng rãi, rất phù hợp với sở thích văn học của quảng đại nhân dân. Ngôn ngữ bình dân đã chiếm địa vị ưu thế, lấn hẳn những sáo ngữ Trung-quốc. Phần lớn các chủ đề và nguyên liệu sáng tác đã lấy ở đời sống Việt-nam, hơn nữa, ở đời sống bình dân. Tư tưởng và tình cảm con người, mặc dầu còn khoác hình thái phong kiến, đã có thị dân tính khá đậm đà. Những đức tính cao quý của dân tộc, như: tính lao động cần kiệm, tính can đảm khắc phục gian khổ, tính bất khuất trước kẻ thù, tính hy sinh vì chính nghĩa, tính kiên nhẫn lạc quan, đã được biểu hiện vào những nhân vật tương đối sinh động và có cá thể tương đối tập trung.
Tuy vật, nhiều tác phẩm ở thời kỳ này còn mắc vào tính sơ lược. Những điển hình văn học còn nghèo về chất sống tâm lý và chưa tập trung được mọi quan hệ xã hội phản ánh vào vận mạng con người. Bố cục các tác phẩm còn lỏng lẻo, luộm thuộm chưa đạt được tính hài hòa, cân bằng, hệ thống. Ngôn ngữ chưa được gọt giũa đúng mức; câu thơ chưa đạt được tính hoàn chỉnh. Tác phẩm có thể coi như kết tinh được mức độ tiến triển cao nhất của văn học dân tộc ở thời kỳ này là Nhị độ mai, tuy đã vượt xa các tác phẩm khác đồng thời về nhiều phương diện, cũng vẫn chưa thoát khỏi được ít nhiều nhược điểm nói trên. Nhưng với Nhị độ Mai , văn học dân tộc đã tiến sát đến ngưỡng cửa thời kỳ cổ điển chủ nghĩa.
II. THỜI KỲ THỨ HAIThời kỳ này là thời kỳ toàn thịnh của văn học cổ điển Việt-nam. Như đã trình bầy ở Chương bốn, xã hội phong kiến Việt-nam càng phát triển đến những trình độ đẻ ra các yếu tố có tác dụng giải thể nó; những lực lượng tiến bộ trong lòng xã hội phong kiến càng bị đẩy đến chỗ phải thực hành những nhiệm vụ lịch sử thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giải thể ấy – chủ yếu là những nhiệm vụ:
« Phát triển và bảo vệ quyền tư hữu nông dân về ruộng đất; phát triển công thương nghiệp và kiến lập thị trường dân tộc; bảo vệ độc lập quốc gia, thống nhất lãnh thể, trung ương tập quyền; tăng cường ý thức cá nhân chủ nghĩa thị dân và ý thức dân quyền chủ nghĩa – thì văn học dân tộc càng tiến đến cổ đi ể n tính, nghĩa là tiến đến một dân tộc tính, một nhân dân tính, một thị dân tính già dặn về mọi phương diện: chất liệu văn học, hình tượng văn học, hình thức văn học, ngôn ngữ văn học » .
Đó là quy luật của quá trình xây dựng truyền thống văn học gọt giũa Việt-nam trong thời đại phong kiến.
Những điều kiện cần thiết cho sự thành hình văn học cổ điển Việt-nam, nêu ra trong định thức trên đây, đều hiện diện đầy đủ trong thời kỳ lịch sử 1740-1820. Đây là một thời kỳ khủng hoảng gay gắt nhất của xã hội phong kiến Việt-nam. Bao nhiêu mâu thuẫn căn bản đều đạt tới trình độ đòi hỏi một giải quyết kịch liệt. Tất cả đều biểu hiện ra ở những cuộc đấu tranh giai cấp liên tiếp, đổ máu, rộng rãi, sâu sắc, suốt thời gian 1740-1820 không lúc nào ngớt. Điều đáng chú ý là: lúc nào mà xã hội phong kiến Việt-nam bắt đầu bị những cuộc khởi nghĩa nông dân tấn công quyết liệt (mở màn cho non một thế kỷ bạo động nhân dân) chính là lúc mà bọn quân phiệt Trịnh và Nguyễn cương quyết cắt đứt kinh tế trong xứ với luồng mậu dịch Tây phương khá phồn thịnh trong thế kỷ XVII. Có thể nói rằng chính sách bế quan tỏa cảng của bọn Trịnh và Nguyễn đã là nguyên nhân sâu xa nhất của những cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỷ XVIII.
Sự buôn bán với các tầu tư bản Tây phương thúc đẩy đà tiến triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến Việt-nam. Nó có thể làm cho các tầng lớp tư sản thương nghiệp càng ngày càng lớn mạnh hơn. Nó kích thích sự sản xuất kinh tế nói chung, lôi cuốn nông thôn vào con đường nông nghiệp thương mại, mở rộng cơ sở kinh dinh của các thủ công nghiệp, của các thủ công trường, đem quan hệ tiền bạc thay thế cho những quan hệ phong kiến giữa người với người. Yêu cầu cấp bách của sự phát triển kinh tế theo hướng đó là: thống nhất quốc gia, tập trung chính quyền, xây dựng thị trường dân tộc, an ninh xã hội.
Đứng về phía bọn chúa Trịnh, Nguyễn mà xét thì cắt đứt kinh tế trong xứ với nguồn mậu dịch thế giới là cắt đứt tận gốc ý chí thống nhất quốc gia, tập trung chính quyền; là duy trì vĩnh viễn tình trạng Bắc Nam chia cắt; là củng cố địa vị thống trị ích kỷ của chúng. Đứng về mặt lịch sử mà xét thì chính sách đó của bọn chúa Trịnh, Nguyễn là một chính sách ngăn chặn xã hội Việt-nam tiến lên tư bản chủ nghĩa, đi ngược lại yêu cầu phát triển khách quan của các lực lượng sản xuất xã hội, phá hoại khả năng thành hình của dân tộc. Vì thế mà chúng phải thất bại không tránh được.
Kết quả tất yếu của chính sách kinh tế phản động ấy là: ở Bắc cũng như ở Nam, sức sản xuất xã hội giảm sút một cách nhanh chóng. Thủ công nghiệp bị đình đốn, nông nghiệp bị khốn quẫn, thương nghiệp bị phá sản. Các tầng lớp nông công thương bị dồn đến tình trạng bần cùng hóa. Thiếu một nguồn lợi khá quan trọng để bồi dưỡng tài lực quốc gia (tức là thuế thu được khi còn có sự buôn bán với nước ngoài), bọn Trịnh, Nguyễn phải bóc lột nông dân và công thương nhân nặng hơn lên để lấy tiền chi phí. Sự chiếm ruộng đất nông dân trở nên một hành động phổ biến của quan lại cường hào. Nạn hối lộ, nạn trộm cướp cộng thêm những tai họa mất mùa, lụt, hạn hán, sâu keo, làm cho toàn thể bình dân lâm vào cảnh sống dở chết dở – nhất là nông dân.
Tiêu diệt bọn chúa Trịnh, chúa Nguyễn; thống nhất Bắc Nam; tập trung chính quyền vào một Nhà nước mạnh, mở rộng ngoại thương; bảo vệ công thương nghiệp; bảo vệ tư hữu cho nông dân; giảm sưu nhẹ thuế; bảo đảm an ninh trật tự xã hội; đó là những điều mà toàn dân phải thực hiện kỳ được nếu không muốn kéo dài một cuộc sống ngắc ngoải. Đó là con đường sống của nhân dân, con đường tiến của sức sản xuất kinh tế, và cũng là con đường thành hình của dân tộc – con đường chính nghĩa.
Toàn thể các tầng lớp bình dân – chủ yếu là nông dân – đã nhất tề đứng dậy dùng giáo mác, cầy bừa, ồ ạt tấn công vào chế độ thống trị của Trịnh, Nguyễn, của quan tham lại nhũng, của cường hào địa chủ, suốt từ Nam đến Bắc, liên tiếp già nửa thế kỷ, cho đến thắng lợi cuối cùng là sự thành công rực rỡ của Tây Sơn. Theo lá cờ giải phóng của anh hùng Nguyễn Huệ, toàn dân đã quét sạch chúa Trịnh, chúa nguyễn, vua Lê, phá tan mọi cuộc xâm lược của các lực lượng ngoại tộc (Xiêm-la, Trung-quốc) do bọn vua chúa phản nước phản dân ấy cầu viện, bảo vệ sự độc lập quốc gia, thống nhất Bắc Nam, lập lại an ninh trật tự.
Trên cơ sở những thành quả ấy, dân tộc Việt-nam thành hình kỳ thứ hai, trọn vẹn hơn kỳ thứ nhất (thế kỷ XV). Sự thắng lợi lịch sử của Tây Sơn, căn bản, là sự thắng lợi của xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của xã hội Việt-nam nửa sau thế kỷ XVIII. Lần này, mà cũng là lần đầu tiên, toàn thể nhân dân trực tiếp xây dựng, bằng bàn tay khối óc của mình, sự thành hình của dân tộc đồng thời với đà phát triển của kinh tế xã hội theo hướng tư bản chủ nghĩa-trong đó, đời sống vật chất và tinh thần của con người (bình dân) được nâng cao hơn ở các thời kỳ lịch sử trước. Chính sách trị nước của vua Quang Trung đã phản ánh trung thành những nguyện vọng nhân dân ấy. Cương quyết giữ vững độc lập dân tộc, và làm cho các nước láng giềng phải kiêng nể; thực hành chính sách phú quốc cường binh (phát triển nông nghiệp trên cơ sở tiểu tư hữu nông dân, mở rộng ngoại thương, chiếu cố các tầng lớp công thương, xây dựng quân đội hùng mạnh để bảo vệ tổ quốc), xóa bỏ ranh giới các thân phận xã hội để đề cao người bình dân; phổ biến giáo dục đến tận thôn xã; chủ trương lấy chữ Nôm làm văn tự dân tộc dùng cho sự học, sự thi cử và sự thảo các giấy tờ nhà nước, tôn trọng tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng: chính trị Quang Trung là một chính trị dân tộc, bình dân, tiến bộ, mở đưởng cho xu hướng tư bản chủ nghĩa trong kinh tế.
Hồ Quý Ly (cuối thế kỷ XIV), Lê Thánh Tôn (cuối thế kỷ XV), Quang Trung (cuối thế kỷ XVIII): đó là ba cái mốc tiêu biểu của một quá trình lịch sử – quá trình trưởng thành của dân tộc; quá trình phát triển của yếu tố tư bản chủ nghĩa trong kinh tế; quá trình xây dựng một văn hóa dân tộc độc lập. Triều đại Quang Trung là điểm cao nhất của quá trình ấy.
Nhưng vì, trong suốt chặng đường thứ ba của quá trình này (1940-1802), các tầng lớp tư sản công thương chưa đủ khả năng để thành một giai cấp và do đó chưa lãnh đạo được nông dân chống chế độ phong kiến, cho nên những thành quả xã hội của các cuộc đấu tranh diệt bọn vua chúa (Lê, Trịnh, Nguyễn) bị hạn chế rất nhiều. Thiếu một giai cấp tư sản đông đảo làm cơ sở dựng nước, chính trị Quang Trung bị sa lầy trong bộ máy quan liêu phong kiến nằm trong tay những phần tử đại diện của giai cấp địa chủ. Sau khi Quang Trung mất, bộ máy ấy thủ tiêu ngay những cải cách của Quang Trung chưa kịp đem thực hiện. Giai cấp địa chủ trỗi dậy nắm lấy chính quyền và dọn đường cho Gia-long lên ngôi hoàng đế với sự giúp đỡ của quân đội tư bản Pháp. Thành tựu trên cơ sở chống lại cuộc cách mạng của nông dân, triều Nguyễn, trong những năm đầu, tập trung lực lượng để tiêu diệt những thành quả của cuộc cách mạng ấy. Thành tích tiêu biểu nhất của nó trong khoảng thời gian này là bộ Hoàng triều luật lệ (1815) được biên soạn giữa những tiếng thét uất hận của những trận đánh hậu vệ của nông dân. Đến 1920, tình hình xã hội mới tương đối yên ổn. Minh Mạng bắt tay vào việc củng cố nền đế chế độc tài và phản động…
Trong những điều kiện lịch sử ấy, trên cơ sở một trình độ tiến hóa khá cao của ngôn ngữ văn học dân tộc được xây dựng trong bốn thế kỷ liên tiếp, văn học cổ điển Việt-nam thành hình. So sánh với các nước Tây phương, văn học cổ điển Việt-nam có những điểm dị biệt sau đây:
- Ở Tây phương, văn học cổ điển xuất hiện sau phong trào Văn hóa phục hưng, hút nhựa sống ở cổ văn Hy lạp La mã, mô hình mỹ học Hy-Lạp, sùng bái mọi quy thức sáng tác văn học của các nhà văn cổ Hy-Lạp. Ở Việt-nam, không có phong trào văn hóa phục hưng, không có sự dập khuôn một nền cổ văn nào mới khám phá được; văn học cổ điển bắt rễ thẳng vào đời sống và văn học của các tầng lớp bình dân đang chiến đấu thúc đẩy dân tộc thành hình.
- Ở Tây phương, văn học cổ điển xuất hiện trong hoàn cảnh tương đối quân bình, trật tự của xã hội, và chính nó thể hiện sự quân bình, sự trật tự ấy. Ở Việt-nam, văn học cổ điển nẩy nở trong điều kiện một xã hội mất quân bình, mất trật tự, đầy rẫy những mâu thuẫn gay gắt, những đấu tranh đổ máu, những đổ vỡ bi đát. Bởi vậy, văn học cổ điển Việt-nam đã thể hiện tình trạng xung đột tàn bạo và ước vọng của con người kháng cự lại tình trạng ấy.
- Ở Tây phương, văn học cổ điển bước theo ngón tay chỉ đạo của triết học duy lý (Descartes), triết học kinh nghiệm (Locke) pha với triết học épicurien của Gassendi (ở Pháp) hoặc với triết học duy vật của Hobbes (ở Anh). Nó lấy lý tính làm thần thánh. Ở Việt-nam, văn học cổ điển tiến triển đối lập với triết học duy lý hình thức chủ nghĩa của nho giáo. Nó lấy sự mưu cầu giải phóng tình cảm con người làm nguồn cảm hứng chủ yếu. Nó chống lại những ràng buộc phong kiến cản trở sự giải phóng đó. Vì thế, văn học cổ điển Việt-nam, căn bản, là một văn học trữ tình và trào phúng xã hội.
- Ở Tây phương, văn học cổ điển là sự nghiệp của giai cấp tư sản đang lớn lên. Mặc dầu thỏa hiệp với quân chủ (Pháp) hay cấu kết với lực lượng quý tộc (Anh), giai cấp tư sản vẫn tiến tới những mục đích của bản thân nó. Những nhà văn cổ điển phần lớn là ỏ giai cấp tư sản. Ở Việt-nam, văn học cổ điển ra đời lúc tầng lớp công thường thị dân chưa thành một giai cấp rõ rệt. Những nhà văn cổ điển Việt-nam phần lớn là các nho sĩ quan liêu hoặc nho sĩ bình dân bất mãn với thời cuộc. Do đó, nội dung ý thức hệ của văn học cổ điển Việt-nam đã kết hợp ba yếu tố khác nhau: những giá trị phong kiến chân chính, tâm lý và nguyện vọng của bình dân nói chung, triết lý sống thị dân. Nhưng cũng do đó mà nó còn vướng vào ít nhiều ý thức hệ phong kiến lạc hậu.
Ngoài những đặc điểm ấy, văn học cổ điển Việt-nam giống với văn học cổ điển Tây phương ở chỗ nó xuất hiện trong giai đoạn thành hình của dân tộc, nó kết tinh một trình độ tiến hóa cao của ngôn ngữ văn học dân tộc, biểu thị tính thống nhất cao độ của nội dung và hình thức, lòng thiết tha của nhà văn đối với vận mạng con người và những vấn đề xã hội. Nó có dân tộc tính, nhân đạo tính, chiến đấu tính, hiện thực tính. Đỉnh cao nhất của nó là Truyện Kiều của NguyễnDu.
III. THỜI KỲ THỨ BATừ sau 1820, xã hội phong kiến Việt-nam, bề ngoài có vẻ phồn thịnh, vững vàng, nhưng trong nội tạng chứa chất những mâu thuẫn làm suy nhược nó. Cái mâu thuẫn căn bản đó là: tập đoàn nhà Nguyễn thừa hưởng được sự thống nhất quốc gia do Tây-sơn tạo ra, cương quyết củng cố và tăng cường tính thống nhất ấy đồng thời với chế độ trung ương tập quyền, nhưng trong thực tế lại thi hành một đường lối chính trị phá hoại cơ sở của sự thống nhất và của chế độ trung ương tập quyền. Cơ sở này chỉ có thể là một cấu tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa nối các địa phương vào nhau một cách chặt chẽ bằng những liên lạc trao đổi hàng hóa (thị trường dân tộc) giữa vùng này với vùng khác trong một sinh hoạt kinh tế cộng đồng.
Chính trị nhà Nguyễn đã phá vỡ cơ sở ấy. Bế quan tỏa cảng để cắt đứt quan hệ trao đổi hàng hóa với các nước Tây phương, chèn ép công thương không cho phát triển, bần cùng hóa nông dân; nô dịch hóa các phần tử trí thức, độc tôn Tống nho, độc tôn Hán tự và dùng khoa cử để chẹn lối phát triển của văn hóa dân tộc, bòn vét của cải nhân dân để xâm lược các nước nhỏ láng giềng, dùng luật lệ phản động để đàn áp khủng bố mọi ý định phản kháng, mọi hoài bão cải cách xã hội; tập đoàn Nhà Nguyễn, đặc biệt là Minh mạng, đã làm nghẽn tắc phần lớn sinh lực vật chất và tinh thần của dân tộc, ở một thời kỳ lịch sử mà sinh lực ấy có thể gặp được những điều kiện tốt nhất để phát triển.
Tình trạng ấy đã dẫn đến những cuộc bạo động của nông dân và của những tầng lớp bình dân khác, những cuộc khởi nghĩa của các dân tộc thiểu số bị áp bức, của nhân dân Miên, Lào bị đô hộ, suốt từ 1820 đến khi thực dân Pháp đánh chiếm nước ta, làm cho xã hội phong kiến Việt-nam tiến sâu mãi vào một khủng hoảng phù tạng rất trầm trọng mà tập đoàn thống trị không thể nào giải quyết được. Phan Bá Vành, Vũ Đức Cát, Nguyễn Hạnh, Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi, Nùng Văn Vân, Xa Văn Châu, Xạ Cán, Tăng Kế, Cao Bá Quát, Cai Tổng Vàng… đã làm đảo điên triều Nguyễn nhiều phen – nhất là Lê Văn Khôi, trong một thời gian đã chiếm giữ toàn bộ Nam kỳ – Khiến cho cái bề ngoài thống nhất quốc gia và trung ương tập quyền nửa đầu thế kỷ XIX cũng chỉ là một hư danh.
Tất cả sự khủng hoảng đó đã được phản ánh vào văn học. Từ Nguyễn Công Trứ đến Cao bá Nhạ, văn học đã biểu hiện một tình huống chung là: sự mâu thuẫn giữa lòng khát sống mãnh liệt, tự do, và sức đè nén của thực tại xã hội cay nghiệt – cụ thể là sức áp chế của triều đình Nguyễn. Được kích thích bởi trình độ trưởng thành của dân tộc và khả năng phát triển của tự thân những lực lượng kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phôi thai, con người bước vào đời với một hào hứng sống và phục vụ (tiêu biểu nhất là quan niệm « chí nam nhi » của Nguyễn Công Trứ) nhưng bị chính trị phản động triều nguyễn hãm vào cảnh bế tắc, quằn quại (tiêu biểu nhất là nhãn quan « tài tử đa cùng » của Cao Bá Quát), không có lối thoát. Hoặc quyết tâm «làm cho rõ mặt trượng phu kềnh» như Nguyễn Công Trứ để rồi sau chửi rủa: «Đ… mẹ nhân tình đã biết rồi, nhạt như nước ốc bạc như vôi!…» ; hoặc thu mình trong một cô đơn thảm hại «một mảnh tình riêng ta với ta» như nữ sĩ Thanh quan; hoặc ủ ê trong cảnh «lều nho nhỏ, kéo t ấ m gianh lướt thướt… đèn cỏn con co chiếc chiếu lôi thôi…» rồi vùng dậy «gánh vác giang san, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú» như Cao Bá Quát; hoặc gắng gỏi «đan tâm còn chút gọi là, giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần» như Cao Bá Nhạ mà kết cục cũng bị hãm vào cảnh «thân sao như gánh hàng hoa, sớm qua chợ sớm chiều qua chợ chiều» : tất cả những tâm trạng ấy đều nói lên sự thất vọng chua cay về những mộng ước ban đầu của một con người ham sống mà không được sống, thèm vẫy vùng mà bị trói buộc, thích tự do mà bị giam cầm. Tất cả toát ra một tiếng phản kháng bi đát của trái tim và khối óc do bị cùm kẹp. Tiếng phản kháng này là phản ánh văn học của những cuộc đấu tranh quần chúng ngoài xã hội chống lại triều đình nhà Nguyễn. Sự truy cầu tự do của các tâm hồn nhà văn phản ánh sự truy cầu giải phóng của các lực lượng sản xuất xã hội đang bị kìm hãm.
Bởi lẽ ấy, văn học Việt-nam 1820-1862 vẫn là sự tiếp tục của văn học Việt-nam 1745-1820. Cả hai đều làm chung một nhiệm vụ: chống lại những lực lượng phản động kìm hãm sự phát triển tư bản chủ nghĩa của xã hội Việt-nam; chống lại những đường lối chính trị cản trở sự trưởng thành của dân tộc về mọi phương diện; chống lại những ràng buộc thống trị chẹn bước sự giải phóng cá nhân con người ra khỏi một hoàn cảnh sống tiêu diệt nhân tính. Nhưng ở mỗi thời kỳ, mầu sắc và cường độ chống đối một khác. Thời kỳ 1740-1820 là cao trào đấu tranh của quần chúng; thời kỳ 1820-1862 là thoái trào. Cho nên văn học 1745-1820 nhiều chiến đấu tính, hiện thực tính, nhân dân tính hơn văn học 1820-1863. Kia, là tiếng gầm thét, đây là tiếng rên siết. Nội dung ý thức của văn học 1820-1862 cũng quyết định cả hình thức văn học. Thời kỳ trước, thịnh hành các thể văn học dân tộc: truyện lục bát, ngâm khúc song thất, vè, nói lối. Thời kỳ này, quay về các thể văn thơ có ít nhiều tính cách ngoại lai: ca trù, đường thi, tuồng hát, phú; một truyện lục bát như Lục vân Tiên, một khúc ngâm song thất như Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ chỉ là ngoại lệ.
Do đó, ta có thể nói rằng: văn học 1745-1820 là văn học cổ điển Việt-nam ở thời kỳ toàn thịnh; văn học 1820-1862 là văn học cổ điển Việt-nam ở thời kỳ suy nhược. Tuy vẫn duy trì được tính thống nhất cao độ giữa nội dung và hình thức, tuy ngôn ngữ văn học căn bản vẫn là ngôn ngữ bác học phối hợp với ngôn ngữ bình dân, tuy nội dung vẫn là sự chiến đấu vì những mục đích tiến bộ xã hội và nhân văn chủ nghĩa, văn học 1820-1862, so với văn học 1745-1820, thiếu sự thiết tha trực tiếp đến những vấn đề xã hội, thiếu chất sống phong phú, thiếu tính bình dân sâu sắc và tính dân tộc thuần thục. Đem so sánh Chinh phụ ngâm với thơ văn Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương với Thanh quan, Nguyễn Du với Cao Bá Quát, ta sẽ thấy rõ rệt sự hơn kém ấy.
IV. THỜI KỲ THỨ TƯĐây là thời kỳ tan rã của xã hội phong kiến Việt-nam (1862-1902). Trước sự tấn công xâm lược của thực dân Pháp, tập đoàn thống trị nhà Nguyễn đầu hàng nhục nhã. Những hiệp ước bán nước: 1862, 1874, 1883, 1884 lần lượt được ký kết; sau 1884, Việt-nam đã thành một thuộc địa của đế quốc Pháp. Không chịu làm nô lệ cho kẻ thù xâm lược, nhân dân Việt-nam đã nổi lên đánh thực dân Pháp ngay từ khi chúng đặt chân lên ba tỉnh miền Đông Nam bộ. Lá cờ Trương Định ở Gò công, với tám chữ viết bằng sự phẫn nộ của nhân dân: Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khí dân, phất lên trước mũi súng quân xâm lược, mở đầu Cuộc kháng chiến kéo dài suốt Nam, Trung, Bắc từ 1862 đến 1897, nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Nhưng quá trình tranh đấu anh dũng ấy cũng là quá trình thất bại liên tiếp. Cuối cùng, dân tộc Việt-nam vẫn không thoát khỏi gông cùm đô hộ của thực dân Pháp.
Tại sao cuộc kháng Pháp của Việt-nam cuối thế kỷ XIX bị thất bại? Đây không phải chỗ bàn về những nguyên nhân làm cho Việt-nam mất quyền độc lập. Chúng tôi chỉ nêu lên một vài điểm chính của vấn đề để giải thích đặc tính của văn học Việt-nam thời kỳ 1862-1902. Điều chắc chắn nhất, là: Việt-nam mất nước không phải vì sự thua kém thực dân Pháp về binh lực, cũng không phải vì thực dân Pháp tiêu biểu cho một trình độ tiến hóa cao hơn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mà chính vì cuộc kháng chiến Việt-nam bị những mâu thuẫn sâu sắc nội bộ làm cho tan vỡ. Trong hoàn cảnh xã hội Việt-nam nửa sau thế kỷ XIX, trước ngày bọn xâm lược nổ tiếng súng đầu tiên ở Đà nẵng, toàn thể các tầng lớp bình dân: nông, công, thương, trí thức tiến bộ đã mâu thuẫn cao độ với tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn. Những cuộc bạo động xảy ra từ 1820 đến 1862 nhằm lật đổ triều đình đủ chứng thực điều ấy. Ý nghĩa khách quan của những cuộc bạo động này là yêu cầu cải cách các chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đương thời, mở đường cho dân tộc trưởng thành, cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển, cho trí tuệ dân tộc tiến theo hướng phát triển kinh tế ấy. Đối với toàn thể nhân dân, triều đình nhà Nguyễn đã thành một chướng ngại vật cản trở sức tiến bộ của mọi khả năng dân tộc. Về câu đối của một viên quan lớn đại biểu tập đoàn phong kiến thống trị ra cho cậu nho sinh Cao Bá Quát trong một cuộc chạm trán bất kỳ – Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới – và vế đối lại của con người sau này phất cờ khởi nghĩa chống triều đình – Đ á xanh xây cổng, hòn dưới n ố ng hòn trên – đã tượng trưng được rất tài tình trạng thái đối kháng căn bản giữa bọn cầm quyền và toàn thể nhân dân bị áp bức trong lòng xã hội Việt-nam trước giờ phút đọ sức với súng đạn thực dân.
Trước những điều kiện ấy, tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn sợ những lực lượng khởi nghĩa của nhân dân – chủ yếu là nông dân – hơn là kẻ thù dân tộc. Đúng như lời nhận xét sâu sắc của ông Jean Chesneaux:
« Sự tái phát của nông dân khởi nghĩa ở Bắc-bộ gắn liền với cơ sở của nền quân chủ cổ Việt-nam, đã làm cho Tự Đức vội vàng ký hiệp ước ( 1862 ) » . 77
Lúc đó, muốn kháng chiến thắng lợi, phải có một lực lượng xã hội đủ sáng suốt và khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng, bên trong tiêu diệt chế độ nhà Nguyễn, thực hiện những cải cách căn bản hợp với nguyện vọng tha thiết của nông dân, thủ công nhân, thương nhân, trí thức tiến bộ, bên ngoài, quyết tâm đuổi giặc với tất cả sức mạnh đại đoàn kết anh dũng của dân tộc. Lực lượng lãnh đạo ấy chỉ có thể là một giai cấp tư sản cách mạng đã trưởng thành. Lực lượng tối cần ấy lại thiếu trong xã hội Việt-nam nửa sau thế kỷ XIX (chỗ này, mới thấy rõ tội ác lịch sử của triều Nguyễn).
Vì thiếu lực lượng ấy, các sĩ phu yêu nước phải đứng ra lãnh đạo cuộc kháng chiến. Các nhà này, phần lớn xuất thân ở tầng lớp tiểu địa chủ hoặc nông dân giầu, lại bị đào luyện bằng sách vở thánh hiền phong kiến, thiếu trí sáng suốt để quan niệm được một chương trình cải cách xã hội cần thiết làm cơ sở và triển vọng cho cuộc chống xâm lược. Có thể nói: họ nổi lên đánh thực dân Pháp chỉ vì triều đình bị nhục, nước bị mất, chứ không hề nghĩ đến sự vạch ra một chương trình duy tân để cải cách xã hội. Trong lúc nhà vua và triều thần đầu hàng kẻ thủ, trong lúc chế độ Triều Nguyễn bị toàn dân căm ghét thì các nhà nho yêu nước kia lại kêu gọi nhân dân đánh Pháp để bảo vệ ngôi vua ấy, triều đình ấy, chế độ ấy. Họ đứng dậy chống đỡ cho một uy quyền mà những kẻ đại diện lại gọi họ là quân phản nghịch và đem binh đi tiêu trừ họ. Tình trạng mâu thuẫn này đã làm tan rã hàng ngũ kháng chiến. Những nông dân theo họ vùng lên chống giặc không thấy sự hy sinh của mình đưa đến một tương lai gì tốt hơn hiện tại.
Lòng yêu nước thuần túy có thể nh?