← Quay lại trang sách

Chương SÁU VĂN HỌC CẬN ĐẠI

Gần đây, phân chia các thời kỳ văn học sử Việt-nam, người ta thường chorằng:

- Từ 1858 đến 1930 là thời văn học cận đại.

- Từ 1930 đến ngày nay là thời văn học hiện đại.

Cách phân chia này, theo ý chúng tôi chưa được hợp lý. Quan điểm của chúng tôi là:

- Từ 1905 đến 1945 là thời văn học cận đại.

- Từ 1945 (Cách mạng tháng 8) đến ngày nay là thời văn học hiện đại.

Căn cứ vào đâu, chúng tôi đã chủ trương như vậy? Chương sách này sẽ trả lời câu hỏi ấy.

I. CƠ SỞ LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG CỦA KHÁI NIỆM «CẬN ĐẠI TÍNH»

Trong lịch sử tiến hóa chung của nhân loại, một xã hội có cận đại tính rõ rệt, trước hết, xuất hiện ở các nước Tây phương từ sau khi thành Constantinoples thất thủ (1453). Thời điểm này, theo các sử gia, chấm hết thời đại Trung cổ ở châu Âu và mở đầu thời kỳ Cận đại. Muốn hình dung được những đặc tính của xã hội cận đại, cần chú ý đến những sự kiện sau đây:

1) KHÁM PHÁ RA CON ĐƯỜNG CHÂU Á VÀ TÂN THẾ GIỚI MỚI (CHÂU MỸ)

Trước thế kỷ XV, dân Âu châu không biết đến Hải dương châu, đại bộ phận Phi châu, Mỹ châu và Thái bình dương. Nhưng, thời thường, họ vẫn thấy ở các miền xa xăm ấy chuyên chở đến châu Âu bằng đường thủy những đồ gia vị (hồ tiêu, nhục đậu khấu, đinh hương, gừng, quế) và nghe nói có nhiều mỏ vàng bạc tại các vùng bí mật đó. Những thương nhân có đầu óc phiêu lưu và thích làm giầu liền nghĩ đến cách đi tìm gia vị và vàng ở tận những xứ sản sinh ra nó. Họ đóng tầu, mộ thủy thủ, tổ chức những cuộc thám hiểm và nhổ neo ra khơi. Người Bồ đào nha, người Tây ban nha, người Ý đại lợi… đua nhau vượt sóng gió đi khám phá trái đất. Christophe Colomb tìm ra Châu Mỹ; Vasco de Gama tìm ra con đường đi Ấn-độ; Magellan đi vòng quanh địa cầu và phát hiện ra Thái-Bình-Dương. Nhờ có những sự khám phá hàng hải này, thương nghiệp ở châu Âu phát triển một cách kỳ diệu. Và sức sản xuất công nghiệp cũng tăng cường mau lẹ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thành tựu. Giai cấp tư sản lớn lên, khang kiện. Sự giầu tiền bạc lấn át sự giầu ruộng đất. Giai cấp quý tộc địa chủ mất dần ưu thế xã hội. Các nhà tư sản công thương, tụ họp đông đảo trong các đô thị trù phú, dần dần trở thành phần tử chủ yếu của nền kinh tế dân tộc. Các vương triều phải ỷ cậy vào vàng bạc của tư sản để sắm vũ khí theo đuổi các cuộc chiến tranh luôn luôn xảy ra giữa nước này với nước khác. Giai cấp tư sản mỗi ngày một tăng thêm uy thế chính trị. Với cái đà ấy, nó tiến mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa. Tính chất cận đại của các xã hội Tây phương, căn bản, phát xuất ở sự chuyển mạnh sang tư bản chủ nghĩa của nền kinh tế, ở sự trưởng thành của giai cấp tư sản công thương nghiệp, do những khám phá hàng hải gây ra.

2) PHONG TRÀO VĂN HÓA PHỤC HƯNG

Đúng lúc giai cấp tư sản châu Âu lớn mạnh cần vũ trang tư tưởng để tự khẳng định đối lập với chế độ phong kiến về mọi phương diện thì các nhà học giả đại diện của nó phát hiện ra được nền văn hóa cổ Hy-lạp – La-mã. Họ khám phá ra, ở nền văn hóa cổ này, tinh thần duy lý chủ nghĩa (tôn trọng lý trí của con người), tư tưởng duy vật, tư tưởng dân chủ, óc tự do phê phán, óc khoa học, nhân sinh quan trần tục (đối lập với luân lý Gia tô giáo) và cá nhân chủ nghĩa. Họ đã phát triển những yếu tố ấy để tấn công những lực lượng phong kiến cản đường tiến lên của giai cấp tư sản. Họ chống uy quyền của Nhà Thờ, của Aristote và kinh viện học, của quân chủ độc tài, của các loại thần thánh áp chế con người. Họ là: Erasme, Pétrarque, Boccace, Budé, Rabelais, Montaigne, Descartes, Luther, Calvin, Locke, Bruno, Copernic, Galliéni, Thomas More, Newton, Bacon, Gassendi, Léonard de Vinci, Spinoza, Rembrandt, v.v… Họ tạo ra khoa học cận đại, tư tưởng cận đại, văn nghệ cận đại, chính trị cận đại, luân lý cận đại. Họ đề cao con người, đề cao lý trí, đề cao quyền công dân, đề cao thú sống khoái lạc, đề cao cá nhân. Họ thay đổi vũ trụ quan, nhân sinh quan, chính trị quan của người đương thời. Họ xây dựng một cách sống mới – cách sống cận đại. Họ khai sinh ra một con người mới – con người cận đại. Con người ngày, với những vũ khí tư tưởng ấy, đã làm ra phong trào Cải lương tôn giáo, làm cách mạng 1648, làm cách mạng 1688, làm cách mạng 1789, xây dựng và làm thắng chế độ tư bản chủ nghĩa.

Quá trình xuất hiện và trưởng thành của xã hội cận đại đẻ ra nội dung lịch sử và ý nghĩa cơ bản của khái niệm cận đại tính. Nói đến cận đại tính là nói đến sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa, sự lớn mạnh của giai cấp tư sản. Nói đến cận đại tính là nói đến tư tưởng duy lý, duy vật, tư tưởng dân chủ, luân lý cá nhân chủ nghĩa, khoa học thực nghiệm. Nói đến cận đại tính là nói đến sự nẩy nở đa dạng của một nền văn nghệ có chất «người» phong phú và phức tạp, cho phép phát huy cao độ mọi cá tính thiên tài, mọi khả năng sáng tạo, để thám hiểm vũ trụ, thám hiểm con người, thám hiểm xã hội.

II. XÃ HỘI VIỆT-NAM BẮT ĐẦU CÓ TÍNH CHẤT CẬN ĐẠI TỪ 1905

Xã hội cận đại là một phạm trù lịch sử có những đặc tính nhất định như đã trình bầy sơ lược ở trên. Xã hội Việt-nam khoảng 1858-1905 chưa có những đặc tính ấy. Cái mầm non của kinh tế tư bản chủ nghĩa và của giai cấp tư sản trong lòng xã hội phong kiến Việt-nam ba lần chớm nở (cuối thế kỷ XV, cuối thế kỷ XVII, cuối thế kỷ XVIII) thì ba lần đều bị chẹn lại vì những chính sách ức thương của các tập đoàn phong kiến thống trị, vì sự phá phách của ngoại xâm hay của nội chiến. Tuy rằng từ chặng nọ đến chặng kia, nó vẫn tiếp tục phát triển, nhưng nói chung, thì sự phát triển rất chậm chạp, ì ạch. Đặc biệt là ở chặng thứ ba, nó chưa đủ thời gian để lấy lại sức sau một thế kỷ nông dân khởi nghĩa và nội chiến thì lại bị ngay tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn kiềm chế chặt chẽ.

Từ bắt đầu nửa sau thế kỷ XIV, vì lo lắng về sự uy hiếp của thực dân Pháp, bọn vua quan nhà Nguyễn không thể săn sóc đến nông nghiệp như trước nữa. Đã thế còn sưu thuế mỗi ngày một nặng, nạn cường hào địa chủ cướp ruộng đất của nông dân mỗi ngày một phổ biến. Thêm vào đó, những sự mất mùa, ôn dịch, trộm cướp thường xuyên, quan lại ăn hối lộ, làm cho đời sống nông dân kiệt quệ. Sức tiêu thụ hàng hóa của nông thôn sút hẳn xuống, đà phát triển công thương nghiệp bị phá hoại tận gốc. Một mặt khác, chính sách bế quan tỏa cảng đã cắt đứt liên hệ của công thương trong nước với luồng mậu dịch quốc tế, hãm nền kinh tế hàng hóa nội địa vào tình trạng bế tắc. Ngoài ra, lại còn chế độ trưng tập công tượng khắc nghiệt khiến nhiều thợ khéo phải bỏ nghề; chế độ trưng dụng thuyền tư nhân để chở tiền, gạo, thuế của nhà Nước ở các tỉnh về kinh đô bắt buộc nhiều chủ thuyền phải đục thuyền để tránh phục dịch. Vì thế, công thương nghiệp bị đình đốn cả.

Khi thực dân Pháp chiếm Nam-bộ (1862) thì các tầng lớp công thương Việt-nam chỉ còn là một bộ phận còm cõi trong đời sống kinh tế dân tộc. Sự khai thác của tư bản thực dân Pháp về các nguồn lợi trong các vùng nhượng địa bị những cuộc kháng chiến của nhân dân Việt-nam làm cản trở rất nhiều. Các nhà công thương Việt-nam tuy hưởng lợi một phần nhỏ trong quá trình khai thác ấy nhưng vẫn là một lực lượng xã hội yếu ớt, chưa đủ điều kiện để hợp thành một giai cấp tự tại. Phải đợi đến lúc quân đội thực dân dẹp xong các cuộc khởi nghĩa văn thân, và toàn bộ nước Việt-nam thành hẳn thuộc địa của đế quốc Pháp, tác dụng của sự khai thác kinh tế và biến cải chính trị theo hướng tư bản chủ nghĩa (thuộc địa hóa) mới thay đổi sâu sắc cơ cấu xã hội Việt-nam. Tác dụng này trở nên quyết định dưới bàn tay sắt của viên Toàn quyền Paul Doumer.

«Năm năm làm Toàn quyền Đông dương (1897-1902)… Doumer đã tác động vào xứ này mạnh đến mức chúng ta có thể coi thời kỳ toàn quyền của ông ta mở đầu một giai đoạn mới của lịch sử dân tộc Việt-nam. Chính ông đã nâng chế độ thuộc địa từ trình độ kinh nghiệm «thủ công nghiệp» lên trình độ tổ chức có hệ thống. Chính ông đã xây dựng được cả một bộ máy kiên cố để bóc lột về tài chính và thống trị về chính trị; bộ máy này, trong thực tế, tồn tại nguyên vẹn đến tận 1945… Chế độ thuộc địa mà ông đã kiến thiết được sẽ biến cải triệt để sự hoạt động kinh tế và cấu tạo xã hội của Việt-nam». (Jean Chesneaux sách đã dẫn , trang 151,158).

Sau Doumer, hình thái xã hội của Việt-nam là hình thái thuộc địa nửa phong kiến. Quan hệ tư bản chủ nghĩa chiếm địa vị ưu thế trong nền sản xuất kinh tế nhưng mang nặng tính chất thuộc địa. Tuy ở thôn quê, thực dân Pháp vẫn hay duy trì những hình thức bóc lột phong kiến, nhưng thực tế đời sống của nông thôn đã bị lọt vào phạm vi ảnh hưởng của tư bản tài phiệt Pháp (Nhà Băng Đông-dương); thành thị, hầm mỏ, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thu hút nông dân mỗi ngày một nhiều. Chương trình cầu đường của Paul Doumer thực hiện đã làm cho sự giao thông giữa các tỉnh được dễ dàng tiện lợi. Toàn cõi Việt-nam biến thành một thị trường duy nhất. Bằng tầu thủy, xe lửa, ô tô, xe điện, người và hàng hóa lưu chuyển từ địa phương này đến địa phương khác, nhanh chóng, gây nên một sinh hoạt kinh tế cộng đồng cận đại.

Sự biến đổi trong cơ cấu kinh tế đã làm nẩy ra một tập hợp mới về giai cấp. Một tầng lớp đại điền chủ mới, một tầng lớp quan liêu tư sản tôi tớ trực tiếp của chính phủ thực dân, một tầng lớp tiểu tư sản thành thị (chủ yếu là những nhà thủ công nghệ, buôn bán trung lưu và những viên chức bậc dưới), mầm mống của giai cấp công nhân, hình phôi thai của giai cấp tư sản dân tộc, dân nghèo thành thị: đó là những nhân tố mới xuất hiện trong lòng xã hội Việt-nam sau 1905 bên cạnh những thành phần cũ như: nông dân, địa chủ, cường hào, quan lại phong kiến, thủ công nghiệp gia đình nông thôn, tiểu thương nghèo – tất cả đều thuộc quyền thống trị của thực dân Pháp.

Chế độ chính trị ở Việt-nam, sau 1905, cũng khoác những hình thức mới, cận đại. Chủ quyền thực sự nằm trong tay bọn Toàn quyền, Thống đốc, Khâm sứ, Thống sứ, Công sứ và các công chức thực dân cao cấp. Để phục vụ quyền lợi của tư bản tài phiệt Pháp, cả một bộ máy cai trị chuyên môn đàn áp, khủng bố, được dựng lên có hệ thống tính chặt chẽ. Những hội đồng tư vấn, hội đồng hàng tỉnh, tuy thực chất vẫn chỉ là những công cụ thống trị của thực dân Pháp, cũng khiến nhân dân Việt-nam bước đầu biết đến những hình thức dân chủ tư sản tối thiểu của sự quản trị quốc gia, và gieo mầm ý thức về quyền công dân (quyền bầu cử, quyền đại biểu nhân dân, quyền góp ý kiến về việc nước…) Những quan hệ chính trị cũ: vua-tôi, vua-dân, quan-dân nhòa hẳn đi, nhường chỗ cho một quan hệ mới bao trùm toàn bộ đời sống chính trị: quan hệ giữa nhân dân Việt-nam bị đô hộ với thực dân Pháp đô hộ và bè lũ tay sai. Ở con mắt dân Việt-nam, vua quan chỉ còn là những đầy tớ ăn lương của chính phủ thực dân.

Về văn hóa, giáo dục, từ sau 1905, cũng có những sự thay đổi quyết định. Năm 1906, toàn quyền Beau đặt Hội đông cải cách Học vụ (Bắc bộ); năm 1908, ở Trung bộ, cũng có sự cải cách về việc học tương tự. Tuy vẫn giữ lại chữ Hán trong các bậc học, nhưng chữ quốc ngữ và chữ Pháp đã chiếm ưu thế trong chương trình từ tiểu học trở lên. Theo cuộc cải cách đó, hương thí, hội thí, đình thí có cả những đề thi chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Beau lại lập ra cả một trường Đại học Đông dương ở Hà-nội, dạy một ít kiến thức căn bản về khoa học, văn học cho thanh niên Việt-nam. Nội dung của sự học không còn là những Tứ thư Ngũ kinh như trước, mà là những số học, kỷ hà học, địa lý, cách tri, lịch sử và văn học Pháp. Hiện tượng: «ông Nhè ông cử cũng nằm co» và «vứt bút lông đi giắt bút chì» (Tú Xương) đánh dấu sự sụp đổ của nền giáo dục cũ. Thanh niên cắp sách đến trường bắt đầu làm quen với một thế giới trí thức cận đại nối họ vào trào lưu tiến bộ của các nước tiên tiến. Đầu óc họ dần dần đổi mới theo hướng ly dị với hệ thống tư tưởng phong kiến cố hữu. Tâm hồn họ bắt đầu cận đại hóa.

Tất cả những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục nói trên đã khắc sâu vào xã hội và con người Việt-nam, từ 1905 trở đi, một cận đại tính khá rõ rệt. Cận đại tính này biểu lộ rõ nhất ở cách thức đấu tranh mới của dân tộc chống đế quốc Pháp, khác hẳn với thời kỳ trước 1905. Có người cho rằng những cuộc vận động, cách mạng của Duy Tân hội, vận động Đông du, vận động «hóa dân cường quốc» của Đông kinh nghĩa thục, vận động lập hội buôn khắp ba kỳ, khoảng 1905-1908, là do ảnh hưởng của sự du nhập tư tưởng Khang Lương, của sự thắng trận của Nhật trong chiến tranh Nga Nhật. Điều này có thực, nhưng không phải là động lực cơ bản làm nẩy ra những phong trào tranh đấu kia. Sở dĩ những biến cố ở nước ngoài ảnh hưởng được tới nước ta là bởi bản thân xã hội Việt-nam đã sản sinh ra những điều kiện để tiếp thu và vận dụng ảnh hưởng ấy. Những điều kiện đó là: sự chuyển biến của nền kinh tế Việt-nam từ phương thức phong kiến sang phương thức tư bản chủ nghĩa (mặc dầu mang nặng tính chất thuộc địa), sự thành hình phôi thai của giai cấp tư sản dân tộc Việt-nam, sự chèn ép của tư bản thực dân đối với đà phát triển của công thương nghiệp bản xứ được nền kinh tế mới kích thích mạnh, sự truy cầu giải phóng của toàn dân Việt-nam không chịu làm nô lệ cho đế quốc Pháp, sự khổ cực của các tầng lớp lao động bị bóc lột thậm tệ bằng sưu cao thuế nặng của chính sách Doumer, sự khao khát học tập của tri thức Việt-nam bị bọn thống trị kìm hãm chặt chẽ – tóm lại, sự cận đại hóa của xã hội Việt-nam.

Ý thức hệ nền tảng của tất cả những phong trào Duy Tân, Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Quốc dân hiệp thương xã là ý thức hệ tư sản. Không kể đến Phan Chu Trinh, Đông kinh nghĩa thục, phong trào lập hội buôn, rõ rệt là biểu hiện chính trị và xã hội của ý thức hệ tư sản dân chủ, ngay cả Phan Bội Châu mà nhiều người cho là có đầu óc tôn quân cũng đã tuyên truyền tư tưởng tư sản ngay sau khi ra ngoại quốc để mưu cầu viện trợ binh khí cho Duy Tân hội. Trong Hải ngoại huyết thư của cụ từ Nhật gửi về nước (1907) đã có những câu:

« Nghìn muôn ức triệu người chung góp

Gây dựng nên sự nghiệp nước nhà

Người dân ta, của dân ta

Dân là dân nước, nước là nước dân » .

Đó là một ý tưởng hoàn toàn trái nghịch với hệ thống tư tưởng phong kiến. Nhưng vì cụ theo đuổi con đường bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, do đó phải dựa trên sự đoàn kết của tất cả các hạng người trong xã hội, phải tập hợp thành đảng những chiến sĩ cần vương cũ có kinh nghiệm khởi nghĩa vũ trang, và phải trông cậy vào Nhật bản là một nước quân chủ lập hiến, cho nên cụ phải thể theo tình hình tư tưởng của các tầng lớp trên (quan lại, con em nhà quyền quý) của các đồng chí (cần vương cũ) và của nước bạn (Nhật) mà đề ra quân chủ lập hiến trong cương lĩnh của Duy tân hội. Chính cương lĩnh này đã làm cụ vướng chân từ 1907 đến 1911 trên con đường tiến tới tư tưởng dân chủ tư sản. Trong tập Tự phê phán, cụ đã nói rõ sự vướng mắc ấy:

«Tuy bị kế hoạch cũ ngăn trở lời lẽ chưa nói mạnh được, nhưng trong bụng đã chứa sẵn một động cơ thay đổi bắt đầu từ đó» .

Ít năm sau, lúc lập ra Việt-nam quang phục hội (1912), cụ là người đề xướng, bênh vực và làm thẳng tư tưởng dân chủ trong cuộc hội nghị sáng lập tại từ đường nhà Lưu vĩnh Phúc. Sự diễn biến tư tưởng của Phan Bội Châu và của đa số các đồng chí từ 1904 qua 1907 đến 1911 phản ánh trung thực sự phát triển của yếu tố tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế Việt-nam, sự lớn lên của giai cấp tư sản dân tộc và của các tầng lớp tiểu sản xuất.

Lénine có nói đến : « N hững biến đổi khách quan độc lập đối với ý chí không những của một số đ ả ng phái và nhóm người mà của cả một số giai cấp nữa» là như vậy.

«Chính những biến đổi khách quan ấy đã quyết định bề rộng và bề sâu của mỗi tình thế cách mạng cũng như quyết định cách đối phó của mọi giai cấp trước tình thế ấy». 79

Trong hoàn cảnh nước ta từ sau ngày 1905, ý chí độc lập là ý chí của toàn dân. Nhưng sự mong muốn độc lập này lại kết hợp một cách hữu cơ với sự mong muốn thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, với sự chiếm đoạt khoa học kỹ thuật và phương pháp kinh doanh Tây phương, với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, với sự giải phóng con người khỏi những ràng buộc phong kiến. Bởi vậy, ý chí độc lập dân tộc trong thời gian này thống nhất với đường lối tiến lên của giai cấp tư sản dân tộc và của những tầng lớp tiểu sản xuất ở quê cũng như ở tỉnh. Không thực hiện vận động giải phóng dân tộc trên cơ sở hiện tượng lịch sử ấy tất yếu sẽ thất bại. Sở dĩ những phong trào duy tân từ 1905 đến 1908 có được ít nhiều kết quả tích cực (mặc dầu bị đế quốc khủng bố) là vì đã tiến hành kết hợp với yêu cầu phát triển tư bản chủ nghĩa của kinh tế và xã hội Việt-nam, kết hợp với nguyện vọng của tư sản và tiểu tư sản Việt-nam đang nẩy nở. Cận đại tính của những phong trào đó biểu thị cận đại tính của xã hội Việt-nam sau 1905. Tính chất này, trước 1905, mới chỉ là một cái mầm rất nhỏ

III. VĂN HỌC CẬN ĐẠI VIỆT-NAM CŨNG CHỈ BẮT ĐẦU TỪ 1905

Ý thức hệ tư sản (tuy còn pha chất phong kiến) qua những tập Điều trần của Nguyễn Trường Tộ, đã có mặt trong khí hậu tư tưởng Việt-nam từ 1862. Tại sao suốt thời gian đó đến 1905 nó không có tác dụng gì đối với sự biến động tư tưởng và đổi mới văn học dân tộc? Tại sao dòng văn học chủ yếu của thời kỳ 1862-1905, về nội dung tư tưởng và tình cảm, vẫn nằm trong bốn bức tường của ý thức hệ phong kiến? Tại sao đến 1905 trở đi sự tác dụng ấy mới quyết định và rõ rệt? Có ba nguyên nhân chính:

1) XÃ HỘI VIỆT-NAM TỪ 1862 ĐẾN 1905 ĐANG CHUYỂN BIẾN CHẬM CHẠP SANG HÌNH THÁI TƯ BẢN CHỦ NGHĨA THUỘC ĐỊA

Cơ cấu kinh tế, đại bộ phận (Bắc bộ và Trung bộ) vẫn có tính chất phong kiến. Ngay ở Nam-bộ là đất đã nhượng cho Pháp, những cuộc đấu tranh kháng Pháp của nhân dân kéo dài mãi đến 1879 bắt buộc thực dân phải tập trung lực lượng vào công việc đánh dẹp, chưa được yên ổn mà khai thác các nguồn lợi chiếm được. Cuộc kháng chiến ở Trung và Bắc bộ từ 1873 đến 1897 cũng chặn bàn tay khai thác và bóc lột kinh tế của thực dân khá nhiều. Những quan hệ tư bản chủ nghĩa lấn bước những quan hệ phong kiến rất chậm chạp, và thường gặp sức kháng cự, vì quan hệ tư bản chủ nghĩa thống nhất với quan hệ bóc lột thuộc địa. Đến tận 1895, dân Pháp mới sơ bộ hoàn thành được công cuộc thám sát các xứ Đông-dương và xây dựng được một số đường giao thông bằng xe lửa, ô tô, tạo điều kiện cho sự lưu chuyển hàng hóa rộng rãi trong toàn xứ. Phải đợi đến Paul Doumer (1897-1902) với chính sách thuế khóa, chính sách trung ương tập quyền, chính sách kiến thiết bộ máy quan liêu mới, chính sách cầu đường, chính sách cướp ruộng của nông dân cho bọn Tây thuộc địa, chính sách vay lãi «mẫu quốc» làm giầu cho bọn tài phiệt cá mập Pháp, xã hội Việt-nam mới đổi hẳn cơ cấu kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Trên cơ sở này, ý thức hệ tư sản mới sinh hoa kết quả được sau 1905.

2) GIAI CẤP TƯ SẢN VIỆT-NAM ĐÃ THÀNH HÌNH TRONG QUÁ TRÌNH HỢP TÁC VỚI THỰC DÂN

Như đã nói ở chương trên, sau 1862, khối bình dân bị phân hóa. Các tầng lớp công thương nghiệp thị dân đề nghị cải cách chế độ và chủ hòa với Pháp không được các lực lượng phong kiến chủ chiến tán thành liền tách riêng ra khỏi cuộc kháng chiến cần vương. Họ hợp tác với chính phủ thực dân và dần dần phát triển. Các phần tử trí thức (nho sĩ) yêu nước và quảng đại quần chúng nông dân nhìn họ băng cặp mắt khinh ghét và căm thù. Mối liên lạc tinh thần giữa họ và đa số nhân dân bị cắt đứt. Ý thức hệ tư sản cũng bị các nhà nho miệt thị vì, xét theo hình thức, nó là của Tây phương (nghĩa là của thực dân xâm lược) và của những tầng lớp công thương thỏa hiệp với kẻ thù dân tộc. Năm 1876, trong kỳ thi đình ở Huế, giải đáp câu hỏi nêu ra làm đề thi: « Công cuộc duy tân có lợi cho Nhật bản không?» hầu hết sĩ tử đều cho rằng công cuộc duy tân không có lợi gì cho Nhật bản cả. Tư tưởng lạc hậu bảo thủ và óc quốc gia hẹp hòi của các nho sĩ lỗi thời đã bưng mắt họ không cho nhận thức được xu thế tiến hóa lịch sử của thời đại. Vì trong giai đoạn lịch sử 1862-1902 những người có khả năng sáng tác văn học (nho sĩ) thì quay lưng lại ý thức hệ tư sản mà những tầng lớp thấm nhuần ít nhiều ý thức hệ tư sản (công, thương) thì lại chưa thể sản sinh ra văn sĩ trong hàng ngũ họ, cho nên, nói chung, văn học 1862-1902 vẫn là tiếng nói của nông dân và của các nhà nho phong kiến yêu nước.

3) ĐẾN 1905, Ý THỨC HỆ TƯ SẢN MỚI LẠI GẶP ĐIỀU KIỆN ĐỂ KẾT HỢP VỚI Ý THỨC DÂN TỘC

Sau khi phong trào cần vương bị thất bại và cuối cùng tan rã, sau một thời gian công cuộc khai thác thuộc địa của đế quốc Pháp đã biến đổi căn bản cơ cấu xã hội Việt-nam, đến khoảng 1902-1905, xuất hiện hai sự trạng quan trọng:

- Toàn thể nhân dân, đặc biệt là các nhà trí thức, tiến đến ý thức hệ tư sản: mọi người đều nhận thấy muốn độc lập, hạnh phúc, phải duy tân chính trị và xã hội theo hướng cận đại hóa, không thể khư khư ôm mãi lấy chế độ phong kiến như cũ được.

- Giai cấp tư sản trở về với tinh thần dân tộc: các nhà công thương Việt-nam đều nhận thấy muốn duy tân chính trị, duy tân xã hội, đến mức độ thuận lợi cho sự phát triển tự do của bản thân họ, phải đuổi thực dân Pháp ra khỏi nước, giành lấy độc lập dân tộc.

Các nhà nho tiến bộ và yêu nước dinh dưỡng ý chí phản đế và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc bằng những chủ trương lập hội buôn, mở trường học, kêu gọi thanh niên xuất dương để học tập thuật phú quốc cường binh tư sản; các nhà công thương lập hội buôn nhưng sẵn sàng ủng hộ bằng tiền bạc cuộc vận động đấu tranh phản đế của Duy tân hội và gửi con em sang Nhật-bản theo tiếng hiệu triệu của Phan Bội Châu (tiêu biểu nhất là hội Minh Tâm công nghệ ở Nam-bộ của Gilbert Chiếu); nông dân Trung bộ biểu tình chống sưu thuế của thực dân (theo lời cổ vũ của Phan Bội Châu) đồng thời cầm kéo cắt tóc những người đi biểu tình để hưởng ứng chủ trương duy tân của Phan Chu Trinh và Đông kinh nghĩa thục (vụ chống thuế này vì thế mà còn gọi là «vụ đầu bào») 80 : các hiện tượng xã hội này chứng minh rằng toàn thể nhân dân Việt-nam, khoảng 1905-1908, đã nhẩy một bước vọt lịch sử về mặt giác ngộ chính trị, đã có ý thức về hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt-nam cận đại là phản phong và phản đế, đã bước vào những phương thức đấu tranh cận đại. Đó là miếng đất nuôi nấng trí sáng tạo văn học mới của dân tộc: trí sáng tạo cận đại.

IV. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG VÀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC CẬN ĐẠI

Nội dung ý thức hệ của văn học cận đại Việt-nam, căn bản, là ý thức hệ tư sản. Ý thức hệ này chứa đựng nhiều nhân tố tiến bộ, như: tư tưởng dân chủ, dân tộc độc lập, tự do cá nhân chủ nghĩa, tinh thần duy lý khoa học, bình đẳng xã hội, quyền tư hữu tài sản, chế độ pháp trị. Nhưng đặc tính lịch sử của ý thức hệ tư sản Việt-nam từ ngày 1905 đến Cách mạng tháng Tám là: nó bao hàm cả tính chất cách mạng phản phong phản đế của giai cấp tư sản (vì nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến) lẫn tính chất lạc hậu, suy đồi của giai cấp tư sản (vì tư sản Việt-nam luôn luôn sẵn sàng thỏa hiệp với đế quốc, phong kiến, và vì tư sản Việt-nam phát triển trong thời kỳ mạt vận của tư bản chủ nghĩa thế giới đã bị Cách mạng tháng mười Nga phá vỡ một mảng). Hai tính chất ấy song song tồn tại trong đời sống ý thức của giai cấp tư sản Việt-nam, nhất là từ sau đại chiến thế giới 1914-1918, và đã được phản ánh trong văn học cận đại.

Tập « Ẩm băng thất » của Lương khải Siêu được phổ biến cùng một lúc với « Dân ước luận » của Rousseau; bản dịch « Phương pháp luận » của Descartes đứng bên cạnh những bản dịch « Đại học, Trung dung, Luận ngữ » ; lúc một tờ nhật báo dịch đăng hàng ngày « Vạn pháp tỉnh lý » của Montesquieu cũng là lúc một thi sĩ dịch « Hồ tình » (Le lac) của Lamartine, « Bể khổ » (Océano nox) của V.Hugo; thanh niên trí thức buổi sáng đọc « Lỗ bỉnh sơn phiêu lưu ký » (bản dịch Robinson Cruõsé) buổi chiều bắt chước một nhân vật của « Tuyết hồng lệ sử » (Từ trẩm Á) khóc sướt mướt chôn những cánh hoa rơi ngoài vườn vắng; nam nữ học sinh hôm trước vừa say sưa với « Chiêu hồn nước » của Phạm Tất Đắc hôm sau đã ngậm ngùi với « Giọt lệ thu » của Tương phố hay « Linh phượng ký » của Đông Hồ; sách « Nho giáo » của Trần Trọng Kim lưu hành cạnh những bài « Luận lý học của Phan Khôi; nhà chính trị tư sản Nguyễn Phan Long sớm mai mở cửa sổ ngồi viết bài cho La Tribune indigène, tối khép cửa sổ ngồi gật gù tán thưởng thơ bói tiên của tín đồ đạo Cao đài. Văn thơ sặc mùi tư tưởng André gide, Bergson xuất bản cùng năm tháng với những tác phẩm văn chương đậm đà ảnh hưởng của E.Zola, Ma-xime Gorki. Khán giả trầm trồ khen ngợi « Lệ chi Viên » , « Kim tiền » của Vi Huyền Đắc cũng là khán giả vỗ tay ca tụng « Ghen » , « Mơ hoa » của Đoàn phú Tứ; Shakespeare, V. Hugo, Eugène Sue, Pearl Buck, Nietzche, Valéry, Bergson, Renan, Trang tử, Vương Dương minh… hòa điệu với nhau trên các bài nghị luận (báo chí) trong các sáng tác phẩm (thơ, tiểu thuyết, kịch, tùy bút), trong các sách nghiên cứu: tất cả tình trạng tư tưởng và tình cảm đầy mâu thuẫn ấy của văn học Việt-nam cận đại chỉ là ánh hồi quang của những mâu thuẫn nằm trong bản thân giai cấp tư sản do vị trí và thế lực của giai cấp này trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến quy định nghiệt ngã.

Trong chu vi của ý thức hệ tư sản ấy, sự hoạt động của những thế hệ nhà văn đại diện cho các tầng lớp trung lưu thành thị đã làm phát triển sâu sắc thêm nhiều khía cạnh đặc biệt của tự do cá nhân chủ nghĩa, tạo thành một nhân tố tâm lý tiểu tư sản trong nội dung văn học Việt-nam cận đại. Nhân tố này biểu hiện ra ở hai mặt: một mặt là sự khao khát sống một cuộc đời thực sự tự do, độc lập, bình đẳng, dân chủ, hợp lý, để phát triển tận độ cá tính con người trong khuôn khổ tiến hóa chung của xã hội (phản ánh nguyện vọng tha thiết nhất của các tầng lớp tiểu sản xuất muốn được hoàn toàn tự do phát triển trong công việc kinh dinh của họ); một mặt khác, là sự thất vọng, sự uất ức, sự chiến đấu bất lực, sự bại trận của con người cá nhân chủ nghĩa triệt để bị hoàn cảnh xã hội phũ phàng chà đạp, đè nén, giày vò, đẩy đến con đường tắc hậu, làm cho mỗi ngày một mòn mỏi tiêu hao chí khí và hạnh phúc (phản ánh tình trạng thực của các tầng lớp tiểu sản xuất trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến, bị các thế lực kinh tế và chính trị của tư bản thực dân dồn vào thế bần cùng hóa dần dần, vô sản hóa dần dần, không đủ sức cưỡng lại được). Đó là cơ sở xã hội và tâm lý của những triết lý: đời là giấc mộng, đời là canh bạc, đời là bể khổ, và của những thái độ sống:

T ự diệt bằng trụy lạc, đạp lên đồng loại để sung sướng một mình, ái tình là cao quý nhất, làm trái ngược lại mọi người, xê dịch thường xuyên để đổi món ăn cho ngũ quan, phá phách vô mục đích, hành động phiêu lưu liều lĩnh…

Bao trùm tất cả những triết lý và thái độ tiêu cực ấy, là một mối buồn sâu thẳm, mênh mông, lạnh giá không có gì an ủi được. Đây không phải là cái buồn chinh phụ có đạo đức gia đình nâng đỡ (Đoàn Thị Điểm); không phải là cái buồn Nguyễn Du «đau đớn lòng» vì «những điều trông thấy» nhưng được cái «tâm» của Thiền tông phái làm cho dịu nhẹ một phần nào; không phải cái buồn Xuân Hương «trơ cái hồng nhan với nước non» hay «khối tình cọ mãi với non sông» nhưng vẫn tin tưởng «thân này đâu đã chịu già tom!»; không phải cái buồn Nguyễn Công Trứ «kiếp sau xin chớ làm người» mà vẫn đinh ninh «cơ thường đông hết hẳn sang xuân»; không phải cái buồn Thanh quan khắc khoải nhưng không quằn quại; không phải cái buồn Cao Bá Quát «một thầy, một cô, một chó cái» mà không rời ý chí «xoay bạch ốc lại lâu đài» ; không phải cái buồn Yên đổ sót sa nhưng trang nhã, cái buồn Tú Xương não ruột nhưng còn bật được ra tiếng cười hả giận. Đấy là một cái buồn trăm phần trăm cận đại, thuộc vào hệ thống những cái buồn Byron, Musset, Beaudelaire, Verlaine, cái buồn của những kiếp người mang sẵn trên trán dấu ấn của sự thất vọng tiền định, cái buồn của những kẻ chỉ còn biết lấy cô đơn, đau khổ và chết chóc làm sự thắng trận của cá nhân mình đứng trước cuộc đời tàn ác – cái buồn của các tầng lớp tiểu tư sản chết nghẹt trong xã hội tư bản, trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thấy sự nghiệp và hạnh phúc của mình mỗi phút vỡ ra một mảnh không sao cứu vớt được, mà lại chưa được ánh sáng cách mạng của giai cấp công nhân soi đường chỉ lối.

«Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!»… « Gió hỡi gió! phong trần ta đã chán, cánh chim bằng chín vạn những chờ mong!»… từ buổi thi sĩ Tản Đà ngước mắt lên đỉnh núi Ba Vì ngao ngán cho kiếp mình lẹt đẹt, cất tiếng hát não nùng ai oán và uất kết trong những thơ văn Khối tình, Giấc mộng (1915-1917), cho đến đêm trước Cách mạng tháng Tám 1945 thi sĩ Vũ Hoàng Chương vò nát linh hồn mình trong cái hận sầu «túy hậu cuồng ngâm» và «đời tàn ngõ hẹp», qua những tâm trạng khi ủ ê, khi bàng hoàng, khi thê lương, khi khổ cực, khi hậm hực, khi cô đơn của những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế lan Viên, Hàn mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Xuân thu nhã tập, cái buồn tiểu tư sản cận đại Việt-nam đã đi hết một đường vòng lịch sử trọn vẹn. Cái buồn này, cũng như cái ý chí phá hoại vô chính phủ của các nhà văn tiêu biểu cho các tầng lớp tiểu tư sản, mặc dầu là một sức phản ứng tiêu cực đối với sức áp bách của xã hội thuộc địa nửa phong kiến, vẫn chỉ là một yếu tố của ý thức hệ tư sản Việt-nam khoảng 1905-1945. Tư tưởng tiểu tư sản, bất cứ ở hình thái nào, cũng không thoát được nanh vuốt của ý thức hệ tư sản nếu nó chưa nhập vào và tự phủ định một cách biện chứng trong ý thức hệ của giai cấp công nhân. Đại đa số các nhà văn tiểu tư sản Việt-nam khoảng 1905-1945 ở vào tình trạng không may mắn ấy – kể cả những nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Do đó, tính chất tiến bộ của dòng văn học tiểu tư sản cận đại bị giới hạn khá nhiều.

Văn học của giai cấp tư sản và của các tầng lớp tiểu tư sản là đại bộ phận của văn học cận đại Việt-nam. Những tư tưởng ưu thế ngự trị trong đời sống văn học cận đại Việt-nam và chủ đạo các sáng tác phẩm văn học được hoan nghênh, từ 1905 đến 1945, đều thuộc phạm trù ý thức hệ tư sản, với tất cả những biến thái trăm hình nghìn vẻ của nó do chế độ thuộc địa nửa phong kiến đẻ ra. Đó là một phạm trù ý thức hệ cận đại, căn bản đối lập với ý thức hệ phong kiến.

Xét về hình thức nghệ thuật, văn học Việt-nam thời kỳ 1905-1945 cũng mang một cận đại tính rõ rệt khác hẳn những thời kỳ trước 1905. Trước hết, cơ cấu của đời sống văn học bị biến đổi triệt để. Những phương tiện vật chất mới để phổ biến văn học bắt đầu xuất hiện (nhà in, hiệu sách, nhà xuất bản, báo chí, diễn đàn, rạp hát…) Nhà văn chuyên nghiệp hoặc tự biến thành một nhà tiểu sản xuất độc lập (kiểu Tản Đà) hoặc thành một người bán lao động phẩm của mình cho nhà tư bản để sinh sống (trong trường hợp của đại đa số nhà văn). Công chúng văn học là những thị dân công thương, học sinh, viên chức, nghề nghiệp tự do (tư sản và tiểu tư sản) có xu hướng âu hóa về thẩm mỹ. Sự biến đổi đa diện này làm nẩy ra nhu cầu áp dụng những hình thức nghệ thuật văn học Tây phương vào công trình sáng tác. Chữ Hán, chữ Nôm nhường bước cho chữ quốc ngữ. Văn xuôi xuất hiện và chiếm địa vị chủ yếu trong văn học. Các loại văn mới (tiểu thuyết, phóng sự, kịch nói, phê bình, sử ký, phỏng vấn, bút chiến, tường thuật, thời đàm, nụ cười…) được vận dụng hoàn toàn theo quy thức tây phương và mỗi ngày một phát triển phức tạp. Cách bố cục, cách phô diễn, cách dùng chữ, cách hành văn thiên về tính phân tích, khúc chiết, gọn ghẽ, sáng sủa, tự nhiên. Đề liệu sáng tác phần lớn là những người, việc, cảnh ngộ, sự vật lấy trong đời sống hàng ngày của dân thành thị. Ngôn ngữ văn học nói chung mang nặng tính thành thị (tư sản).

Có thể nói: từ 1905 đến 1930, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản thành thị đã xây dựng được một nền văn học mới, cận đại, theo khuôn mẫu văn học tư sản tây phương, về cả nội dung lẫn hình thức; từ 1930 đến 1945, họ đã phát triển đến cao độ nền văn học mới ấy và đạt được những thành tích quyết định. Quá trình cận đại hóa loại văn tự sự trên báo chí từ Đăng cổ tùng báo (1907) qua Thực nghiệp dân báo (1921), Đông tây (1930) Tin tức (1936) đến Tin mới (1945); quá trình cận đại hóa kịch từ sự phiên dịch Molière (1915) qua Vũ Đình Long (1921) Nguyễn Đình Nghị (1924), Vi Huyền Đắc, Nam Sương (1931) đến Đoàn phú Tứ (1938-1943); quá trình cận đại hóa tiểu thuyết từ Tản Đà (1917) qua Phạm Duy Tốn (1919), Hoàng Ngọc Phách (1925) Nguyễn Công Hoan (1930) Nhất Linh và Khải Hưng (1933) Vũ Trọng Phụng (1936-1939) đến Nguyễn Tuân (1940) Nam Cao (1945); quá trình cận đại hóa thi ca từ Khối tình con (1916) qua Trần Tuấn Khải (1921), Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn mặc tử, Huy Cận đến Vũ Hoàng Chương, Tố Hữu; quá trình cận đại hóa loại phê bình nghiên cứu văn học từ Phan kế Bích, Phạm Quỳnh (1917, 1918) qua Thái Phi, Phan Khôi, Thiếu Sơn, Trần Thanh Mại đến Hoài Thanh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Bách Khoa (1940-1945) – tất cả đều liên tục tiến triển không ngừng và càng ngày càng hoàn chỉnh, làm cho nền văn học 1905-1945 thành một khối văn học khác hẳn với trước 1905 và cũng khác hẳn với sau 1945 – khối văn học cận đại, tư sản và tiểu tư sản.

Chủ trương để văn học cận đại Việt-nam bắt đầu từ 1858 và cắt ngang lưng nó lấy 1930 làm năm khởi thủy của văn học hiện đại là xúc phạm vào tính duy nhất hữu cơ của khối văn học 1905-1945, là ép buộc lịch sử văn học phụ thuộc máy móc vào lịch sử chính trị.