Chương BẨY VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
Có thuyết cho rằng văn học hiện đại Việt-nam bắt đầu từ 1930 là năm xuất hiện Đảng cộng sản Đông dương. Theo ý chúng tôi, thuyết này mắc vào khuyết điểm căn bản là không tính kể đến sự phát triển bản thân của văn học khi phân chia thời đại văn học sử. Đành rằng lịch sử văn học bị tính lịch sử chung của xã hội quy định, xét đến cùng; nhưng nó vẫn có một độc lập tính tương đối không thể phủ nhận được. Một biến động lớn trong cơ cấu kinh tế, chính trị của xã hội phải thông qua nhiều nhân tố môi giới phức tạp mới tác động được đến bản thân quá trình văn học. Không những nó phải qua một thời gian cần thiết mới đẻ ra được những tư tưởng phù hợp với nó làm yếu tố ý thức hệ chủ đạo cho sự sáng tác văn học khác với yếu tố ý thức hệ của thời trước; nó lại còn phải qua một thời gian lâu hơn nữa mới tạo ra được một lý tưởng thẩm mỹ, một nhu cầu nghệ thuật phù hợp với yếu tố ý thức hệ kia. Có biến đổi được nhu cầu nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ mới biến đổi được tính chất của văn học.
Một thời đại văn học này phân biệt được với một thời đại văn học trước hoặc sau nó là ở chỗ khác nhau của lý tưởng thẩm mỹ và của nhu cầu nghệ thuật. Lý tưởng và nhu cầu này, xét đến cùng, vẫn chỉ là phản ảnh tinh thần của một trạng thái kinh tế, chính trị, xã hội nhất định; nhưng nó là cái vòng cuối cùng của dây chuyền ảnh hưởng từ trạng thái kinh tế đến sáng tác và thưởng thức văn học; nó là môi giới tối hậu đem cái tác dụng quyết định của trạng thái kinh tế vào lĩnh vực văn học. Vả lại, trong lúc chịu sự quy định của trạng thái kinh tế mới, nó cũng vẫn duy trì một độc lập tính tương đối; nó còn kế thừa một truyền thống thẩm mỹ có trước nó, không dễ dàng và mau chóng vượt qua được. Trong các yếu tố tinh thần của con người (bất luận ở giai cấp nào) khiếu thẩm mỹ biến đổi chậm hơn cả. Phải đợi khi nào sự biến đổi kinh tế, chính trị làm biến đổi được, trong căn bản, phong tục và tâm lý một xã hội, một giai cấp, lúc đó khiếu thẩm mỹ của xã hội ấy, giai cấp ấy mới thật sự biến đổi. Bàn về bước đầu của văn học vô sản ở Liên-xô, nhà đại văn hào Ilya Ehrenbourg đã nhận xét rất đúng:
« Giai cấp vô sản chưa tự khẳng định thành một thế giới riêng có phong tục và tâm lý riêng của nó. Lao động và chiến đấu, giai cấp vô sản đã tỏ ra là anh dũng; nhưng khi giải trí trong những giờ nhàn rỗi, nó vẫn luẩn quẩn thích thú những kịch truyền kỳ và những khúc tình ca nhu cảm. Nó chưa có đủ thời giờ để sản sinh ra những nhà văn của nó khả dĩ có thể địch được với các nhà văn của Đệ tam đẳng cấp… Kinh nghiệm của chúng tôi chứng minh rằng sự sáng tạo ra một nền văn học của giai cấp mới là một công việc phức tạp, lâu dài. Không phải chỉ có tài năng và lòng hăm hở của nhà văn mà đủ; sự sáng tạo ấy còn do quá trình hình thành của xã hội mới quyết định nữa» . 81
Một giai cấp đã thế, một thời đại cũng vậy. Không phải một biến động kinh tế đơn thuần, một sự kiện chính trị đơn thuần (mặc dầu quan trọng đến mức nào) có thể tức khắc biến đổi được phong tục và tâm lý một thời đại, một xã hội. Mà chưa có sự biến đổi sâu sắc này thì văn học thuộc quyền chỉ đạo của lý tưởng thẩm mỹ cũ nghĩa là vẫn chưa mang tính chất của thời đại mới.
Từ thời cận đại chuyển sang thời hiện đại, xã hội mang một tính chất mới hẳn, ở mọi lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần. Đứng về mặt lịch sử tiến hóa nói chung thì thời hiện đại bắt đầu từ Cách mạng tháng mười Nga, 1917. Có thể nói gọn một câu: thời hiện đại là thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới bắt đầu thắng lợi và càng ngày càng thắng lợi trong điều kiện đế quốc chủ nghĩa – giai đoạn chót của chế độ tư bản – bắt đầu tan rã và càng ngày càng tan rã. Sự có mặt và tồn tại của chế độ Xô viết ở một phần sáu trái đất đã quyết định toàn bộ phương hướng và cách thức hoạt động (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) của đế quốc chủ nghĩa, đồng thời quyết định phương hướng và cách thức tiến hành đấu tranh chống đế quốc chủ nghĩa của toàn bộ phong trào vô sản thế giới liên minh với phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã viết:
«Có hai loại cách mạng thế giới. Loại thứ nhất là cách mạng thế giới thuộc phạm trù của tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Thời đại của loại cách mạng thế giới này… cáo chung vào lúc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa bùng nổ năm 1914 và nhất là với thời cách mạng Tháng Mười Nga 1917. Từ đó về sau, đã mở đầu cho loại cách mạng thế giới thứ hai, tức là cách mạng thế giới xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản… Bất cứ giai cấp nào ở trong dân tộc bị áp bức, bất cứ đảng phái hoặc cá nhân nào mà tham gia các mạng, và bất cứ họ có ý thức hay không, chủ quan họ có thấu hiểu hay không, quý hồ là họ phản đối đế quốc chủ nghĩa, thì cuộc cách mạng của họ đã biến thành một bộ phận cách mạng thế giới xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản. Họ đã trở thành quân đồng minh trong cách mạng thế giới xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản ». (Luận về chủ nghĩa Tân dân chủ)
Dựa theo nhận định này, các nhà văn học sử Trung-quốc đã lấy Ngũ tứ vận động (1919) làm năm mở đầu của thời hiện đại trong lịch sử văn học Trung-quốc, mặc dầu lúc đó chưa xuất hiện Đảng cộng sản.
«Phong trào Ngũ tứ phát sinh dưới sự hiệu triệu của cách mạng thế giới trong thời đó, dưới sự hiệu triệu của cách mạng Nga, dưới sự hiệu triệu của Lê-nin» (Mao Trạch Đông: sách đã dẫn)
Các nhà văn học sử Trung-quốc đã mặc nhiên thừa nhận rằng:
« T ính chất hiện đại không gì khác hơn là tính chất cách mạng xã hội chủ nghĩa, biểu hiện ra ở tính chất ưu việt của chủ nghĩa Marx-Lénine do giai cấp vô sản thực hiện thắng lợi thông qua Đảng tiền phong của nó, trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa » .
Tuy nhiên, cũng cần phân biệt mặt khách quan và mặt chủ quan của phong trào cách mạng ở từng nước một. Không phải vì thuộc vào phạm trù cách mạng thế giới xã hội chủ nghĩa xét theo khách quan mà một phong trào cách mạng, ở một nước, đã chủ quan có tính chất cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nói khác đi, nằm trong thời hiện đại (hiểu theo nghĩa: thời của cách mạng thế giới xã hội chủ nghĩa) một phong trào cách mạng không hẳn là đã có hiện đại tính (hiểu theo nghĩa: tính chất cách mạng xã hội chủ nghĩa). Một phong trào có hiện đại tính là một phong trào trong đó bộ phận lãnh đạo (Đảng), giai cấp vô sản cũng như quảng đại quần chúng cách mạng đã có ý thức cách mạng xã hội chủ nghĩa và tiến hành đấu tranh dưới ngọn cờ Marx-Lénine để thực hiện những nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa. Một xã hội có hiện đại tính là một xã hội trong đó tư tưởng xã hội chủ nghĩa và các lực lượng các mạng xã hội chủ nghĩa đã đạt tới địa vị ưu thế (nếu chưa thắng lợi) khả dĩ bắt buộc các sức mạnh phản tiến bộ phải liên tục đối phó từng giờ từng phút một cách toàn diện và phải nhượng bộ ở một số điểm quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa. Một văn học có hiện đại tính là một văn học trong đó tư tưởng mỹ học xã hội chủ nghĩa và các lực lượng sáng tạo xã hội chủ nghĩa đã đủ sức tấn công các tư tưởng và lực lượng phản tiến bộ, đã có thể đẻ ra những tác phẩm giá trị được quần chúng cách mạng hoan nghênh, ủng hộ, đã chiếm được một vị trí ưu thế tương đối (nếu chưa phải là bá chủ) và càng ngày càng lớn mạnh.
Thực ra, cái gọi là hiện đại tính (của mọi mặt sinh hoạt xã hội) chỉ có thể đạt được một phẩm chất và một diện mạo hoàn chỉnh ở một nước trong đó giai cấp vô sản đã nắm chính quyền và liên minh với giai cấp nông dân để xây dựng những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – như ở Nga sau Cách mạng tháng Mười. Căn cứ vào mức độ này để nhận xét thì ở Trung-quốc chẳng hạn, văn học hiện đại cũng chỉ mới thành hình từ sau khi đảng Cộng sản nắm chính quyền lập ra chế độ dân chủ nhân dân (1949). Điều này Lỗ Tấn đã nêu rõ trong một bài nói chuyện ở trường học quân quan Hoàng phố ngày 8-4-1927:
« …Ở Trung-quốc không có cả hai thứ văn học ấy – hát đưa linh đối với chế độ cũ, hát mừng đối với chế độ mới. Bởi vì Trung-quốc cách mạng còn chưa thành công 82 đang là thời kỳ giáp hạt, thiếu thốn bận rộn vì cách mạng. Thế nhưng thư văn học cũ vẫn còn nhiều; văn chương trên báo hầu hết là lối cũ. Tôi tưởng điều đó đủ thấy rằng cách mạng Trung-quốc đối với xã hội chưa có sự cải biến lớn… Xã hội Trung-quốc không có thay đổi, cho nên không có bài ai ca nhớ cũ cũng không có khúc tiến hành mới toanh. Chỉ có ở Nga xô đã sản sinh ra hai thứ văn học ấy. Những nhà văn học cũ của họ chạy trốn ra ngoại quốc, văn học của họ làm ra phần nhiều là lời ai ca viếng xưa khóc chết; còn văn học mới thì đang ra sức bươn tới, tác phẩm vĩ đại tuy chưa có chứ tác phẩm mới thì không ít chi; họ đã lìa khỏi thời kỳ gầm thét mà sang qua thời kỳ hát mừng. Ca tụng sự kiến thiết: ấy là ảnh hưởng sau khi cách mạng đã tiến hành; tình hình mai sau ra sao bây giờ chưa biết; nhưng cứ nghĩ mà xem, thấy chừng như là văn học bình dân thì phải, bởi vì cái thế giới của bình dân là kết quả của cách mạng.
« Hiện nay, Trung-quốc không có văn học bình dân mà trên thế giới cũng không có văn học bình dân… Các nhà văn học hiện nay đều là người đọc sách; nếu công nhân, nông dân không được giải phóng thì tư tưởng công nhân, nông dân vẫn là tư tưởng của người đọc sách; phải đợi đến khi công nhân, nông dân được giải phóng chân chính thì mới có văn học bình dân chân chính. Có những người nói: «Trung-quốc đã có văn học bình dân»; thực ra, nói thế không đúng… » 83
Thứ văn học mà Lỗ Tấn kêu bằng văn học bình dân chính là văn học xã hội chủ nghĩa của công nhân, nông dân và do những nhà văn xã hội chủ nghĩa sáng tác để phục vụ sự nghiệp cách mạng của công nông. Đó mới thực sự là văn học có hiện đại tính trọn vẹn, sản phẩm của cách mạng vô sản thắng lợi trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa suy sụp – giai đoạn hiện đại của lịch sử nhân loại.
Tuy vậy, trong thời kỳ «giáp hạt» của cách mạng vô sản, không phải là văn học hoàn toàn chưa thể có hiện đại tính. Văn học Trung-quốc từ Ngũ tứ vận động đến 1949 đã là một văn học có hiện đại tính. Vì hai lẽ sau đây:
a) Từ 1919, tư tưởng triết học và nghệ thuật của giai cấp công nhân quốc tế, thông qua ảnh hưởng của Cách mạng tháng mười Nga, đã xuất hiện trong giới văn nghệ Trung-quốc, đã tuyên chiến với những tư tưởng triết học, nghệ thuật phong kiến và đế quốc chủ nghĩa; sau 1919, cùng với thời gian, tư tưởng tiên tiến đó mỗi ngày một thâm nhập vào nghị luận, phê bình, sáng tác văn học. Được Đảng Cộng sản, quần chúng vô sản, các phần tử thanh niên trí thức tiến bộ nhiệt liệt ủng hộ và phổ biến sâu rộng, từ 1921 trở đi, tư tưởng và văn học tả phái dần dần trở nên ưu thế.
Các nhóm nhà văn tiến bộ: Tân thanh niên, Văn học nghiên cứu hội, Sáng tạo xã, với những báo chí bạch thoại chứa chan nhiệt tình và dũng khí đấu tranh như: Tân thanh niên, Sáng tạo quý san, Sáng tạo chu báo, Sáng tạo nguyệt san, Tiểu thuyết nguyệt báo, Trung-quốc Thanh niên (tạp chí này ra đời 1923 và do Đảng Cộng dản trực tiếp lãnh đạo), Ngữ ti… trong khoảng thời gian ngắn từ 1919 đến 1927, đã làm thắng một cuộc cách mạng văn học quyết định và đánh lui mọi lực lượng văn học lạc hậu, bảo thủ tập hợp trong các cơ quan ngôn luận thoái hóa như Học hành, Giáp dần tạp chí, Nỗ lực chu báo, Độc thư tạp chí, Quốc học quý san, Hiện đại bình luận, Thân báo…
Các nhà văn trung kiên của sự nghiệp cách mạng văn học ra công giới thiệu rộng rãi rất nhiều tác phẩm trứ danh của các nhà văn Nga, như Gorki, Lunatcharsky, Plékhanov, Ostrowski, Sérafimovick, Fadéev, Cholokov, Gogol, Tourguénev, Pouchkine, Dostoievsky, Léon Tolstoi, Tchékov. Lý luận mỹ học Mác-xít được vận dụng có sáng tạo trong những cuộc chiến đấu tư tưởng với phe bảo thủ, thoái hóa, và đã thu được nhiều thắng lợi căn bản. Kết quả lớn lao của quá trình đấu tranh văn học gay go này là sự thành lập T ả d ực tác gia liên minh năm 1930 dưới quyền chỉ đạo của Lỗ Tấn.
Từ sau 1930, văn học cách mạng xã hội chủ nghĩa, mặc dầu bị chính phủ phản động Quốc dân đảng khủng bố trắng trợn, càng ngày càng lớn mạnh không sức gì cản trở được. Năm 1931, trong một bài đăng ở báo Tân quần chúng (Mỹ), nhan đề: Hiện trạng giới văn nghệ của Trung-quốc tối tăm, Lỗ Tấn vị tướng chỉ huy mặt trận văn học cách mạng vô sản Trung-quốc đã có thể viết:
«Hiện nay ở Trung-quốc, vận động văn nghệ của cách mạng vô sản giai cấp thực ra là vận động văn nghệ có một. Vì đó là cái chồi mầm trong đồng hoang, ngoài đó ra, Trung-quốc không còn có văn nghệ nào khác nữa; gọi là «nhà văn nghệ» thuộc về giai cấp thống trị thì đã mục nát đến nỗi cả đến thứ tác phẩm kêu bằng «nghệ thuật vị nghệ thuật» cho đến «đổi phế» cũng không sản sinh ra được; hiện tại cái để mà chống lại văn nghệ tả dực, chỉ có đặt điều nói xấu, đè nén, bỏ tù và giết chóc; người để mà đối lập với tác giả tả dực cũng chỉ có lưu manh, mật thám, chó săn và đao phủ thủ… Văn nghệ tả dực có đại chúng độc giả cách mạng nâng chỗi, cái «tương lai» chính ở một phương diện ấy. Như thế, văn nghệ tả dực vẫn đang cứ lớn lên… Bọn tác gia tả dực đang cùng với vô sản bị đè nén, bị giết chóc, chịu chung một số mạng với nhau. Chỉ có văn nghệ tả dực cùng chung chịu nạn với đám vô sản ở hiện tại thì tương lai chắc chắn cùng chung nổi dậy với đám vô sản…»
Năm 1934, trong bài: Ma mãnh trên văn đàn Trung-quốc (in trong tập Thả giới đình tạp văn) Lỗ Tấn lại viết:
«…Máu của thanh niên cách mạng lại tưới cho cái mầm văn học cách mạng, về phương diện văn học, trở tăng thêm cách mạng tính hơn trước kia… Văn học cách mạng không hề l ay động, vẫn cứ phát đạt hơn lên… Sẽ có một đám chiến đấu tanh máu tiếp theo đây mà nổi lên».
Năm 1936, bốn tháng trước khi mất, Lỗ Tấn xác định một lần chót tính chất, nhiệm vụ và hiện trạng của văn học vô sản:
«Cái mà Tả dực tác gia liên minh lãnh đạo và chiến đấu năm sáu năm nay là cuộc vận động văn học cách mạng giai cấp vô sản. Thứ văn học và cuộc vận động ấy cứ phát triển mãi, đến bây giờ càng phát triển một cách cụ thể hơn, thực tế đấu tranh hơn, đến chỗ văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc. Văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc là một phát triển của văn học cách mạng vô sản giai cấp, là cái nội dung chân thật và quảng đại của văn học cách mạng ở thời giờ hiện tại. Thứ văn học ấy hiện nay đã cứ tồn tại rồi, lại còn sắp sẽ ở trên cơ sở ấy chịu thêm sự bồi dưỡng của sinh hoạt chiến đấu thực tế mà trổ ra những bông hoa rực rỡ…» (Bài: Nói về cuộc vận động văn học của chúng ta hiện nay)
Sau khi Lỗ Tấn chết, lời tiên tri đầy lạc quan cách mạng nay đã thành sự thật. Cùng với nhân dân Trung-quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc đã thắng mọi lực lượng phản động cản đường nó, góp phần vào sự thành công vĩ đại của cách mạng Trung-quốc năm 1949, đưa đội quân tiền phong của giai cấp vô sản lên địa vị nắm chính quyền văn học Trung-quốc từ năm 1949 về sau chỉ là sự kế tục phát triển trực tiếp của văn học 1919-1949 trên một cơ sở thuận lợi hơn.
b) Từ 1919 trở về sau, tính chất, nhiệm vụ, diện mạo của văn học Trung-quốc biến đổi trong căn bản và bước vào một kỷ nguyên hoàn toàn mới: kỷ nguyên hiện đại. Văn học Trung-quốc, trong quá trình tiến triển của nó, đến 1919 nhẩy một bước vọt quyết đinh. Từ chủ trương «xô đổ nền văn học quý tộc, cổ điển cổ hủ, sơn lâm tối tăm, để xây dựng một nền văn học quốc dân, tả thực, xã hội» của Trần Độc Tú phát biểu trong bài Bàn về cách mạng văn học (tạp chí tân thanh niên, tháng 2-1917) qua bước tiến vượt bực của Quách Mạt Nhược, năm 1926 «…dòng trào lưu chính của văn nghệ phải đi vào bộ đội, vào nông dân, vào công xưởng…; nền văn học mà chúng ta đang yêu cầu là văn học tả thực theo tinh thần xã hội chủ nghĩa, nền văn học biểu đồng tình với giai cấp vô sản…» (bài Cách mạng và văn học) đến lập trường «văn học cách mạng về chiến tranh cách mạng dân tộc… là cái nội dung chân thật và quảng đại của văn học cách mạng vô sản giai cấp ở thời giờ hiện tại» của Lỗ Tấn (1936), nội dung của văn học Trung-quốc sau Ngũ tứ vận động mỗi ngày một tiến sâu vào ý thức hệ cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung-quốc. Chống văn ngôn và đề xướng văn bạch thoại, chống lối thơ cổ và sáng tác thơ mới, chống các khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, văn học không dính đến chính trị, văn học nhàn thích… và thẳng thắn tuyên truyền văn học cách mạng vô sản: các nhà văn tả phái, từ 1919 về sau, thắng hết trận này đến trận khác và đã tỏ ra một tinh thần chiến đấu quyết liệt, dũng cảm và không biết mỏi. Nhờ thế mà luồng tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa đã chiếm được địa vị ưu thế trong nền văn học Trung-quốc 1919-1949 lấn át và đè bẹp mọi thứ tư tưởng phong kiến, đế quốc chủ nghĩa, tư sản mại bản, cá nhân chủ nghĩa tiểu tư sản. Với những đợt đấu tranh liên tục của nó đối với các loại tư tưởng phản động và lạc hậu, với những thành tích rực rỡ nó đã thâu hoạch được trong các loại văn, thơ, tiểu thuyết, kịch, tạp văn, phê bình, sử ký, phiên dịch, với sự liên hệ mật thiết giữa nó và phong trào đấu tranh phản phong đế của giai cấp vô sản và của quảng đại nhân dân, với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng lao động, giải phóng con người mà nó nhằm thực hiện, nền văn học Trung-quốc 1919-1949 xứng đáng là một nền văn học của thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa – một nền văn học hiện đại.
Ở Việt-nam, tình hình văn học từ 1930 đến 1945 không giống văn học Trung-quốc 1919-1949. Năm 1930 không có tính chất, ý nghĩa và tác dụng đối với văn học Việt-nam như năm 1919 đối với văn học Trung-quốc. Trái lại: văn học Việt-nam 1930-1945 chỉ kế tục phát triển trực tiếp văn học 1905-1930. Về nội dung và hình thức, văn học 1905-1930 và văn 1930-1945 cùng thuộc vào một phạm trù, một hệ thống – tư sản và tiểu tư sản. Có điều khác là trong văn học 1930-1945, tính chất tư sản và tiểu tư sản của tư tưởng , của chủ đề sáng tác, của tình cảm, của nhân vật hư cấu, của nghệ thuật biểu hiện, của ngữ ngôn và phép hành văn, rõ nét hơn, sâu sắc hơn , khẳng định hơn ở giai đoạn 1905-1930 (trong giai đoạn 1905-1930 tính chất ấy còn ở trạng thái đang hình thành). Nhưng đó chỉ là sự khác nhau của hai giai đoạn trong cùng một thời đại văn học chứ không phải sự khác nhau của hai thời đại văn học.
Về thi ca: những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương không phủ định Tản Đà, Trần Tuấn Khải; về tiểu thuyết: Khái hưng, Nhất Linh chỉ là sự phát triển của Song An, Hoàng Ngọc Phách; Mai trong Nửa chừng Xuân, Loan trong Đoạn tuyệt chỉ là Tố Tâm tư sản hóa hơn mà thôi; những tác phẩm hiện thực chủ nghĩa của những Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… chỉ tiếp con đường của Phạm Duy Tồn, Kinh anh lệ sử; người hùng của Lê Văn Trương tiếp tục thể hiện triết lý khỏe sống yếu chết của Hậu Đình Hoa; về kịch: Vi Huyền Đắc tiếp tục Vũ Đình Long; về ngữ ngôn và cách phô diễn, các nhà văn 1930-1945 chỉ cải tiến thêm, cận đại hóa thêm một công cụ (quốc văn) đã được Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Khắc Hiếu, Phan Kế Bính, Phan Khôi, Phạm Duy Tốn, Vũ Đình Long, Trần Trọng Kim… rèn giũa thành hình rồi.
Tư tưởng, tình cảm, chủ đề, nhân vật, ngữ ngôn, bút pháp, không một nhân tố nào của văn học 1930-1945 mà không có tính chất tư sản, tiểu tư sản. Đại bộ phận văn học 1930-1945 là văn học tư sản và tiểu tư sản. Những tác phẩm văn học có giá trị nhất được hoan nghênh nhất trong giai đoạn 1930-1945 đều là những tác phẩm thuộc phạm trù tư tưởng và nghệ thuật tư sản, tiểu tư sản. Những cuộc đấu tranh văn học quan hệ mật thiết và trực tiếp đến sự sáng tác là: đấu tranh giữa phái thơ mới (tiểu tư sản) với phái thơ cũ (phong kiến); đấu tranh giữa lãng mạn chủ nghĩa (tư sản) và hiện thực chủ nghĩa (tiểu tư sản), đấu tranh giữa xu hướng hành văn Hoàng tích Chu (tư sản) với xu hướng hành văn Hoàng Tăng Bị (phong kiến), đấu tranh giữa phái hiện thực phê phán (tiểu tư sản) với phái đạo đức giả (phong kiến và đế quốc chủ nghĩa). Trong những cuộc đấu tranh này, một thiểu số nhà bình luận duy vật (khoảng 1935-1940) chỉ mới góp ý kiến trợ lực cho khuynh hướng hiện thực phê phán và nhân cơ hội đó đưa ra chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh để lôi cuốn cánh tả của tiểu tư sản vào con đường sáng tác phục vụ quảng đại quần chúng. Nhưng chủ trương đó cũng chưa có tác dụng gì mạnh mẽ đối với đường lối sáng tác văn học . Các nhà văn tiến bộ nhất lúc bấy giờ, như là Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… cũng vẫn chưa có ý thức cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự sáng tác nói chung vẫn diễn ra trong bốn bức tường của ý thức hệ tư sản và tiểu tư sản tiến bộ.
Một trong những nguyên nhân của tình hình văn học trên đây là nhịp lên xuống qu á nhanh của phong trào cách mạng Việt-nam , đặc biệt từ 1930 đến 1945. Cao trào: 1930-1931, thoái trào 1932-1935; cao trào 1936-1939; thoái trào: 1940-1941; cao trào 1942-1945. Cao trào, thoái trào, cao trào, thoái trào kế tiếp nhau theo một nhịp điệu gấp gáp. Không lần nào, Đảng Cộng sản Đông-dương có được thời gian cần thiết để tiến hành một cuộc vận động văn nghệ cách mạng xã hội chủ nghĩa lâu dài. Không lần nào, Đảng đủ điều kiện khách quan để trực tiếp chủ trương lâu dài một cơ quan nghị luận và phê bình văn học tuyên truyền sâu rộng ý thức hệ vô sản giai cấp trong lãnh vực mỹ học. Trong một hoàn cảnh như vậy, Đảng và cả một số nhà văn có thiện chí cách mạng không đủ cả thì giờ để phiên dịch, phổ biến những tác phẩm văn học xã hội chủ nghĩa Nga như các nhà văn tiến bộ Trung-quốc đã làm sau 1919. Do đó, các nhà văn cánh tả của tầng lớp tiểu tư sản, như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, được phong trào quần chúng đấu tranh hun đúc chí phấn đấu, cũng chỉ tăng thêm được dũng khí tố cáo xã hội, mài sắc thêm được nhãn quan hiện thực phê phán chứ không sao đạt tới được một giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa để dựa vào đấy mà sáng tác.
Đó chính là điểm khác nhau giữa hoàn cảnh Trung-quốc 1919-1949 và hoàn cảnh Việt-nam 1930-1945, quan hệ với công cuộc xây nền đắp móng cho một văn học cách mạng vô sản. Bởi vậy, văn học Trung-quốc, bắt đầu từ Ngũ tứ vận động (1919) đã bước vào thời hiện đại và mang tính chất hiện đại, mà văn học Việt-nam thì đến tận đêm trước Cách mạng tháng Tám 1945, căn bản, vẫn là một văn học cận đại, tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản. Phải đợi đến Cách mạng tháng Tám thành công, văn học Việt-nam mới gặp đủ điều kiện lịch sử để xuất hiện. Ngày chủ tịch Hồ chí Minh tuyên bố nền độc lập của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa (2-9-1945) cũng là ngày khai sinh của văn học Việt-nam hiện đại.
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT - NAMMặc dầu tư tưởng và phương pháp duy vật đã được áp dụng vào một vài công trình nghiên cứu và lý luận văn học từ 1940-1945 (Kinh Thi Việt-nam của Trương Tửu, Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nguyễn Công Trứ của Nguyễn Bách Khoa…); mặc dầu trong báo chí bí mật, Đảng Cộng sản Đông-dương đã đưa ra một Đề cương văn hóa, dân tộc, khoa học, đại chúng từ 1943; mặc dầu thi sĩ Tố Hữu, nhà tiểu thuyết Nguyên Hồng đã sáng tác được ít nhiều thơ, truyện ngắn, ca dao cổ động cách mạng theo hướng văn học vô sản giai cấp (nhất là từ sau 1943 đến Tổng khởi nghĩa); mặc dầu đã có mầm mống ấy trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, văn học hiện đại Việt-nam cũng phải đợi đến sau tháng Tám 1945 mới gặp điều kiện để hình thành. Ngày nay, nhìn lại mười năm văn học kháng chiến (1945-1954) ta đã có thể nhận thấy rõ ràng:
Cách mạng tháng Tám mở đầu một thời đại hoàn toàn mới trong lịch sử văn học dân tộc. Về mọi phương diện: đời sống văn học, lý tưởng nghệ thuật, khiếu thẩm mỹ, sáng tác và phê bình, chủ đề, nhân vật, ngữ ngôn, cách hành văn… văn học 1945-1954 đã chứa đựng những nhân tố hiện đại mà trước tháng Tám 1945 nó chưa thể có được.
Những nhân tố đó là:
1) LẬP TRƯỜNG VĂN HỌC CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN XÃ HỘI CHỦ NGHĨANgay từ ngày đầu thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, đường lối văn học: dân tộc, khoa học, đại chúng đã được phổ biến rộng rãi trong toàn thế giới văn học và nghệ thuật. Có thể nói: đại đa số nhà văn nhiệt liệt hoan nghênh đường lối ấy. Vì rằng lập trường văn học tiểu tư sản, từ 1940 đến 1945, đã đưa sự sáng tác vào con đường bế tắc quằn quại không có lối thoát. Quay trở về dĩ vãng (như Nguyễn Công Hoan: tiểu thuyết Thanh đạm), luôn luôn đổi thực đơn cho giác quan bằng cách xê dịch thường xuyên (như Nguyễn Tuân), cầu khẩn thượng đế ban Lửa thiêng để sống có ý nghĩa (như Huy Cận), giãy giụa rên la đến hấp hối trong Mây, Say để mong được hủy diệt (như Vũ Hoàng Chương), co quắp trốn lui vào tháp ngà Đạo, Nhạc, Thơ của Xuân thu nhã tập (như Đoàn phú Tứ, Phạm Văn Hạnh…) đau khổ và điên cuồng chạy tìm sự sống trong cái chết (như kịch Ngã ba của Đoàn Phu Tứ), cố gắng nuôi nấng tinh thần bằng những nghĩa cử anh hùng ảo tưởng (như Vi Huyền Đắc trong Kinh Kha, Lệ chi Viên…) đốt hương ngồi lặng để hưởng thụ cái đẹp của Đoạn trường tân-thanh (như Hoài Thanh)… tất cả những thái độ nghệ thuật yếu đuối ấy, sản phẩm của một lập trường văn học cá nhân chủ nghĩa tiểu tư sản, cuối cùng, xô tất cả các nhà văn nói trên vào một lối tắc hậu. Ở đó chỉ có trụy lạc, đau khổ, chết mòn và mọi bi kịch thê thảm của tâm hồn.
Cách mạng tháng Tám đã kéo tất cả ra khỏi khu vực thẳm tối mù đó. Nương theo ngọn cờ đỏ sao vàng tung bay trong đám hào quang dân chủ cộng hòa, các nhà văn quằn quại kia, sau một cơn loạng choạng bỡ ngỡ nghẹn ngào, đã hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng marxiste léniniste trở về với dân tộc, với khoa học, với đại chúng, để khôi phục lẽ sống chính đáng của cho con người mình, cho nghệ thuật. Liền đó, những vấn đề mới, căn bản, của sáng tạo văn học, được các nhà văn nêu ra, thảo luận sôi nổi: viết để làm gì? viết cho ai? viết cái gì? viết thế nào? Chung quanh những vấn đề này, dần dần, các nhà văn nhận thức được tất cả cái sai lầm, thiếu sót của lý tưởng mỹ học tư sản và tiểu tư sản. Nếu như vì quy luật tâm lý «ngựa quen đường cũ» mà một số anh chị em nhà văn đôi khi còn lưu luyến những hình ảnh dịu dàng của thời văn học tiền cách mạng thì cuộc Kháng chiến toàn quốc anh dũng và khốc liệt đã kéo mạnh họ trở lại nhiệm vụ thần thánh hiện tại. Được thực tế đấu tranh hun đúc, được Đảng tiền phong dìu dắt, được quảng đại nhân dân công nông binh thôi thúc, các nhà văn đi kháng chiến đã cùng với thời gian mỗi ngày một tiến sâu vào ý thức hệ vô sản. Đến 1949, toàn thể nhà văn, trong một Hội nghị tranh luận ở Việt-bắc, đã nhất trí tán thành lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm chủ trương căn bản trong sự sáng tác văn nghệ. Giới nhà văn đã thẳng thắn nối chặt vận mạng nghệ thuật vào vận mạng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Quá trình biến diễn tư tưởng trong bản thân họ, do cách mạng tháng Tám và Kháng chiến kích thích, đã gây ra trong tâm hồn họ một chuyển hướng quyết định – từ lập trường văn học tiểu tư sản chuyển sang lập trường của giai cấp công nhân, từ lập trường cá nhân chủ nghĩa chuyển sang lập trường xã hội chủ nghĩa Marx – Lénine. Từ sau 1949, giới nhà văn càng nỗ lực học tập lý luận Marx – Lénine, thâm nhập công nông binh, thực sự công tác và sáng tác để phục vụ cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân dưới quyền lãnh đạo của Đảng tiền phong. Chủ quan ý thức của giới nhà văn đã tiến mỗi ngày một gần đến chỗ thống nhất với tính chất khách quan – cách mạng xã hội chủ nghĩa – của hướng tiến lịch sử trong thời hiện đại.
2) NHÀ VĂN THÂM NHẬP QUẦN CHÚNG, PHỤC VỤ CHÍNH TRỊ CÁCH MẠNG, THAM GIA CẢI TẠO XÃ HỘICách mạng tháng Tám, và nhất là cuộc Kháng chiến trường kỳ đã thúc đẩy các nhà văn sống hòa hợp với nhân dân, chủ yếu là công, nông, binh. Với ý thức: sáng tác về công nông binh cho công nông binh thưởng thức để bồi dưỡng ý chí yêu nước thù giặc của công nông binh, họ hăm hở đi vào nông thôn, công xưởng, bộ đội để tìm hiểu đời sống, tâm lí, ngôn ngữ của những con người sản xuất và chiến đấu mà trước 1945 họ chưa bao giờ gần gũi. Đi vào nhân dân, đối với họ, không phải là «cưỡi ngựa xem hoa» một cách bàng quan hời hợt mà là thực sự công tác trong những cơ quan và tập thể công nông binh. Họ làm ca dao địch vận, làm kịch diệt dốt, làm truyện hô hào tăng gia sản xuất, ngay ở trong những cơ quan địch vận, bình dân học vụ, thôn xã. Họ đi chiến dịch với bộ đội, làm và ngâm thơ ngay trong các chiến hào để động viên tinh thần chiến đấu, viết và diễn chèo, kịch trên đường phục vụ của ngàn vạn dân công, sáng tác và huấn luyện nghệ thuật cho các mầm non văn nghệ trong các xưởng máy ẩn kín trong rừng sâu. Họ lấy công tác bồi dưỡng sáng tác và lấy sáng tác làm công tác phục vụ quần chúng. Họ hiểu rằng muốn nắm được thực tế để biểu hiện trong thơ, truyện, kịch, v.v… không gì tốt hơn là tham gia biến cải thực tế. Mà muốn tham gia biến cải thực tế thì phải chung sức với quần chúng công nông binh trong những hành động tập thể có tổ chức, có lãnh đạo, có kỷ luật.
Trong điều kiện của cuộc kháng chiến, hành động của quần chúng không bao giờ tách khỏi nhiệm vụ chính trị trước mắt, thiết thực. Cho nên các nhà văn muốn kết hợp với quần chúng để đấu tranh thế tất phải lấy nhiệm vụ chính trị trước mắt làm chủ đề sáng tác, lấy công việc thực hiện nhiệm vụ ấy làm cảm hứng văn học. Khẩu hiệu: phục vụ kịp thời, đối với nhà văn kháng chiến, là một yêu cầu khách quan của thực tế đấu tranh. Nó biểu thị sự đòi hỏi cấp bách của quần chúng đối với văn học. Các nhà văn kháng chiến đã đáp ứng sự đòi hỏi ấy một cách khẩn trương, dũng cảm. Nhà văn hào Trung-quốc Quách Mạt Nhược đã từng viết:
« …Khi quần chúng đông đảo chưa thể phát triển được cá tính của họ, chưa được sống tự do thì số ít giác ngộ trước thà hy sinh cá tính của mình, hy sinh tự do của mình để giành lại tự do và cá tính cho đại chúng còn hơn » .
Trong khói lửa kháng chiến, trước mũi súng tàn bạo của thực dân Pháp, các nhà văn Việt-nam cũng nghĩ như Quách Mạt Nhược và đã sống theo ý nghĩ ấy. Không những hy sinh cá tính và tự do, họ đã nghĩ có thể hy sinh cả tính mệnh cá nhân cho tiền đồ dân tộc. Trong thực tế, đã có anh chị em văn nghệ bị giặc tra tấn, tù đầy, bắn giết trong khi chấp hành nhiệm vụ trên các ngả đường kháng chiến. Trong tám năm gian lao chiến đấu với quần chúng dân tộc, nhà văn Việt-nam đã xứng đáng với Tổ quốc anh hùng.
«Lũ chúng ta lạc loài dăm bẩy đứa; bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh»: cái tâm trạng u ám đó của thi sĩ Vũ Hoàng Chương 1943 (và của một số khá đông văn sĩ, thi sĩ khác, trước Cách mạng tháng Tám) đã bị thiêu hủy trong ngọn lửa kháng chiến. Nhà văn, nhà thơ đã cố gắng trở thành những chiến sĩ sát cánh với toàn thể dân tộc xông lên hàng đầu bảo vệ quê hương, cố gắng trở thành những người bạn đồng chí thân yêu của quảng đại quần chúng, đồng cam cộng khổ với công nông binh. Cái thành quả quý giá nhất mà họ đã thu hoạch được trong cuộc sống mới này là đã tự chế ngự được những tập quán cá nhân chủ nghĩa cố hữu để phục tùng tổ chức, phục tùng lãnh đạo, phục tùng đa số. Trước kia, họ chỉ tuân theo kỷ luật của cá nhân họ. Nay, họ đã tuân theo kỷ luật của sự chiến đấu có lãnh đạo. Họ đã cố gắng phối hợp hai chữ kỷ luật của sự chiến đấu có lãnh đạo. Họ đã cố gắng phối hợp hai thứ kỷ luật ấy để phục vụ kháng chiến. Điều này chứng tỏ rằng họ đã quyết tâm ly khai với nhân sinh quan tư sản và tiểu tư sản. Đó là tiền đề cần thiết của sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa.
3) BIỂU HIỆN CON NGƯỜI TÍCH CỰC ĐÃ THÀNH HÌNH TRONG KHÁNG CHIẾNLập trường tư tưởng đã biến đổi, đời sống đã biến đổi thì cách nhìn và bình giá thực tại cũng biến đổi theo. Quả vậy, xã hội, con người và cả đến thiên nhiên, trong văn học kháng chiến, đã hiện ra khác hẳn thời trước Cách mạng tháng Tám. Khung cảnh của sinh hoạt không còn là những khuê phòng, khách thính, ấp trại, hoa viên tư sản «kiểu Tự lực văn đoàn» hoặc những tiệm hút, lầu hồng, lữ điếm, chuyến tầu vô định tiểu tư sản «kiểu Thiếu quê hương». Nhân vật hư cấu không còn là những chàng Dũng, chàng Nguyễn, nàng Hiền, nàng Tuyết, cũng không còn là những Bà Phó Đoan, Xuân tóc đỏ, Typn, Joseph Thiết, v.v… Cảnh thiên nhiên không còn là ánh trăng ngọt ngào bao phủ hai mái tóc thơm nức nước hoa đắt tiền chụp vào nhau trên đê Cổ ngư phất phới những tà áo Lemur xanh vàng đỏ tím; không còn là trời mây bát ngát đầy thơ mộng của những hồ tình bể ái thấp thoáng bóng giang hồ lãng tử kỹ nữ cầm ca; không còn là những bình minh vàng khè ấn tượng của một đêm Chùa Đàn hay những hoàng hôn sám ngoét mầu thất vọng của một tình duyên Hiền-Vọi… Tất cả cái thế giới u uất, hắc ám, ảo tưởng ấy đã thành những đồ cổ trong viện bảo tàng văn học. Các nhà văn học kháng chiến, đứng vững hai chân trên mặt đất, nhìn thẳng vào cuộc đời sản xuất, học tập, đấu tranh của những con người gân guốc và giản dị đang làm ra lịch sử từng phút từng giờ trên đồng ruộng, trong xuởng máy, giữa bãi chiến trường, trong các trại giam của thực dân khát máu… Đó là những con người lấy cầy bừa giáo mác chống với súng bom máy bay xe tăng, lấy hai bàn tay chống với lụt, bão, hạn hán, lấy lòng yêu nước và chí căm thù chống với mọi gian lao, cám dỗ, nguy hiểm, sa ngã, lấy khí phách làm người chống với tiếng gọi quyến rũ của kiếp sống cầu an nô lệ, và lấy ý thức cách mạng chống thường xuyên với ngay những tàn tích thói hư tật xấu còn ẩn núp trong bản thân mình. Đó là những anh hùng mới của thời đại mới-những anh hùng hiện đại chỉ có thể xuất hiện trong cuộc kháng chiến thần thánh của một dân tộc quyết tâm phá vỡ mọi xiềng xích để giành độc lập, tự do, dân chủ và hạnh phúc.
Những con người mới ấy đã là đề liệu sáng tác chủ yếu của các nhà văn kháng chiến Việt-nam. Bà mẹ Việt-bắc chất phác, giầu tình thương và can đảm; em bé miền Nam châm lửa đốt mình để phá kho đạn của quân thù; anh chiến sĩ dũng cảm lấy thân mình lấp lỗ châu mai cho đồng đội hoàn thành nhiệm vụ; anh dân công cởi áo che cho súng đạn khỏi bị mưa rừng làm ẩm ướt; chị phụ nữ tả ngạn chịu cho giặc cắt tiết để bảo vệ cán bộ ẩn trốn dưới hầm bí mật trong nhà mình, chú thiếu nhi thông tin lao mình trong mưa đạn để đem chiến lệnh của ban chỉ huy cho các cánh quân đang tấn công đồn địch; ông lão lái đò Khu V tự ý đánh đắm con thuyền chở giặc qua sông để cứu thoát bộ đội cụ Hồ khỏi bị đánh úp; người lính chiến bị thương lấy kiếm tự chặt tay để đỡ vướng rồi xông vào bốt giặc làm tròn nghĩa vụ; người trí thức bị giặc bắt và tra tấn nhổ vào mặt chúng không chịu đầu hàng; người đảng viên Cộng sản dẫn đầu anh em vượt qua vòng lửa trùng trùng để chiếm kỳ được ngọn đồi chiến thuật; và còn ngàn vạn con người khác, anh hùng vô danh, âm thầm hy sinh cho cho chính nghĩa, coi Tổ quốc nặng như Thái sơn, coi thân mình nhẹ như lông hồng: bao nhiêu hình ảnh quang vinh ấy đã là đề tài của thơ, ca, vè, chèo, kịch nói, tuồng, vở cải lương, truyện ngắn, tiểu thuyết dài, phóng sự, tùy bút kháng chiến. Có thể nói: người anh hùng hiện đại đã là cốt tủy của toàn bộ công trình hư cấu văn học 1945-1954.
Cùng với những nhân vật tích cực ấy, hoàn cảnh xã hội và thiên nhiên đã lọt vào thế giới văn học kháng chiến với một tính chất và một hình dáng hoàn toàn mới. Những túp lều gianh nghèo nàn của bần cố nông, những hầm bí mật của cán bộ hoạt động trong lòng địch; những căn rừng thiếu ánh sáng rì rầm tiếng máy in, tiếng bễ lửa, tiếng giũa, tiếng tiện; những đường đồi núi hiểm trở ngoằn nghoèo, tiếng các đoàn ô tô chuyên chở vũ khí ra mặt trận; những lán dân công đột ngột mọc lên dưới các lùm cây rậm rạp; những sườn non tuyết phủ nhẹ in vết chân các đoàn quân lặng lẽ được lệnh đánh bất ngờ sau lưng địch đóng trên tầng đỉnh cao chót vót; những trụ sở của ủy ban xã, huyện; những cơ quan chuyên môn ; những lớp học bình dân lưu động; những hào lũy trận địa dây thép gai bao bọc; những quán trọ bên đường chật ních những người đeo lủng lẳng ba lô sắc cốt; những đấu trường hừng hực căm thù của bần cố nông đối với địa chủ cường hào gian ác; những vòng đai trắng chập chờn bóng du kích, dân công gánh thóc trong đêm tối; những chuyến đò , những dòng sông còn hằn dấu vết hành quân lúc mặt trời chưa thức giấc – và cả cái bầu không khí chung của đồng ruộng, của nhà máy, của trại binh, của đường thiên lý, của căm hờn và thống khoái của chết chóc và yêu đương, của thất bại và hy vọng… tất cả đã hiện lên trong văn học kháng chiến, khi đậm khi nhạt, khi trung thực khi chuệch choạc, tùy từng cảm hứng và tài năng sáng tác. Dù thành công hay chưa thành công, trong 10 năm kháng chiến, các nhà văn cũng đã nỗ lực chiếm hữu thực tại kháng chiến bằng sáng tạo nghệ thuật, ở những nét cốt yếu nhất, đẹp nhất.
4) SÁNG TÁC CHO QUẦN CHÚNG ĐỘC GIẢ CÁCH MẠNGTrong công cuộc đổi mới văn học nói trên, phần đóng góp của quần chúng độc giả không phải là nhỏ. Cách mạng tháng Tám và kháng chiến đã tạo điều kiện cho quảng đại quần chúng xô đổ bức tường vàng son từ trước vẫn ngăn cản họ không cho đột nhập vào lâu đài văn học. Họ đã ùa vào và đem theo vào đó những phong vị mới, những khao khát mới, những yêu cầu mới và cả những sinh lực mới nữa. Từ đó, quảng đại quần chúng cách mạng trở thành độc giả chính yếu, khán giả chính yếu mà các nhà sáng tác phải thỏa mãn nếu không muốn văn chương của mình vô dụng. Một vở kịch diễn trên một bãi cỏ làng trước mắt hàng ngàn nông dân già, trẻ, trai, gái, thành công hay thất bại là hoàn toàn do quần chúng khán giả này quyết định. Họ sẽ không phê bình bằng lý luận văn học, không phê bình bằng cách viết thư góp ý kiến với kịch sĩ và diễn viên, họ sẽ phê bình bằng hai chân họ: nếu vở kịch không đáp ứng đúng sự ước ao của họ, họ sẽ bỏ ra về ồn ào. Kịch sĩ và diễn viên sẽ phải suy nghĩ nhiều về sự bỏ ra về ấy. Một bài thơ đem ngâm trong một buổi liên hoan bộ đội sẽ được đánh giá ngay tại chỗ một cách giản dị: những nét mặt chăm chú hay bàng quan, những cặp mắt say mê hay lạnh nhạt, những tràng vỗ tay nồng nhiệt hay xã giao… của quần chúng nghe thơ là những điều mà thi sĩ không thể không lưu ý đến. Một tập tiểu thuyết đem đọc cho anh chị em công nhân nghe trong câu lạc bộ sẽ được phê bình bằng mọi cách rất thô sơ nhưng rất chân thật: hoặc những cái ngáp ngắn ngáp dài, hoặc những tiếng xuýt xoa thích thú; hoặc thái độ ngẩn ngơ của người nghe thấy truyện đã hết mà lòng xúc động chưa hết; hoặc thái độ uể oải mong kẻ đọc truyện mau mau giở đến trang cuối cùng cho chóng xong để được «sang trò văn nghệ khác».
Ở một mức cao hơn, các bài bích báo, các thư góp ý, các lời nhận xét thẳng thắn gửi trực tiếp đến nhà sáng tác, các bài phê bình đề ra thắc mắc và nghi vấn… đã làm thành một áp lực của quần chúng cách mạng đối với quá trình sáng tác của anh chị em nhà văn kháng chiến. Trong lịch sử văn học nước nhà, chưa bao giờ công chúng độc giả lại ảnh hưởng quyết định đến nhà văn bằng thời kỳ kháng chiến vừa qua. Đây là một nhân tố mới của một thời đại mới, thời đại của quần chúng lao động đang sáng tạo ra lịch sử một cách có ý thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại mới này, người tết những vành hoa quang vinh trên đầu các nhà văn không còn là bọn vua chúa phong kiến hay đám độc giả tư sản cá nhân chủ nghĩa mà là quần chúng cần lao đang có nhiệm vụ chấm dứt thời tiền sử của nhân loại, đưa con người bước vào lịch sử chân chính của mình. Văn học kháng chiến Việt-nam đã được sáng tạo ra với sự góp sức quyết định của lực lượng xã hội cách mạng ấy.
Bốn nhân tố nói trên đây đã làm ra tất cả những đặc thù của văn học Việt-nam sau Cách mạng tháng Tám, và đã phân biệt hẳn nền văn học này với nền văn học trước 1945.
Văn học Việt-nam sau 1945, căn bản, thuộc vào một phạm trù tư tưởng nghệ thuật hoàn toàn đối lập với phạm trù tư sản, tiểu tư sản Văn học Việt-nam sau 1945 thuộc vào phạm trù ý thức hệ xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản. Năm 1945 mở đầu thời hiện đại của lịch sử văn học Việt-nam.
Từ 1945 về sau, lịch sử văn học Việt-nam sẽ và chỉ phản ánh trung thành lịch sử thắng lợi từng bước của Cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo ngọn cờ chủ nghĩa Marx-Lénine .