Chương 3 TRÊN ĐƯỜNG TIẾN TỚI MỘT CƠ QUAN TÌNH BÁO THỐNG NHẤT
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, ngày mà quân đội Đức ào ạt tiến vào nước Nga, sau cuộc nói chuyện với Heydrich chừng hơn ba phút, tôi bước vào toà nhà trụ sở Cục VI để bắt đầu thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo cục. Tin đồn tôi được bổ nhiệm đã lan truyền trong cục mấy ngày nay. Một vài nhân viên nghiêm túc và có đầu óc đã chân thành chào mừng quyết định đó. Đại đa số những người còn lại có những tình cảm rất khác nhau: từ thất vọng ra mặt đến chờ đợi căng thẳng.
Trước tiên, tôi bắt tay vào giải quyết vấn đề sắp xếp lại nhân sự mà tôi suy nghĩ đã mấy tuần nay. Trong những ngày đầu tiên, trách nhiệm mới mà tôi chưa quen dồn lên đầu tôi nhiều đến mức cứ tối đến ngã vào giường, tôi mệt đến chết đi được. Tôi nhất quyết phải lập cho mình một thời gian biểu công tác mới. Trong những ngày đầu đặc biệt quan trọng với bản thân, tôi hiểu rằng, dù tôi đã đạt được mục đích mà tôi vươn tới suốt nhiều năm, nhưng trước mắt tôi là một nhiệm vụ hết sức phức tạp - cải tổ lại công tác tình báo ở nước ngoài trong lúc cuộc chiến trên hai mặt trận diễn ra khốc liệt. Gánh nặng trách nhiệm trên vai làm tôi lúng túng và bị ức chế, đôi khi tôi không biết phải bắt đầu từ đâu nữa. Công việc đầu tiên tôi cần làm là tìm ra một phong cách thích hợp trong việc chỉ đạo công việc hàng ngày của cục, rồi dần dần chuyển sang các vấn đề lớn hơn. Dĩ nhiên tôi đã suy nghĩ rất lâu về chúng và đã giải quyết được về mặt lý thuyết, nhưng các kết luận của tôi cũng không dễ gì ứng dụng trong thực tế.
Tôi hiểu rằng mình cần phải bình tâm cân nhắc mọi chuyện, vì thế tôi đã rời Berlin mấy ngày tới chỗ một người bạn thân của tôi, bác sỹ Melgorn. Ông có một kho kinh nghiệm lớn lao về các vấn đề kiểu này và trong thời gian ấy ông đang bắt tay xây dựng bộ máy hành chính quản lý các lãnh thổ miền đông. Tôi biết có thể thảo luận với ông các vấn đề của tôi và xin ông lời khuyên. Ông sống ở Poznan và hai chúng tôi cùng đến trang viên một người quen - một điền chủ người Ba Lan. Ba ngày đầu tôi không nhắc đến công việc và dành hoàn toàn thời gian để săn bắn, cưỡi ngựa và câu cá. Phong cảnh nông thôn với không gian thoáng đãng, cảnh đẹp của bình minh và hoàng hôn đã gieo vào lòng tôi sự bình yên cần thiết. Dưới bầu trời đêm bao la với những ngôi sao lấp lánh đằng đông, tôi như tự thân cảm nhận được hơi thở của đất, hít thở được hương thơm tươi mát sực nức của đất. Nhưng vẻ tuyệt diệu của mùa hè và nhịp diệu của thiên nhiên đã bị phá vỡ bởi hàng đàn máy bay đang bay ra mặt trận: chúng nhắc ta phải nhớ đến thực tế khốc liệt của cuộc chiến đang diễn ra. Nếu như không có chúng, tôi đã có thể thanh thản chìm đắm trong các suy tư riêng của mình.
Những vấn đề đặt ra cho tôi rất phức tạp và đa dạng. Thứ nhất, khác với Anh, ở Đức, hoạt động của Cơ quan Tình báo chưa bao giờ có được một truyền thống, và dĩ nhiên, không mấy ai hiểu được tình báo giải quyết những vấn đề phức tạp, nhưng quan trọng sống còn đến mức nào. Một nhược điểm quan trọng khác là sự thiếu vắng của một hệ thống các cơ quan tình báo thống nhất. Thay vào đó là rất nhiều các phòng ban hoạt động cản trở nhau. Điều đó là dẫn tới hiện tượng chồng chéo, trùng lặp, chi phí vô ích và thiếu hiệu quả trong công việc, gây ra sự xung đột chuyên môn và cá nhân không thể tránh khỏi. Cuối cùng là sự thiếu hụt nghiêm trọng những cán bộ được đào tạo chuyên môn.
Khi tôi thảo luận những vấn đề này và các phương án giải quyết chúng với bác sỹ Melgorn, ông tuyên bố rằng theo ý kiến của ông, tôi đánh giá hoàn toàn sai động cơ của Himmler và Heydrich. Điều duy nhất mà họ quan tâm là quyền lực. Melgorn tin họ sẽ vứt bỏ tôi một cách không thương xót ngay khi có những dấu hiệu thất bại đầu tiên. Tình thế này hoàn toàn không làm tôi phấn khởi, nhưng tôi đầy quyết tâm dồn mọi nỗ lực của mình và cảm nhận mình hoàn toàn có thể đảm trách được công việc và đồng thời tránh được mọi cạm bẫy.
Sau khi được nghỉ ngơi, được động viên bởi những cuộc trò chuyện với Melgorn, tôi trở về Berlin và bắt tay vào công việc. Chẳng bao lâu sau đã rõ là sự đánh giá của Melgorn hoàn toàn đúng. Heydrich, một con người luôn nghi ngờ tất cả, đã có thành kiến đối với tôi và luôn kiểm soát chặt chẽ mỗi bước của tôi, bày ra đủ mọi chướng ngại trên đường tôi đi. Lúc này tôi hiểu một con người có thể căm thù đố kỵ và âm mưu xấu xa đến mức độ nào. Đôi khi tôi cảm thấy mình như một đối tượng bị săn đuổi hơn là lãnh đạo của một cục. Điều duy nhất đem lại cho tôi sức lực để tiếp tục hoạt động của mình là sự hài lòng và thỏa mãn bởi chính công việc của mình.
Khi lãnh đạo Cục AMT-VI, tôi đã phát hiện ra rất nhiều thất thoát nghiêm trọng trong việc sử dụng ngoại tệ và quyết toán tài chính. Trách nhiệm về việc này thuộc về hàng loạt các nhân viên của cục, trong đó có những người lãnh đạo cũ của cục. Tôi lợi dụng dịp này yêu cầu tiến hành thanh tra tài chính trong cục. Tối muốn tiến hành một cuộc kiểm tra chi tiết để mình khỏi phải chịu trách nhiệm về sai lầm của những người tiền nhiệm.
Tiểu ban thanh tra gồm 8 quan chức cấp cao đứng đầu là một cố vấn cấp bộ. Dĩ nhiên tôi muốn tiểu ban chỉ giới hạn trong việc điều tra những vấn đề tài chính và thủ tục giấy tờ, nhưng khi phát hiện ra rằng sự thất thoát đã vượt xa tới mức đáng lo ngại, tôi tuyên bố mình sẵn sàng trực tiếp điều trần trước tiểu ban về mục đích các chi tiêu tài chính của Cơ quan Mật vụ trong chừng mực điều đó không làm tổn hại và đe doạ tới công việc của chúng tôi. Heydrich đã sử dụng ngay điều kiện này để đẩy mối nghi ngờ về phía tôi. Ông ta gợi ý cho người lãnh đạo tiểu ban chú ý đến các trường hợp mà tôi từ chối cung cấp thông tin chi tiết để khẳng định rằng dường như tôi cố tình che giấu sự vi phạm. Tôi gạt đòn đánh đó bằng cách đích thân thu thập mọi thông tin về các trường hợp như vậy và gửi riêng chúng cho Heydrich. Nét đặc biệt trong mối quan hệ giữa hai chúng tôi là mặc dù trong những ngày đó chúng tôi gặp nhau rất nhiều lần nhưng không một ai, cả tôi, cả Heydrich, thốt ra một lời về câu chuyện này. Khi trả lại các bản báo cáo mà Heydrich phải có nghĩa vụ xem xét chúng, ông ta cho tôi thấy rằng ông ta đánh giá cao phản đòn của tôi.
Có thể hình dung được rằng trong những hoàn cảnh ấy, việc thực hiện chương trình của tôi hay chiếm được lòng tin của người như Heydrich khó khăn phức tạp đến chừng nào, vì vậy tôi im lặng, không nói về những kế hoạch dài hạn của mình. Dù thế nào đi chăng nữa, những vấn đề liên quan đến bản thân công việc - tìm hiểu và giành lấy những thông tin bí mật - đã nhiều đến mức những biện pháp cấp thiết nhất trong chương trình của tôi có thể thực hiện không phụ thuộc vào việc Heydrich đánh giá ý nghĩa tổng thể của chúng. Ông ta cần tin tức đến mức phải trưng tôi ra trong vầng hào quang trước Hitler, Himmler, Goering và các nhà lãnh đạo khác. Khi đích thân trình bày với họ những báo cáo của Cơ quan Mật vụ, ông ta quan tâm tới việc gây ấn tượng đến mức tôi đã đạt được việc bắt ông ta trao cho tôi những quyền hạn, mà ở trường hợp khác chắc ông ta không bao giờ trao cho tôi. Vì thế tôi đã tổ chức được các phòng, ban liên lạc với các bộ ngành khác nhau và đòi được quyền tiếp xúc trực tiếp với các bộ trưởng, nếu như muốn thảo luận các vấn đề mà việc giải quyết chúng đòi hỏi phải có sự hiệp đồng đối với bộ ngành đó. Đó là thành tựu to lớn và tôi đã luôn sử dụng chúng khi có thể.
Trong khi đó tôi cũng hứng chịu những thất bại đầu tiên. Trong đó thất bại nguy hiểm nặng nề nhất là việc người Mỹ chiếm đảo Iceland mùa hè năm 1941. Canaris nói chung không có được thông tin nào về việc họ chuẩn bị chiến dịch. Tôi có gửi lên trên một tin báo từ Đan Mạch, mà tin này không thể coi là thật tin cậy. Nó bị để mặc trên bàn Himmler, và Hitler lần đầu tiên biết về sự việc xảy ra từ báo chí nước ngoài, mà lại còn chậm trễ nữa: Cơ quan Xử lý Tin tức Báo chí của Bộ Tuyên truyền hoạt động rất kém. Kết quả là tôi được lệnh phải thành lập các cơ quan thông tấn đặc biệt ở các nước trung lập. Điều đó không đơn giản và đòi hỏi phải thành lập một công ty xuất bản có thể tạo được mối liên hệ cần thiết với các nhà xuất bản ở Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha và các quốc gia trung lập khác. Hãng hàng không dân dụng Đức Lufthansa và văn phòng du lịch Trung Âu được sử dụng làm kênh liên lạc; đối với những trường hợp đặc biệt sẽ sử dụng các liên lạc viên đặc biệt.
Mất gần 6 tháng để thống nhất các hoạt động chồng chéo lẫn nhau một cách vô ích giữa các đơn vị bộ phận của Bộ Ngoại giao và Bộ Tuyên truyền mà trước đây chúng chỉ làm tăng thêm mức chi tiêu ngoại tệ.
Hai tháng sau khi được bổ nhiệm làm cục trưởng AMT-VI tôi đã ra một bị vong lục về nhiệm vụ của các cơ quan mật vụ chính trị ở nước ngoài. Tôi vạch rõ là trong chính trị, hoạt động ngân hàng, công nghiệp, nông nghiệp, nghệ thuật, văn học, âm nhạc… tồn tại những mỗi quan hệ đa dạng một mặt giữa nước Đức với các lãnh thổ mà nó chiếm đóng, mặt khác với các quốc gia trung lập hoặc đang giao tranh với chúng ta. Cơ quan Mật vụ phải quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ ở nước ngoài và thu thập thông tin từ đó.
Bị vong lục của tôi phải được coi là cơ sở cho mệnh lệnh của thống chế SS và bộ nội vụ Himmler ban hành đối với các đơn vị SS khác nhau và nhân viên trong bộ. Himmler tuyên bố rằng về nguyên tắc ông ta đồng ý với bị vong lục và sẵn sàng trình bày lại những ý tưởng của tôi trước ban lãnh đạo cao cấp SS và của đảng (Đảng Quốc xã). Ngoài ra mệnh lệnh của Himmler còn được gửi tới các bộ, ngành khác và trước hết đòi hỏi họ phải hợp tác với chúng tôi dưới hình thức đó.
Một lần vào buổi tối, khi đang ngồi làm việc, tôi nghe thấy chuông điện thoại: Heydrich mời tôi tới nói chuyện. Tôi ngỡ ngàng nhưng vẫn thu thập những giấy tờ cần thiết và lên xe tới phố Vielheihm Strasse. Thời gian này thành phố Berlin đẹp tuyệt vời; trong khi xe tôi chạy lòng vòng trên đường vành đai dài quanh thành phố, tôi đã kịp quên đi phần lớn những rắc rối của mình. Từ phố Kurfurstendam tôi rẽ về hướng Tisparen, dừng lại gần dinh thủ tướng uống cà phê và chuẩn bị tư tưởng cho cuộc đấu trí sắp tới.
Trụ sở chính của Heydrich trên phố Vielheihm Strasse thường nhốn nháo như một tổ ong. Vì thế tôi rất ngạc nhiên khi chỉ nhìn thấy một vài nhân viên mệt mỏi còng lưng trước cả núi công văn giấy tờ; tóm lại, cảnh rất bình lặng. Tôi luôn giữ mối quan hệ thân hữu với các trợ lý của Heydrich, và một người trong số họ thì thầm với tôi: “Sếp không có bụng dạ nào làm việc chiều nay cả.” Một buổi tối giao lưu quý tộc đang chờ đợi tôi, và tôi có thể đi vào hang hùm một cách hoàn toàn bình thản, nhưng chẳng bao lâu đã thấy là tôi sai lầm.
Khi tôi bước vào, đập ngay vào mắt là cảnh lộn xộn dường như Heydrich cố ý bày ra khi đang nghiên cứu một số giấy tờ nào đó. Nhận thấy tôi đang nhìn về phía mình, ông ta làm một cử chỉ quen thuộc - nhún vai một cách giận dữ, gạt đống giấy tờ sang một bên.
— Có việc gì rất quan trọng chăng? - Ông ta hỏi bằng một giọng đe doạ the thé.
— Không, không có gì đặc biệt - tôi đáp.
— Anh có thời gian ăn trưa với tôi không? - Heydrich hỏi.
Thực tế đó là mệnh lệnh.
Chúng tôi đi đến quán bar Idena và ăn trưa ở đó trong im lặng, bởi vì từ lâu tôi đã đặt cho mình một nguyên tắc là để cho Heydrich bắt đầu câu chuyện. Ngồi bàn bên cạnh là một quý bà tôi quen, thỉnh thoảng tôi liếc nhìn một cách thân thiện. Điều đó làm Heydrich, người không quen bà ta, ngạc nhiên, và sự tò mò bất ngờ ấy đã bắt ông ta hỏi kỹ xem bà ta là ai, chúng tôi quen nhau ở đâu và tôi đã quen bà ấy lâu chưa. Rồi ông ta bất thình lình thay đổi chủ đề câu chuyện và bắt đầu nói về công việc mà vì nó ông ta muốn gặp tôi.
Chúng tôi đã có một buổi trao đổi kéo dài và khó chịu về việc chuyển một số chức năng tế nhị và quan trọng nhất từ Cục VI của tôi sang cục của Muller. Heydrich đã sử dụng nguyên tắc của người xưa “chia để trị”. Tôi đồng ý với tất cả những gì ông ta nói, rồi ra vẻ kiên nhẫn và bình thản chỉ ra sự nguy hiểm khi chuyển giao một công việc quan trọng đến thế vào những bàn tay thô lỗ và thiếu kinh nghiệm. Sự đả kích và các lập luận của tôi đã gây được ấn tượng đối với ông ta. Heydrich ra lệnh cho tôi thu xếp vấn đề này với Muller; vấn đề đã được giải quyết. Sau đó là cuộc nói chuyện chi tiết về hoạt động của Cục ở những vùng lãnh thổ chiếm đóng và kết thúc bằng một giải pháp trung hòa hoàn toàn chấp nhận được cho phép tôi có được sự tự do nhất định. Nói chuyện xong, tôi lại phải tháp tùng Heydrich lượn khắp một vòng quanh các câu lạc bộ ban đêm và làm ra vẻ hài lòng tán thưởng câu chuyện ngu ngốc của ông ta với những người chủ quán bar, chủ các hộp đêm và các cô hầu bàn. Tất cả bọn họ điều biết mặt và sợ hãi ông ta, dù bề ngoài tỏ ra hết sức trung thành. Cuối cùng mãi 5 giờ sáng tôi mới được thả về nhà.
Ngày hôm sau, tôi phải trình bày cho Muller biết quyết định của Heydrich nhưng cũng phải mất cả tiếng đồng hồ Muller mới hiểu được rằng đòn tấn công của ông ta đã thất bại. Trong khi đó tôi không được để xảy ra sự tuyệt giao công khai; quan hệ giữa chúng tôi vốn đã rất căng thẳng, mà Muller là một kẻ không ngần ngại sử dụng mọi thủ đoạn phản trắc và tất cả những phương tiện mà ông ta có trong tay. Cuối cùng Muller bắt đầu nói lái sang tầm quan trọng và ý nghĩa của việc hợp tác cũng như tin tưởng lẫn nhau bằng một vẻ tin cậy và thân thiện. Thế mà ngay trong buổi họp lần sau của những nhà lãnh đạo các cục trong SD, ông ta đã bất ngờ, không một lời báo trước trút tội vào đầu tôi sau khi buộc tội một vài nhân viên của tôi là chểnh mảng và thiếu trung thực. Một trong những ví dụ ông ta dẫn ra thực tế đã chứng minh sai lầm tệ hại của chúng tôi. Ở Paris, cơ quan Ghestapo đã bắt một người gốc Mỹ La Tinh mang giấy tờ giả mạo do một văn phòng của tôi ở Bordeaux cung cấp. Những nhân viên ở đấy đã không kiểm tra kỹ người mà họ quan hệ và thế là một thành viên của một tổ chức bí mật Paris đang bị cảnh sát truy nã đã được nhận một nhiệm vụ quan trọng của tình báo Đức. Bất ngờ Heydrich đứng về phía tôi, có lẽ là do ông ta đã chán ngấy câu chuyện ấy:
— Những điều rủi ro tương tự như vậy cũng thường xảy ra trong cục của anh Muller. - Ông ta nói châm biếm - Có lần một nhân chứng quan trọng đã nhảy xuống tự tử từ cửa sổ tầng bốn. Và điều đó xảy ra không phải chỉ vì các nhân viên điều tra của anh ngủ gật trong khi làm việc mà còn bởi vì họ không nắm được những điều sơ đẳng của nghiệp vụ cảnh sát.
Lần này Muller bị đau thực sự và đã phải để tôi yên trong ba, bốn tuần.
Mọi người có thể muốn biết về phòng làm việc mà tôi sử dụng với tư cách là lãnh đạo của Cục Tình báo Đối ngoại trong Cơ quan Mật vụ Đức. Ngay đối diện cửa vào căn phòng làm việc lớn, đồ gỗ nội thất đẹp đẽ với tấm thảm dày sang trọng là một chiếc bàn viết lớn bằng gỗ hồng sắc. Vật giá trị nhất trong số đồ gỗ nội thất của căn phòng là một chiếc tủ kiểu cổ: trong đó lưu giữ các phiếu tra cứu của riêng tôi. Phía bên trái chiếc bàn là một chiếc bàn nhỏ có bánh xe, ở trên đặt các máy điện thoại và microphone cho phép tôi liên lạc trực tiếp với phủ thủ tướng của Hitler và các cơ quan quan trọng khác; còn có một máy điện thoại đặc biệt nối thẳng với ngôi nhà của tôi ở Berlin và biệt thự ở Gatsberg. Các microphone được bố trí ở khắp nơi: trong tường, dưới bàn, thậm chí trong một chiếc đèn, vì thế bất kỳ một âm thanh nào cũng tự động được ghi lại ngay. Các cửa sổ của phòng được bịt bằng lưới mắt cáo. Cuối cùng là một thiết bị của hệ thống an ninh có gắn các tế bào quang điện sẽ ngay lập tức phát tín hiệu báo động khi có ai đến gần cửa sổ, cửa ra vào, tủ bảo mật hoặc cố tìm cách đến gần bất kỳ vật nào trong phòng. Trong vòng 30 giây sau khi có tín hiệu, đội bảo vệ lập tức bao vây mục tiêu. Bàn làm việc của tôi là một pháo đài nhỏ. Trong bàn có bố trí hai khẩu súng máy có thể tưới đạn khắp phòng. Những khẩu súng máy này nhằm vào khách và chờ khi họ đến gần bàn. Khi cần thiết tôi chỉ cần ấn một nút và cả hai khẩu đồng thời nhả đạn. Tôi có thể ấn một chiếc nút khác và đội bảo vệ theo tín hiệu báo động lập tức bao vây toà nhà và chặn tất cả các lối ra.
Xe ôtô của tôi được trang bị điện đài cho phép trong vòng cự ly 25 dặm có thể đối thoại và đọc cho thư ký ghi chép. Khi đi công tác nước ngoài, theo quy định của một pháp lệnh đầu tiên có hiệu lực, người ta lắp cho tôi một chiếc răng giả trong chứa một liều thuốc độc có khả năng giết chết tôi trong vòng 30 giây nếu như tôi rơi vào tay kẻ thù. Để chắc chắn hơn, tôi còn mang một chiếc nhẫn có mặt đá màu xanh, dưới mặt đá có dấu một viên thuốc con nhộng nhỏ màu vàng chứa chất độc cyanide.